Cuối tháng 4 năm 1987, người ta chở bà Mary Houghton, 68 tuổi vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấ y tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám và xác nhận bà lão đã hồi sinh. Trường hợp bệnh nhân tắt thở vài giờ sau lại sống dậy không có gì lạ lùng với y giới nhưng bà Houghton đã nhớ lại những diễn tiến sau khi chết và kể lại như sau: "Tôi đang ngồi ở nhà đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Tôi lên tiếng gọi nhưng vô hiệu. Tôi mò mẫm đi trong lớp sương mù đó được một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã chết. Tôi biết mình mắc chứng đau tim đã lâu, bác sĩ nói rằng tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa nên tôi không lấy thế làm buồn. Ðiều bất ngờ là khi vừa chấp nhận điều này thì tôi thấy mình đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Sau một lúc xúc động tôi cố gắng trấn tĩnh và tự chủ rằng mình sống như thế cũng là đủ rồi. Trong khi xúc động thì luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi kéo vào một vũng bùn nhầy nhụa, hôi hám. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện thì thấy trong mình dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng hơn.
Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bỗng lên được. Tôi bèn để cho nó tự nhiên và thấy mình lơ lửng trên không nhìn xuống phía dưới. Lúc ở trên cao nhìn xuống, tôi thấy có một chùm chìa khoá màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thầm nghĩ ai lại để chìa khoá ở đó làm chi ? Ðang suy nghĩ vẫn vơ thì tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận đấu bóng rỗ trên ti-vi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics, và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim. Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào. Ða số có vẻ vội vã, có người hoảng hốt là đàng khác. Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác mình một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi. Vì một lý do gì không rõ, tôi hiểu ngay sự bận tâm của anh ta vì đã không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất bình tĩnh theo nên tôi đành bỏ anh ta ở đó mà đi chỗ khác. Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu. Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai thì thấy mình đang đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn việc chôn cất cho tôi. Thằng Michael phàn này về việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ.. Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể đọc rõ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó tôi càng bực bội vì hai đứa cứ cãi nhau mãi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi. Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Ðến lúc đó tôi mới bắt đầu nghĩ lại cuộc đời của mình. Hình như tôi đã sống một cách ích kỹ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu bóng. Tôi thấy rất rõ những quyết định của mình, những lỗi lầm mà tôi đã tạo ra. Những việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rõ rệt và phản ảnh tâm trạng của tôi khi đó; vì sao tôi đã hành động như vậy; tại sao tôi lại làm việc đó... Hơn bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước. Tôi không hiểu tại sao mình lại có thể bình tĩnh nhận xét như thế được. Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rõ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của mình. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất: Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng những điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống này. Chính vì tự hào mà tôi đã khoác lên mình những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lý trong mọi công việc. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đã làm? Chưa bao giờ tôi lại có ý nghĩ lạ lùng như vậy. Lần đầu tiên tôi hối hận một cách chân thành và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện.
Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng Ðế hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được các âm thanh quen thuộc. Tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh viện... Tôi đã tỉnh lại".
Lời khai của bà Houghton đã được bác sĩ Elizabeth Kubler Ross kiểm chứng rất kỹ. Hai nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có đánh cuộc với nhau về trận bóng rỗ, kết quả trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đã thuật lại. Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đã cãi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất. Ðiều bất ngờ là một bác sĩ trực đánh mất chùm chìa khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vã, ông đã ném đại nó lên nóc tủ thuốc. Chiếc tủ này rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đúng dưới đất không thể nhìn thấy nó được nên mặc dù tìm kiếm mãi mà vẫn không ai thấy... trừ khi họ đứng trên trần nhà nhìn xuống.
Nhiều người khi chết rồi sống lại đều xác nhận một trạng thái nhẹ nhàng, thanh thản trong một bầu ánh sáng trong suốt như pha lê. Tuy nhiên thế giới bên kia không phải chỉ là những bầu ánh sáng rực rỡ mà còn có sự tiếp xúc với những vong linh khác như trường hợp của Steve Buckley sau đây:
Bước qua cửa tử gặp người cậu đã chết
Steve Buckley là một tân binh vừa nhập ngũ. Anh được huấn luyện tại một căn cứ quân sự tại tiểu bang Carolinạ Trong buổi thực tập cách gài mìn, gỡ mìn thì một quả mìn đã nổ ngay gần chỗ anh đứng. Tuy thân thể không bị thương nhưng anh bị sức chấn động làm ngất đi và trút hơi thở cuối cùng trên đường đến bệnh viện. Mọi phương pháp làm hồi sinh đều vô hiệu. Khi đến bệnh viện, một y sĩ khám nghiệm xác nhận anh đã chết. Xác anh được quàn tạm trong nhà xác chờ thông báo cho thân nhân. Khoảng vài giờ sau đó, anh tỉnh dậy trước sự ngạc nhiên của mọi người. Sau đó anh đã thuật lại câu chuyện như sau:
"Tôi không hề ý thức gì về quả mìn nổ, tôi chỉ biết rằng bỗng dưng tất cả đều im lặng, một thứ im lặng tuyệt đối. Tôi lên tiếng gọi lớn nhưng không nghe ai đáp lại, cả sân tập bỗng trở nên vắng hoe, bao nhiêu bạn đồng ngũ bỗng biến đâu mất hết. Tôi đang phân vân chưa biết phải làm gì thì thấy có một người mặc đồng phục, tay cầm một cây dù đang đứng giữa bãi mìn. Tôi tự hỏi tại sao giữa quân trường lại có một thường dân đứng khơi khơi như vậy? Lúc đó trời quang đãng mà tại sao người này cầm dù? Người lạ nhìn tôi mỉm cười và rảo bước đến tôi. Tôi bèn la lớn để cảnh cáo rằng ông ta đang đi trên một bãi mìn nhưng chưa kịp nói thì ông ta đã đến sát bên cạnh. Ông ta lên tiếng bằng một giọng thân mật:
- Có phải cháu Steve đó không? Tôi là cậu Jules đây.
Rồi ông ta thân mật hỏi thăm về mọi người trong gia đình tôi như một người thân thuộc. Không nhữa ông ta biết rõ gia đình tôi mà còn biết đến cả con chó Bassette mà mẹ tôi rất cưng nữa. Linh tính báo cho tôi biết một sự chẳng lành. Tôi nhớ mang máng rằng mẹ tôi có một người em ruột đã chết từ lâu rồi kia mà. Ông Jules thong thả nói:
- Này cháu Steve, mẹ cháu nhớ cháu lắm đó. Hôm nay bà làm món lassagna, một món mà cháu rất thích ăn.
Tôi đâm ra bối rối:
- Làm sao ông biết được chứ?
Ông Jules mỉm cười một cách bí mật.
- Thế cháu có muốn về thăm nhà không?
Tôi ấp úng đáp:
- Làm sao có thể về được? Nhà tôi ở tận New York kia mà... Hơn nữa tôi đang thực tập quân sự, phải sáu tháng nữa mới được về phép.
Ông Jules mỉm cười nắm lấy tay tôi xiết chặt:
- Không sao đâu, cháu chỉ cần nghĩ đến mẹ cháu là được.
Tôi luống cuống không biết phải làm gì thì vừa vặn thấy thượng sĩ York đang đi gần đó, tôi bèn lên tiếng gọi nhưng ông này không nghe, cứ cắm cúi đi thẳng. Tôi vội chạy đến chặn đầu thượng sĩ York nhưng dường như ông ta không trông thấy tôi mà cứ tiếp tục đi. Ðến lúc đó ông Jules bước lại, ôn tồn khuyên:
- Ông ta không nhìn thấy cháu đâu. Cháu có muốn về thăm nhà không?
Sau một hồi thuyết phục, tôi bằng lòng và nghĩ đến mẹ tôi. Tự nhiên cảnh vật chung quanh đều thay đổi, tai tôi vẫn nghe giọng ông Jules ôn tồn:
- Cháu cứ bình tĩnh và tập trung tư tưởng để nghĩ đến mẹ cháu là được rồi.
Tôi thấy mình đang đứng trong nhà trước mặt mẹ tôi. Bà đang làm món lassagna thơm phức. Các em tôi đang ngồi xem ti-vi, chúng nói chuyện ồn ào và không chú ý gì đến sự hiện diện của tôi cả. Trong lúc xúc động tôi chạy đến ôm chầm lấy mẹ tôi nhưng bà vẫn thản nhiên nấu nướng, không hề biết gì. Ðến lúc đó tự nhiên tôi thấy lạnh mình. Lúc nãy thượng sĩ York cũng không hề thấy tôi.
Phải chăng tôi đã chết? Tôi vừa hoảng hốt thì chung quanh bỗng như tối sầm lại, dường như có một sức mạnh kỳ lạ nào đó lôi kéo tôi vào một lớp sương khói màu xám đục... Tôi chưa biết phải phản ứn như thế nào thì ông Jules đã đến bên cạnh. Khi đó tôi mới thấy hình như đứng cạnh ông, tôi thấy mình bình tĩnh hơn.
- Chuyện gì đã xảy ra cho tôi vậy? Tôi đã ra sao?
Ông Jules nắm lấy tay tôi trấn an và ôn tồn:
- Cháu đã về nhà rồi, có đúng không? Phải chăng là điều cháu vẫn ao ước trong suốt thời gian học tập quân sự? Tôi thắc mắc:
- Nhưng tại sao mọi người không ai nhìn thấy tôi hết? Tại sao tôi không thể nói chuyện với ai được?
Ông Jules thong thả giải thích:
- Cháu phải hiểu rằng cháu đã về nhà nhưng không bằng thể xác mà bằng một thể khác... Chính cái tư tưởng mong muốn trở về nhà trong suốt thời gian cháu học tập quân sự đã khiến cậu tìm đến gặp cháu để giúp cháu hoàn tất tâm nguyện trên.
Tôi thút thít khóc:
- Như vậy là cháu đã chết rồi phải không?
Ông Jules thong thả:
- Rồi cháu sẽ hiểu. Hiện nay cậu chỉ có thể cho cháu biết rằng cháu khôgn còn ở cái thế giới quen thuộc của cháu nữa... Nhưng cháu không nên phí thì giờ vô ích, cháu chẳng mong trở về thăm nhà hay sao? Tôi định thần nhìn quanh, cả nhà đã bắt đầu ngồi vào bàn ăn. Cha tôi vừa rót một ly rượu chát lớn, thong thả thưởng thức mùi vị trước khi ăn. Các em tôi đang cười đùa bàn tán về chương trình ti-vi mà chúng vừa xem. Mẹ tôi vừa cắt đĩa lassagna vừa lẩm bẩm:"Phải chi có thằng Steve ở đây, nó vẫn thích món này lắm!". Vì một lý do thầm kín nào đó, tôi đọc rõ tư tưởng của mẹ tôi và xúc động mạnh. Ông Jules giả thích:
- Ở cõi trần, người ta có thể nhận thức mọi vật bằng năm giác quan thông thường như nghe, nhìn, ngửi, nếm và sờ mó nhưng ở cõi này, các giác quan trên không còn sử dụng được nữa mà chỉ có tư tưởng mà thôi. Nếu cháu muốn tiếp xúc với mẹ cháu, cháu hãy tập trung tư tưởng gửi đến mẹ cháu những niềm yêu thương tốt đẹp nhất thì mẹ cháu sẽ nhận được.
Julia Vorobiova
Tại Lirkrain có một phụ nữ tên là Julia Vorobiova, bà là một phụ nữ bình thường giống như bao nhiêu phụ nữ khác, bà đã có gia đình, con cái đều đã khôn lớn. Chỉ có điều đặc biệt là vào năm 37 tuổi bà bị bất tỉnh nhân sự và bị chạm vào một đường dây điện cao thế. Người ta đưa bà vào nhà xác vì chắc chắn là bà không thể nào sống. Nhưng lạ lùng thay, chỉ mấy ngày sau bà Vorobiova tỉnh lại và suốt gần nửa năm trời, bà Vorobiova không thể nào ngủ được vì bà cảm thấy trong cơ thể bà có một sự chuyển biến lạ lùng. Não bộ bà như rự hòa quang và bà có cảm tưởng như người bà có một bình acquy lớn sôi sục điện năng.
Dần dần cơn cuồng loạn về ánh sáng và điện lực dịu dần, bà Vorobiova đã bắt đầu trở lại bình thường. Bà đã đi lại, ăn uống, ngủ và suy nghĩ, làm việc như bao người khác. Bà khỏe mạnh, bình tĩnh. Nhưng một hôm bà bỗng hốt hoảng vì vừa khám phá ra một điều vô cùng kỳ lạ là khi bà đến tiệm bán bánh mì. Hôm đó bà gặp một thiếu phụ đang đứng đợi xe buýt trước cửa tiệm bánh. Ðiều kinh ngạc là bà đã thấy toàn thể mọi cơ quan, bộ phận trong cơ thể của người thiếu phụ ấy. Có nghĩa rằng, bà Virobiova đã nhìn xuyên con người qua áo quần, da thịt họ. Bà sợ quá, dụi mắt nhiều lần nhưng lần nào bà cũng đều thấy như thế, ngay cả những người qua đường bà cũng đều thấy rõ ruột gan, tim phổi và cả những sợi gân, những mạch máu của họ.
Trở về nhà, tim bà còn đập mạnh vì hồi hộp. Bà không dám nhìn vào bất cứ vật gì vì bà luôn luôn thấy xuyên sâu vào mặt trong chứ không phải chỉ thấy ở dạng thể bên ngoài.
Nhưng rồi dần dần bà Vorobiova cũng bình tĩnh trở lại và bà tự nhiên cảm thấy vui thú và tự tin về khả năng kỳ lạ mà bà đã có được. Bà tự nghĩ "có lẽ Ðấng Tối Cao đã ban cho ta khả năng này với mục đích nào đó". Từ đó, bà lại hăng hái tò mò nhìn ngắm và tìm hiểu bất cứ những gì bà thấy. Bà đã nhiều lần làm cho những người hàng xóm ngạc nhiên vì bà Vorobiova đã chỉ cho họ tìm lại được những gì mà họ làm mất.... Có một lần bà đã giúp cho bác sĩ biết một cậu bé con nuốt nhầm một đồng xu vào bụng và bà vừa nhìn cậu bé vừa nói:
- Ðồng xu hiện đang nằm ở vị trí của đường vòng cuối dạ dày nối tiếp với ruột non.
Từ đó trở đi có nhiều người kéo đến nhà bà Vorobiova để xin bà giúp đở đủ chuyện: nào là tìm kiếm vật bị mất, tìm hài cốt của thân nhân bị thất lạc, định bệnh v.v...
Các phóng viên trong nước và ngoài nước đã nghe tin lạ về bà nên đã đến gặp bà để tìm hiểu.
Có lần nhà báo Nicolai Lixovencon đến gặp bà Vorobiova, chưa kịp đặc câu hỏi, bà đã hỏi ngược lại nhà báo:
- Ông có muốn tôi nói rõ là sáng nay ông đã dùng gì không? - Ồ! Nhà báo nói, rất hân hạnh.
- Bụng ông toàn là nước Kitxen mà thôi.
Nhà báo reo lên đầy thán phục.
- Ðúng! đúng! Thưa bà, sáng nay vội quá tôi chẳng kịp ăn thứ gì. Quả thật tôi rất ngạc nhiên về lời đoán của bà.
Càng ngày tin đồn về khả năng nhìn suốt mọi vật làm dân chúng khắp nơi ùn ùn kéo đến gặp bà càng ngày càng đông khiến chính quyền phải cắt cử những nhân viên an ninh đến khu vực bà ở để vãn hồi trật tự. Vô tình bà Vorobiova đã trở nên một nữ bác sĩ chẩn bệnh chính xác còn hơn cả máy chụp quang tuyến. Ðôi mắt của bà bây giờ không phải là đôi mắt của những con người bình thường nữa. Bà còn cho biết là mỗi lần đi dự tang lễ của một người nào là bà rất chán nản ngại ngùng vì bà không ngững thấy quan tài mà bà còn thấy cả xương thịt của người chết ngay trong áo quan, xuyên qua lớp ván và những vải liệm.
- Giờ đây cái đẹp nhân thế không còn nghĩa lý gì đối với tôi như trước đây nữa. Mọi vật tôi đều nhìn xuyên suốt chứ không còn thấy ở ngoại diện. Những cô gái đẹp, những hoa hậu đối với tôi dường như vô nghĩa nếu tôi nhìn lâu vào họ. Tất cả mọi vật rõ ràng là đầy vẻ giả tạo. Vì thế tôi nghĩ rằng thật buồn cười khi ta tô điểm son phấn đầy vẻ diêm dúa cũng chỉ là để che cái thực thể bên trong mà thôi.
Một người bạn của bà ta hỏi bà một câu như sau:
- Chị thấy ra sao khi trước mặt chị là một người đàn bà đã sửa sắc đẹp trên thân mình hay trên mặt họ.
- Ồ! Tôi thấy cả những vật thể để độn vú, độn mông, độn mũi, những chất để bơm vào da. Những vật thể này nằm dưới da thịt họ như những viên đá lăn lóc trên đường vậy....
Đạo Sư TraiLinGa
Các tư liệu sách vở cổ xưa của xứ Ấn đã ghi lại rất nhiều về những con người có những quyền năng lạ lùng như Ðại SưTrailinga một nhân vật phi thường có tuổi đời gần 300. Vị Ðại Sư này thường ăn rất ít, suốt ngày chỉ tham thiền nhập định trong một thiền viện nhỏ hẹp bằng đá và đất. Theo các tài liệu thu thập được của một tu sĩ thuộc phái Yoga tên là Yogananda, (một vị thiền sư nổi tiến của Ấn Ddộ) thì Ðại Sư Trailinga có nhiêu khả năng siêu phàm khó có ai tưởng tượng được như đi trên nước. Lặn sâu dưới nước mấy ngày vẫn không chết. Ðại Sư Trailinga còn có khả năng chữa được lành cho người bệnh nhất là bệnh nan y qua đôi tay của mình, nhiều người bệnh chỉ sờ vào đôi chân của Ðại Sư cũng đã thấy bệnh thuyên giảm do năng lựs siêu đẳng trong người của ông ta truyền sang.
Ðiều kỳ lạ là Ðại Sư Trailinga còn có thể uống bất cứ loại chất độc nào vào ngươì mà không sợ bị ngộ độc. Ngay cả những loại acid cực mạnh như loại acid nitrique đậm đặc cũng không làm miệng lưỡi gan ruột ông bị cháỵ Sự kiện vừa kể thật ra khá phổ biến ở Ấn Ðộ thời xưạ Như có lần một phái đoàn ngoại giao của tiểu vương Ranjit Singh đã qua thăm nước Anh. Trong chuyến công du ấy, nhà vua đã đem theo nhiều người có khả năng siêu phàm để giới thiệu những khả năng về huyền thuật của người Ấn Ðộ. Một đạo sĩ đã cho các nhà khoa học tại Ðại học nổi tiếng của nước Anh là Ðại Học Oxford chứng kiến tận mắt những chất độc, những chất vô cùng nguy hiểm lưu trữ cẩn thận tại một kho chứa của phòng thí nghiệm hóa học đều được các đạo sĩ này yêu cầu dùng thử. Ông đã uống một số lượng chất acid đậm đặc, khói bốc nghi ngút trước một số đông giáo sư và sinh viên khiến mọi người đều kinh ngạc.
Nhưng sự kiện làm cho các khoa học gia kinh ngạc hơn nữa là khi đạo sĩ này yêu cầu hãy đào một cái hố để chôn sống ông ta xuống đó trong khoảng 48 ngày. Lúc đầu các nhà khoa học Anh tỏ ý nghi ngờ nhất là các y bác sĩ tại các bệnh viện và các viện nghiên cứu y khoa. Những người này tỏ sự chống đối ra mặt. Khoa trưởng của một đại học Y đã phát biểu như sau:
- Chúng ta không nên phí phạm thì giờ vào những trò bịp bợm, ảo giác. Nhà khoa học chỉ nên nghiên cứu và tìm hiểu sự kiện đúng với tinh thần khoa học thực nghiệm. Chưa đến lúc chúng ta tìm hiểu những trò vô bổ, những điều thực hiện qua kỷ xảo của những ảo thuật gia, những Fakir...
Tuy nhiên khi tiểu vương Rajit Singh đoan chắc với chính phủ Anh là ông ta với thiện chí đã đem chút văn hóa, nghệ thuật và khả năng của người Ấn Ðộ nói riêng và Ðông Phương nói chung đến nước Anh và tuyệt nhiên không xử dụng bất cứ ma thuật nào thì viện trưởng Ðại Học Oxford đã gạt ra ngoài tai những chống đối vủa một số giáo sư, những nhà khoa học và yêu cầu vị đạo sĩ hãy thực hiện điều ông nói.
Trước tiên các nhà khoa học yêu cầu được phép khám nghiệm, kiểm tra thể chất, sức khoẻ đạo sĩ. Ðây là ý đồ của các nhà khoa học muốn xem thử vị đạo sĩ này có uống loại thuốc gì hay không. Bác sĩ Claude Wade đã được chỉ định để lo phần nàỵ Người ta đào một cái hố vừa đủ để thả chiếc quan tài mà trong đó vị đạo sĩ nằm duỗi tay chân như người đã chết. Nắp áo quan được đậy lại cẩn thận có niêm phong. Người ta ghi chú giờ bắt đầu hạ huyệt và lấp đất chôn vị đạo sĩ. Dĩ nhiên suốt mấy ngày đêm đều có người túc trực canh chừng cẩn mật. Ðối với nhóm người chống đối, họ còn cắt cử riêng những người của họ theo dõi vì biết đâu là đã có sự ngấm ngầm hổ trợ, giúp đỡ của chính những vị giáo sư hay các nhà khoa học cho phái đoàn Ấn vì lý do chính trị, tôn giáo hay có lợi về tiền bạc bởi tiểu vương Ranjit Singh nổi tiếng là một người hào sản?
Trong suốt 48 ngày tự chôn sống dưới đất qua sự kiểm tra nghiêm ngặt của các nhà khoa học, không ai nghĩ được rằng vị đạo sĩ kia sẽ còn sống khi mộ huyệt được khai quật.
Ðúng vào ngày thứ 48, vào lúc 11 giờ 20 phút trưa, Ủy Ban Khao Học, đại diện Ð.ai Học Oxford và rất nhiều nhân vật tay mắt của nước Anh đã có mặt tại địa điểm và hồi hộp theo dõi kết quả của một sự kiện đã gây sôi nổi dư luận trong nước. Khi nắp quan tài được bật mở, bác sĩ Claude Wade là người được phép quan sát trước tiên. Với ống nghe trong tay, vị bác sĩ này đã khám nghiệm xem thử vị đạo sĩ còn thở hay không. Chỉ mấy phút sau vừa lúc ông ta gục gặt đầu việc tỏ ý mọi việc vẫn tiến triển tốt nghĩa là vẫn còn nghe được nhịp thở và nhịp đập của tim thì vị đạo sĩ từ từ ngồi dậy ngay trong chiếc quan tài chưa kịp mang lên khỏi mộ huyệt. Mọi người lúc bấy giờ đều há hốc mồm, kinh ngạc. Như vậy, một con người bằng xương bằng thịt, chui vào trong áo quan đậy kỹ rồi đem chôn hơn một tháng rưỡi trời, không ăn không uống, không thở, không hoạt động...nhưng vẫn sống ? Ðiều này đối với khoa học có phải là chuyện vô lý giả tưởng hay không? Nhưng rõ ràng mọi sự đều diễn ra ngay trước mắt họ ?
Nguyên cứu hiện tượng tái sinh
Lịch sử về nguồn gốc của thuyết tái sanh thật quá lâu đời, có thể nói thuyết này xuất hiện từ khở thủy của nền văn minh nhân loại như Ðại Ðức Dhammananda đã phát biểu, tuy nhiên trước đây thuyết này vẫn bị nhiều người cho rằng đó chỉ là một thuyết hoàn toàn có tính cách tôn giáo mà thôi. Mãi đến sau này, các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà khoa học đã bắt đầu đi sâu vào lãnh vực tìm hiểu vấn đề tái sanh. Không ai tưởng tượng được một vấn đề lúc đầu được xem là có tính cách tôn giáo, siêu linh và có khi còn gọi là mơ hồ nữa lại đã và đang được vô số các nhà khoa học ở thế kỷ 20 đổ xô vào nghiên cứu, phần lớn họ là những nhà vật lý, những giáo sư, những bác sĩ, những nhà báo... Họ làm việc hết sức vô tư mà chủ đích là mong tìm được lời giải đáp cho vấn đề vì khắp nơi trên thế giới (chớ không riêng gì một nơi nào) hiện tượng luân hồi tái sinh mãi mãi diễn ra như luôn luôn thách thức và khêu gợi trí tò mò của họ.
Paris Match là tạp chí có tiếng không những ở nước Pháp mà còn khắp thế giới đã đăng tải câu chuyện lạ kỳ có thật của cô Ruth Simmons là nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sinh. Cô đã nhờ nhà thôi miên lỗi lạc là Morey Benstein giúp tìm lại tiền kiếp của mình. Sau những lần được đưa vào giấc ngủ thôi miên, cô Ruth Simmons đã thấy rõ từng giai đoạn thời gian mà cô đã trãi qua nhất là từ năm một tuổi đến năm mười tuổi. Cô mô tả tiền kiếp của mình một cách chi tiết. Cô cho biết, kiếp trước mình là một cô gái trẻ bình thường thuộc dòng họ Murphy người Ái Nhĩ Lan. Năm 1921 cô qua đời, nhưng năm 1923 cô mới lại tái sinh vào làm người con gái thuộc dòng họ Simmons với tên là Ruth tại Hoa Kỳ. Khi được hỏi tại sao cô qua đời năm 1921 nhưng tái sinh vào năm 1923 thì cô Ruth cho biết như sau: "Một người chết đi không chắc là được tái sinh liền mà đôi khi còn trải qua nhiều năm chờ đợi điều kiện thuận hợp cho sự đầu thai của mỗi linh hồn vì thế mà đôi khi có sự mất liên tục. Cô còn cho biết: "Sau khi được an táng, tôi chưa thể đầu thai trở lại nên phải ở tình trạng dật dờ vô định, trạng thái mà con người thường gọi là ma."
Ruth Simmons về sau rất nổi tiếng, các nước Âu Châu, Mỹ Châu rất thích đọc chuyện người đàn bà này vì chính cô ta là người nghiên cứu hiện tượng tâm linh siêu hình, vừa là người có kinh nghiện về những gì liên quan với lãnh vực ấy.
CON GÁI CON ÔNG CẢ HIÊU Ở CÀ MAU (VIỆT NAM)
Thượng Tọa Thích Thiện Hoa đã nêu lên một số bằng chứng về hiện tượng luân hồi, những bằng chứng nà được ghi lại trong cuốn Phật học Phổ Thông xuất bản tại Việt Nam vào cuối năm 1990. Sau đây là một trong những bằng chứng ấy:
Câu chuyện có thật này sảy ra tại làng Tân Việt ở Cà Mau (vùng Ðầm Giơi). Ở đây có một gia đình gồm hai vợ chồng và 3 người con. Người cha trong gia đình này là ông Cả Hiêu. Cô con gái trong gia đình được ông Cả Hiêu cưng chìu như trứng mỏng nhưng không may, cô bị bệnh và qua đời lúc 19 tuổi. Cả nhà ai cũng đau buồn thương xót, ông Cả Hiêu thì như điên như dại.
Câu chuyện không chấm dứt ở sự qua đời của cô gái mà lại là chuyện bắt đầu vì do sự trùng hợp nào đó, (mà sau này người trong hai vùng này mới tìm thấy thêm chi tiết). Ở cách làng Tân Việt cũng có một cô gái bị bệnh (cùng thời gian với cô con gái ông Cả Hiêu) và qua đời. Người nhà khóc lóc, lo việc tẩm liệm thì bất ngờ ngày hôm sau cô gái sống lại làm mọi người vừa mừng vừa sợ. Cô gái tự nhiên mạnh khỏe, như không có gì gọi là đau ốm bệnh hoạn cả. Ðiều lạ lùng là từ khi sống lại, cô gái này cứ một mực đòi người trong gia đình đưa cô đến nhà ông Cả Hiêu. Mọi người trong nhà đều hết sức ngạc nhiên vì không biết ông Cả Hiêu là ai. Khi hỏi cô gái thì cô cho biết cha của cô chính là ông Cả Hiêu người làng Tân Việt. Người nhà nghỉ rằng cô gái có lẽ bị ma nhập, quỷ ám nên lo sợ, đi tìm thầy về cúng và trừ tà. Nhưng cô gái vẫn khăng khăng đòi đi gặp cha mình và bảo rằng cô biết rõ đường đến nhà ông Cả Hiêu. Cô mô tả đường đi, tả ngôi làng, tả cái nhà, số nhà từng chi tiết và kể về những người nhà ông Cả Hiêu nữa. Cô gái bảo ông bà Cả Hiêu là cha mẹ ruột của mình. Cuối cùng cha mẹ cô gái buộc lòng phải cùng đi theo chuyến xe đò đến làng Tân Việt để tìm hiểu thực hư.
Khi đến bến xe, mọi người xuống xe còn đang bỡ ngỡ không biết đi theo hướng nào để về nhà ông Cả Hiêu thì cô gái nói: "Ðừng có ngại, để con dẫn đường cho". Thế rồi khi đến cổng nhà ông Cả Hiêu, cô gái tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng và chạy nhanh vào nhà. Lúc đó hai vợ chồng ông Cả Hiêu đang ngồi trong nhà. Cô gái chạy lại ôm chầm lấy ông Cả Hiêu vừa khóc vừa nói: "Ba ơi, con đây ba ơi!" Hai vợ chồng ông Cả Hiêu còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì sảy ra thì vừa lúc cha mẹ cô gái bước vào nhà kể lại chi tiết câu chuyện cho vợ chồng ông Cả Hiêu nghe. Ông Cả Hiêu lấy làm lạ, cũng kể lại cong gái mình bị bệnh đã qua đời cho cha mẹ cô gái nghe. Ông còn chỉ tay lên bàn thờ có đặt tấm ảnh của cô con gái con ông. Trong khi đó cô gái mới đến cứ đi lại trong nhà tự nhiên như là người đã ở đó từ lâu rồi.
Câu chuyện đến hồi kết thúc khi sự kiện đã rõ ràng; cô gái nhất quyết ông bà Cả Hiêu là cha mẹ mình và ông bà Cả Hiêu cũng chấp nhận điều đó vì cô gái nói rõ những chi tiết mà ngoài con gái ông Cả Hiêu ra khó có ai biết rõ chuyện gia đình ông bà. Thế là hai gia đình kết thân với nhau. Dân chúng hai vùng Cà Mau, Bạc Liêu biết được một chuyện lạ lùng hãn hữu trên thế gian, họ bảo cô gái ấy có hồn là con của ông bà người làng Tân Việt nhưng thân xác lại là con của ông bà người làng Vĩnh Mỹ.
NHÀ BÁO RAY BRYANT (ANH QUỐC)
Trong tạp chí Yêu (phát hành vào hạ tuần tháng 8 năm 1992 tại Hoa Kỳ) có đăng tải một câu chuyện có thật về những bằng chứng về tiền kiếp. Theo đó thì Ray Bryant là nhà báo người Anh, 44 tuổi tự nhiên nhớ lại tiền kiếp của mình rất rõ. Theo Ray Bryant thì khoảng năm 1855, anh ta là một trung sĩ tên là Reuben Stafford và đã tham dự nhiều trận đánh kinh hồn trong đó có trận Crimeé vô cùng khủng khiếp. Ðó là trận chiến dữ dội nhất giữa quân Nga và quân Anh, Pháp, Thổ. Trong trận này quân Anh bị quân Nga tiêu diệt 700 người. Trường hợp nhà báo Anh Ray Bryant nhớ lại tiền kiếp đã một thời làm xôn xao dư luận nước Anh.
Lúc bấy giờ chính Bộ Quốc Phòng Anh phải nhờ đến Ðại Tá John Bird đích thân tìm hiểu sự thật. Ðại Tá này đã cùng với một số sử gia lục lọi các tư liệu trong nha Văn Khố, Quốc Phòng Bảo Tàng Viện Chiến Tranh, các thư Viện Quốc Gia, các tài liệu xưa và đã đi đến kết luận là câu chuyện không phải bịa đặt vì họ đã tìm thấy tên của một trung sĩ tên là Reuben Stafford. Ðiều chính xác là qua giấc ngủ thôi miên, nhà báo Anh này còn cho biết tiền kiếp của mình là trung sĩ Stanfford, đã chết ở Sebastopol thì trong tài liệu tìm được tại Bảo Tàng Viện Chiến Tranh Anh Quốc cũng có sự kiện này. Ðó là chưa kể những trường hợp lạ lùng ăn khớp với nhau về những gì mà nhà báo Anh này đã mô tả vào thời đó: Nào là chuyện gia đình, đời sống trong quân đội, tên người chỉ huy, các loại súng, lương tiền và cả huy chương nữa.
BÉ GÁI JIMMY Ở CANADA
Jimmy là cháu của bà Emma Michell 82 tuổi sống ở British Columbia. Bà này đã kể lại cho nhà nghiên cứu về sự chết là Jeffrey Iverson câu chuyện dị kỳ có thật sau đây:
Một hôm, Jimmy đang ngồi chơi trong nhà thì bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung. Bé hỏi bà rằng: Tại sao không có gì mà tự nhiên chuông nhà thờ đổ, thì bà cho biết: Hôm nay có đám ma của một người địa phương đã qua đời. Bé Jimmy bỗng đứng dậy nhìn qua cửa sổ và nói:
- Bà biết không? Chính người chết ấy đã thuê người đánh đập con và liệng xác con xuống sông đó! Bà Emma ngạc nhiên về câu nói của đứa cháu gái, nên hỏi:
- Tại sao con lại thốt lên những lời kỳ dị ấy.
Bé Jimmy ngồi trên ghế rồi nói như phân trần:
- Ðể con kể cho bà nghe về chuyện một người cậu, ông cậu này là người đã bị người ta đánh đập dữ dội đến chết và thân xác ông đã được tìm thấy ở sông Bulkeley. Khi người này bị đánh chết và bị liệng xuống sông thì lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây con biết được mọi chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy!
Bà Emma nghe Jimmy nói thì vô cùng kinh ngạc và run sợ vì bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật trong gia đình bà có người bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xác xuống sông và lúc đó, đúng như lời cháu bà nói thì Jimmy chưa chào đời.
Ðiều cần lưu ý là gia đình giòng dõi của bà Emma Michell là một gia đình kiểu mẫu, nghiêm túc ở vùng Bắc Mỹ Châu, họ tin tưởng rằng con người khi chết vẫn có thể lại tái sinh và sự tái sinh ấy thường quay lại trong gia đình dòng họ.
CẬU BÉ PAULL TRAVEED
Câu chuyện có thật này xảy ra trong gia đình Traveed ở nước Pháp. Gia đình bà Traveed rất đau buồn vì sinh con hai lần nhưng lần nào đứa con mới chào đời được vài giờ cũng đều chết cả. Hai vợ chồng rất buồn. Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa đầy một năm sau khi đứa con thứ hai qua đời, bà Traveed lại chuyển bụng. Ðây là đứa con thứ ba. Cả hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi con trai hay con gái, con nào cũng được, miễn rằgn đứa bé ra đời mạnh khỏe sống lâu là hai vợ chồng vui sướng rồi.
Quả thật trời không phụ lòng họ, đứa con sinh ra lần này trông vui vẻ, khoẻ mạnh. Hai vợ chồng đặt tên cho con là Paul Traveed. Ðiều kỳ lạ chỉ có bà Traveed để ý theo dõi là trên ngực Paul có cái vết giống cái vết mà đứa con thứ hai của bà lúc chào đời cũng có. Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu xanh như vết chàm lên ngực đứa con đã chết này vì trong thâm tâm bà bà nghĩ rằng đứa con thứ hai này chết đi thì đứa con kế tiếp cũng có thể là nó sẽ lại ra đời. Bà Traveed làm dấu ấn như vậy để xem thử lần sinh thứ ba hài nhi ra đời có còn mang dấu vết ấy không, nếu không thì điều bà nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm màu xanh hiện rõ trên ngực đứa con thứ ba thì bà Traveed vô cùng lo lắng vội vã gọi chồng và nói:
- Anh ơi, xem này, thằng bé này cũng có dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đã làm lên ngực đứa con bất hạnh thứ hai của mình. Vậy cái dấu chấm này là gì? Có phải là dấu trước đây không? Hay là...Paul chính là đứa con thứ hai của mình? Ngoài ra thằng Paul lại còn có thêm một vết sẹo dài ở bắp đùi mà luc' sinh ra mình đã thấy đó. Người chồng nghe vợ nói thì chạy lại nhìn chăm chăm vào ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng hồng mơn mởn của Paul rõ ràng có một dấu chấm màu xanh.
Hai vợ chồng bà Traveed từ đó sống trong lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa con. Nhưng thế rồi suốt trong 12 năm dài đằng đẵng, Paul vẫn khoẻ mạnh, ăn ngủ, học hành, đi chơi bình thường như bao đứa trẻ khác. Ðiều kỳ lạ là mặc dầu còn trẻ con nhưng dáng dấp, cử chỉ, lời nói của Paul lại giống như người lớn. Thỉnh thoảng ngồi trước mặt mọi người trong gia đình, Paull thường phát biểu những câu mà không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó lại nói được những câu như thế.
Một hôm bé Paul hỏi mẹ:
- Mẹ à! Bên cạnh cửa ngở vườn nhà mình trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không còn. Vậy ai đã chặt nó vậy?
Bà Traveed vô cùng kinh ngạc khi nghe con nói câu đó vì thật sự cái cây mà con bà nhắc đến đã bị chồng bà đốn ngã trước khi Paul ra đời. Tuy vậy bà Traveed cũng lấy làm tò mò, bà hỏi Paull:
- Tại sao con lại biết cây này vì lúc ba con đốn ngã nó thì con chưa ra đời mà?
Paull nhăn mặt tỏ vẻ bực tức và nói:
- Tại sao ba lại đốn cây ấy đi?
Bà Traveed giải thích:
- À! là tại vì cây này dễ trở thành chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà.
Paul dằn từng tiếng rất rõ ràng:
- Trong số những kẻ trộm ấy có một đứa bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không? Ðứa bị đâm chết ấy tên là Jainqueville.
Bà Traveed vừa kinh ngạc vừa lo sợ. Hai tay bà ôm lấy ngực mồm há hốc, bà hỏi Paul dồn dập.
- Này con! Ai đã chỉ vẽ lời nói bậy bạ ấy cho con! Ai ? Nói cho mẹ biết đi...
Paul nói như phân bua:
- Việc này xảy ra đã lâu rồi má à! Con biết rõ điều này. Không ai kể cho con nghe hết. Con đã biết rõ sự việc là ba đã dùng dao đâm Jainqueville chết gục nơi gốc cây ấy. Jainqueville có một vết sẹo ở đùi.
Bà Traveed quá sợ hãi nên dùng tay che miệng con lại và nói:
- Thôi đi! Con nói nghe ghê quá! Ai dạy con nói thế? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé!
Paul vẫn tiếp tục nói có vẻ hằn học:
- Con phải nói; vì đó là sự thật. Con cũng có một vết sẹo ở bắp đùi mà ba má thường thấy đó.
Sau đó, Paul đợi người cha đi làm về và cũng nói tất cả những lời mà nó đã nói với mẹ mình. Tự nhiên ông Traveed lo sợ thấy rõ ràng. Ông có cảm tưởng như tên cướp Jainqueville đã nhập vào xác thân Paul để nói chuyện với ông. Từ đó ông ít khi tiếp xúc với đứa con. Trong khi đó Paul thường tỏ ra lầm lì. Thường ngày nó chỉ loay hoay chơi với một con dao nó mua ở đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông thấy con như vậy càng thêm lo sợ.
Thế rồi một hôm, Paul từ đâu không biết chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên: Paul, gì thế con, có việc gì xảy ra thế? Paul vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có viết chữ. Trong thư là lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi trường học tìm cách giết Paul để phi tang mọi chuyện.
Bà Traveed thấy rõ ràng chữ của chồng mình viết chớ không ai xa lạ. Bà sợ quá nói với Paul: Trời ơi! Sao lại có chuyện xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy? Vậy con cứ ở đây với mẹ, đừng đi đâu cả. Paul vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh giường mẹ. Sáng hôm sau, trời còn tinh mơ, bà Traveed tự nhiên choàng tỉnh dậy, bà không thấy Paul đâu. Hoảng hốt, bà xô cửa đi tìm, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ có người giúp việc chạy lên. Không nghe tiếng Paul cũng như ông Traveed lên tiếng trả lời. Bà Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paul. Cánh cửa mở tung, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra: Ông Traveed và thằng Paul đều nằm chết dưới sàn nhà, máu ra lênh láng. Nơi ngực ông Traveed, con dao mà thằng Paul thường mân mê hằng ngày cắm sâu đến tận cán.
Câu chuyện có thật trên đây đã được tờ báo của Pháp tên là Revua des Derx Mondes đăng tải vào năm 1889 và mới đây được tác giả Thiện Nhật lược thuật lại trong một đặc san Phật Ðản xuất bản tại Hoa Kỳ.
NGƯỜI THANH NIÊN TÊN MICHAEL WRIGHT
Walter Miller là một thanh niên bảnh trai có nhiều nhân tình. Tuy nhiên trong số các người tình, anh ta yêu nhất là cô gái bạn học cũ. Hai người yêu thương nhau rất mực. Không may, vào năm 1967, Walter Miller bị tai nạn xe hơi và qua đời . Cô gái nghe tin bất tỉnh mấy lần. Cô quên ăn bỏ ngủ, khóc lóc suốt ngày đêm. Thế rồi liên tiếp mấy đên liền cô ta nằm mơ thấy Walter Miller trở về đứng trước mặt cô nét mặt hớn hở và nói: "Em à! Anh sẽ trở lại với em!". Cô gái mỗi lần tỉnh giấc đều buồn chán vì nghĩ rằng đó chỉ là giấc mơ mà thôi vì không bao giờ người yêu của cô lại có thể trở về với cô một lần nữa. Walter Miller đã chết và nấm mồ anh đã bị phủ biết bao lần lá rụng mùa thu rồi.
Bốn năm sau cô gái lấy chồng và sinh hạ một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Micheal Wright. Khi đứa bé đúng 3 tuổi nó trở nên khôn lanh lạ lùng và nói chuyện như người lớn. Một hôm Micheal nói: "Con chính là Walter Miller. Cách đây khoảng ba bốn năm đã bị tai nạn xe hơi, chiếc xe lăn xuống dốc, cửa kính vở tan..." Sau đó, Michael kể hết tất cả những gì về mình, về cô nhân tình (giờ đây chính là mẹ của Micheal) và còn nói rõ tên người em gái của Micheal Miller nữa, đã mô tả rõ ràng thành phố mà Micheal Miller đã cùng người bạn dừng lại nghỉ ngơi trước khi tiếp tục lái xe lên đường rồi tai nạn chết người xảy ra... Câu chuyện này đã được tác giả Quỳnh Châu lược thuật lại trong Tiền Phong (1991-Hoa Kỳ).
SỰ TRỞ LẠI CỦA NGƯỜI CON GÁI ÚT
Vợ chồng anh chị T. Nh. (chồng người Mỹ, vợ người Việt) có một người con gái rất dễ thương nhưng không may cháu lại qua đời (ngày 2 tháng 2 năm 1992). Ðiều kỳ lạ là trước khi mất độ ba ngày, cô con gái này đã gọi điện thoại nói với mẹ là: "Mẹ đừng lo cho con, con lớn rồi, con sẽ trở lại sớm." Rồi cô con gái lại gọi tiếp:
- Ba mẹ à! Con sẽ là một người mới lạ mà chính ba mẹ sẽ không ngờ tới. Rất đặc biệt!
Hai vợ chồng anh chị T. Nh. không hiểu con gái nói gì lạ quá. Khi cô gái qua đời một tháng thì người cha là anh R. K. nằm mơ thấy cô con gái đứng trước mặt anh ta và nhắc lại một câu thật lạ lùng:
- Từ nay ba đừng ra thăm mộ con nữa vì con sắp đi rồi, con sẽ đầu thai lại vào tháng 11 tới đây.
Ðiều kỳ dị là đúng vào ngày 11 năm đó người con gái lớn thứ hai của anh chị T. Nh. bấy lâu có vẻ đăm chiêu tư lự bỗng nhiên trong bữa ăn tối đã nói với gia đình như sau:
- Ba mẹ ơi! Con đã có thai.
Ðối với bậc cha mẹ khi nghe con gái mình chưa tổ chức cưới hỏi mà thốt ra câu đó thì đều hốt hoảng, lo buồn nhưng đối với hai vợ chồng anh chị T. Nh. lại như bàng hoàng rung động theo một nỗi vui mừng khó tả. Người chồng (anh R. K.) đã nói với chị T. Nh:
- Anh biết cháu ngoại mình không ai khác hơn là con gái mình đã đầu thai lại.
Thế rồi hai vợ chồng anh chị T. Nh. lo chuẩn bị đám cưới gấp cho con gái. Hôn lễ cử hành ngày 27 tháng 12 năm 1992.
Khi cháu bé ra đời, càng ngày gương mặt cháu càng giốgn cô con gái của anh chị T. Nh. như đúc. Hàng ngày hai vợ chồng chị T. Nh. đi làm về là không còn muốn ngủ nữa, cứ lo bế ẵm bé vì đây không những là cháu ngoại họ mà còn là con gái muôn vàn mến yêu của họ nữa...
SỰ TRỞ LẠI CỦA NGƯỜI CHỒNG TIỀN KIẾP
Năm 1974 gia đình chị Lê Thị Khanh H. tổ chức lễ cưới cho chị rất linh đình tại một khách sạn lớn ở Sài Gòn. Hai vợ chồng chị đi Ðà Lạt để hưởng tuần trăng mật. Trên đường xe chạy đến Ðà Lạt chồng chị là anh L., một sĩ quan không quân, cứ nhắc đi nhắc lại một câu chuyện thật lạ lùng: "Ðây là lần cuối cùng tụi mình đến Ðà Lạt chơi". Chị Khanh H. bảo chồng đừng nói câu kỳ quặc đó nhưng anh ta cứ nói và còn bảo: "Em à! Lần đầu và lần cuối em à!"
Ngày trở về trong khi xe đang chạy thì tự nhiên một chiếc xe chở củi lớn ở bên đường chạy ra khiến chiếc xe chở hai vợ chồng chị Khanh H. phải quặt tay lái và lăn xuống cái dốc gần đó. Lạ lùng thay, chiếc xe chỉ nằm vắt ngang một thân cây to lớn ở sườn đồi. Chị Khanh H. không hề gì, chỉ xây xát mình mẩy nhưng người chồng chị lại bị thanh sắt ở phía trước đập mạnh vào phía lá gan nên bất tỉnh. Xe cứu thương cấp tốc chở hai vợ chồng về bệnh viện Sài Gòn. Bác sĩ cho biết anh L. khó sống, chỉ hy vọng còn chống chọi với tử thần độ một tuần lễ là nhiều. Chị Khanh H. khóc đến gần hết nước mắt. Chị không ngờ câu nói lạ lùng của người chồng mới cưới lại là một sự thật. Phải chăng đó là oan nghiệt, khổ đau, nghiệp chướng hay ma quỷ nhập?
Trong khi đó, anh L. khi tỉnh khi mê. Trước khi anh qua đời độ 3 ngày, tự nhiên anh L. tươi tỉnh hẳn lên, ngồi dậy ăn được và anh đòi ăn cháo cá. Trông anh có vẻ sảng khoái, vui vẻ, anh nắm tay chị Khanh H. và nói say sưa:
- Anh không chết đâu, em đừng lo. Mà nếu anh có chết thì chỉ có thể xác anh chết mà thôi vì anh sẽ quay về với em, sống với em mãi mãi. Tại sao chúng mình mới sống với nhau đã vội chia tay, tại sao lại có điều vô lý đắng cay đó?
Nói xong một hơi dài thì anh L. lại có vẻ mệt mỏi trở lại.
Ngày 10 tháng 12 năm 1974 lúc 1 giờ sáng, anh L. đang nằm thiêm thiếp bỗng ngồi nhỏm dậy nhìn quanh. Chị Khanh H. hốt hoảng chạy lại đỡ anh và hỏi:
- Sao anh trở dậy làm gì: Anh đi tiểu phải không?
Anh L. lắc đầu nói:
- Anh sắp xa em rồi. Nhưng em cứ tin tưởng rằng anh sẽ trở lại với em trong một thời gian không lâu. Lúc đó tuy em không thấy anh nhưng chính anh là người đó, anh quyết tâm thực hiện điều anh mong ước..."
Nói xong câu đó, anh L. từ từ nằm xuống có vẻ mệt lả và khoảng 4 giờ sáng thì anh trút hơi thở cuối cùng.
Chị Khanh H. khóc ngất và bất tỉnh nhiều lần tại bệnh viện. Người nhà và chính các y tá, bác sĩ ở bệnh viện đều biết về câu chuyện lạ lùng này, và ai cũng khuyên chị tin tưởng vào lời trăn trối của anh L..
Cha của chỉ Khanh H. là một người có đạo không tin chuyện đầu thai Luân Hồi nhưng mẹ của chị lại tin rằng người con rể của bà sẽ đầu thai trở lại.
Thời gian thấm thoát đã một năm qua. Năm 1975 người em gái của chị Kh. lên xe hoa về nhà chồng, và đến năm 1976 thì hạ sinh một cháu gái. Ðiều kỳ lạ là cháu bé này rất khôn ngoan. Mới 3 tuổi mà cháu đã nói được những câu như người lớn với lý luận rất rõ ràng. Chị Khanh H. cho biết tháng 3 năm 1980 chị quyết định vượt biên cùng với hai vợ chồng người em gái của chị.
Hôm chuẩn bị đồ đạc để đi, bỗng nhiên cháu bé nói cho cả nhà nghe:
- Nhớ đừng quên đem nước theo, tháng này đi biển êm nhưng thiếu nước cũng chết.
Nói xong cháu chạy vào phòng chị Khanh H. lấy cái bi đông nước của quân đội ra đưa cho chị Khanh H. và nói:
- Ðây là cái biđdông nước mà ngày xưa mình thường dùng khi về quê chơi chắc không ai còn nhớ. Vật kỷ niệm của mình mà. (Cái bi đông nước này là của anh L. mang về nhà)
Mọi người trong nhà đều ngạc nhiên. Riêng chị Khanh H. thì cảm thấy như có một luồng điện lạnh chạy từ chân tới đầu chị. Chị tự hỏi: Phải chăng anh L. đã đầu thai vào làm cháu gái của chị?
Mấy ngày sau có tin công an đi điều tra về vụ tổ chức vượt biên trong phường khiến mọi người lo sợ. Do đó, vợ chồng người em gái không dám vượt biên nữa. Trong khi chị Khanh H. vẫn giữ lập trường cương quyết. Một hôm, gần ngày lên đường, cháu bé chạy lại nói:
- Ðừng có lo, công an đi kiểm soát là mưu mô đó thôi, như vậy càng dễ đi, nếu không ai đi, cháu đi.
Vừa nói cháu vừa chuẩn bị đồ đạc cùng với chị Khanh H., cử chỉ chững chạc như người lớn.
Hôm xuống ghe hai vợ chồng của người em gái chị Khanh H., cứ ngập ngừng lo sợ, cuối cùng khi bước xuống ghe chỉ có chị và cháu bé đi thôi.
Khi ghe được kéo vào đảo Bi Ðông nằm trên cát tự nhiên cháu bé nói với chị Khanh H. giọng như người lớn:
- Nằm đây mà nhớ lại ngày xưa mình cùng nằm ngắm trời mây ở Vũng Tàu. Tự nhiên chị Khanh kinh ngạc, tại sao cháu bé lại nói điều kỳ lạ, chưa bao giờ bé đến Vũng Tàu. Vậy đó là lời nói của ai? Có phải là của chồng chị không? Vì kỷ niệm ấy không bao giờ phai trong trí chị, những ngày chưa cưới, chị và L. thường về Vũng Tàu nằm trên bãi cát ngắm biển và trời mấy. Khi qua Hoa Kỳ, càng ngày bé càng có những lời nói, cử chỉ hoàn toàn giống như chồng của chị Khanh H. ngày nào. Cho đến nay chị vẫn còn sống độc thân. Chị coi cháu gái ấy là nguồn sống độc nhất của chị, là niềm hy vọng của chị và cũng là toàn bộ những kỷ niệm của người chồng đáng thương của đời chị.
***Chị Khanh H. hiện giờ đang ở tại Florida với đứa cháu gái của chị.
ST
Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bỗng lên được. Tôi bèn để cho nó tự nhiên và thấy mình lơ lửng trên không nhìn xuống phía dưới. Lúc ở trên cao nhìn xuống, tôi thấy có một chùm chìa khoá màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thầm nghĩ ai lại để chìa khoá ở đó làm chi ? Ðang suy nghĩ vẫn vơ thì tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận đấu bóng rỗ trên ti-vi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics, và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim. Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào. Ða số có vẻ vội vã, có người hoảng hốt là đàng khác. Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác mình một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi. Vì một lý do gì không rõ, tôi hiểu ngay sự bận tâm của anh ta vì đã không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất bình tĩnh theo nên tôi đành bỏ anh ta ở đó mà đi chỗ khác. Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu. Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai thì thấy mình đang đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn việc chôn cất cho tôi. Thằng Michael phàn này về việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ.. Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể đọc rõ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó tôi càng bực bội vì hai đứa cứ cãi nhau mãi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi. Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Ðến lúc đó tôi mới bắt đầu nghĩ lại cuộc đời của mình. Hình như tôi đã sống một cách ích kỹ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu bóng. Tôi thấy rất rõ những quyết định của mình, những lỗi lầm mà tôi đã tạo ra. Những việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rõ rệt và phản ảnh tâm trạng của tôi khi đó; vì sao tôi đã hành động như vậy; tại sao tôi lại làm việc đó... Hơn bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước. Tôi không hiểu tại sao mình lại có thể bình tĩnh nhận xét như thế được. Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rõ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của mình. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất: Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng những điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống này. Chính vì tự hào mà tôi đã khoác lên mình những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lý trong mọi công việc. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đã làm? Chưa bao giờ tôi lại có ý nghĩ lạ lùng như vậy. Lần đầu tiên tôi hối hận một cách chân thành và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện.
Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng Ðế hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được các âm thanh quen thuộc. Tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh viện... Tôi đã tỉnh lại".
Lời khai của bà Houghton đã được bác sĩ Elizabeth Kubler Ross kiểm chứng rất kỹ. Hai nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có đánh cuộc với nhau về trận bóng rỗ, kết quả trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đã thuật lại. Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đã cãi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất. Ðiều bất ngờ là một bác sĩ trực đánh mất chùm chìa khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vã, ông đã ném đại nó lên nóc tủ thuốc. Chiếc tủ này rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đúng dưới đất không thể nhìn thấy nó được nên mặc dù tìm kiếm mãi mà vẫn không ai thấy... trừ khi họ đứng trên trần nhà nhìn xuống.
Nhiều người khi chết rồi sống lại đều xác nhận một trạng thái nhẹ nhàng, thanh thản trong một bầu ánh sáng trong suốt như pha lê. Tuy nhiên thế giới bên kia không phải chỉ là những bầu ánh sáng rực rỡ mà còn có sự tiếp xúc với những vong linh khác như trường hợp của Steve Buckley sau đây:
Bước qua cửa tử gặp người cậu đã chết
Steve Buckley là một tân binh vừa nhập ngũ. Anh được huấn luyện tại một căn cứ quân sự tại tiểu bang Carolinạ Trong buổi thực tập cách gài mìn, gỡ mìn thì một quả mìn đã nổ ngay gần chỗ anh đứng. Tuy thân thể không bị thương nhưng anh bị sức chấn động làm ngất đi và trút hơi thở cuối cùng trên đường đến bệnh viện. Mọi phương pháp làm hồi sinh đều vô hiệu. Khi đến bệnh viện, một y sĩ khám nghiệm xác nhận anh đã chết. Xác anh được quàn tạm trong nhà xác chờ thông báo cho thân nhân. Khoảng vài giờ sau đó, anh tỉnh dậy trước sự ngạc nhiên của mọi người. Sau đó anh đã thuật lại câu chuyện như sau:
"Tôi không hề ý thức gì về quả mìn nổ, tôi chỉ biết rằng bỗng dưng tất cả đều im lặng, một thứ im lặng tuyệt đối. Tôi lên tiếng gọi lớn nhưng không nghe ai đáp lại, cả sân tập bỗng trở nên vắng hoe, bao nhiêu bạn đồng ngũ bỗng biến đâu mất hết. Tôi đang phân vân chưa biết phải làm gì thì thấy có một người mặc đồng phục, tay cầm một cây dù đang đứng giữa bãi mìn. Tôi tự hỏi tại sao giữa quân trường lại có một thường dân đứng khơi khơi như vậy? Lúc đó trời quang đãng mà tại sao người này cầm dù? Người lạ nhìn tôi mỉm cười và rảo bước đến tôi. Tôi bèn la lớn để cảnh cáo rằng ông ta đang đi trên một bãi mìn nhưng chưa kịp nói thì ông ta đã đến sát bên cạnh. Ông ta lên tiếng bằng một giọng thân mật:
- Có phải cháu Steve đó không? Tôi là cậu Jules đây.
Rồi ông ta thân mật hỏi thăm về mọi người trong gia đình tôi như một người thân thuộc. Không nhữa ông ta biết rõ gia đình tôi mà còn biết đến cả con chó Bassette mà mẹ tôi rất cưng nữa. Linh tính báo cho tôi biết một sự chẳng lành. Tôi nhớ mang máng rằng mẹ tôi có một người em ruột đã chết từ lâu rồi kia mà. Ông Jules thong thả nói:
- Này cháu Steve, mẹ cháu nhớ cháu lắm đó. Hôm nay bà làm món lassagna, một món mà cháu rất thích ăn.
Tôi đâm ra bối rối:
- Làm sao ông biết được chứ?
Ông Jules mỉm cười một cách bí mật.
- Thế cháu có muốn về thăm nhà không?
Tôi ấp úng đáp:
- Làm sao có thể về được? Nhà tôi ở tận New York kia mà... Hơn nữa tôi đang thực tập quân sự, phải sáu tháng nữa mới được về phép.
Ông Jules mỉm cười nắm lấy tay tôi xiết chặt:
- Không sao đâu, cháu chỉ cần nghĩ đến mẹ cháu là được.
Tôi luống cuống không biết phải làm gì thì vừa vặn thấy thượng sĩ York đang đi gần đó, tôi bèn lên tiếng gọi nhưng ông này không nghe, cứ cắm cúi đi thẳng. Tôi vội chạy đến chặn đầu thượng sĩ York nhưng dường như ông ta không trông thấy tôi mà cứ tiếp tục đi. Ðến lúc đó ông Jules bước lại, ôn tồn khuyên:
- Ông ta không nhìn thấy cháu đâu. Cháu có muốn về thăm nhà không?
Sau một hồi thuyết phục, tôi bằng lòng và nghĩ đến mẹ tôi. Tự nhiên cảnh vật chung quanh đều thay đổi, tai tôi vẫn nghe giọng ông Jules ôn tồn:
- Cháu cứ bình tĩnh và tập trung tư tưởng để nghĩ đến mẹ cháu là được rồi.
Tôi thấy mình đang đứng trong nhà trước mặt mẹ tôi. Bà đang làm món lassagna thơm phức. Các em tôi đang ngồi xem ti-vi, chúng nói chuyện ồn ào và không chú ý gì đến sự hiện diện của tôi cả. Trong lúc xúc động tôi chạy đến ôm chầm lấy mẹ tôi nhưng bà vẫn thản nhiên nấu nướng, không hề biết gì. Ðến lúc đó tự nhiên tôi thấy lạnh mình. Lúc nãy thượng sĩ York cũng không hề thấy tôi.
Phải chăng tôi đã chết? Tôi vừa hoảng hốt thì chung quanh bỗng như tối sầm lại, dường như có một sức mạnh kỳ lạ nào đó lôi kéo tôi vào một lớp sương khói màu xám đục... Tôi chưa biết phải phản ứn như thế nào thì ông Jules đã đến bên cạnh. Khi đó tôi mới thấy hình như đứng cạnh ông, tôi thấy mình bình tĩnh hơn.
- Chuyện gì đã xảy ra cho tôi vậy? Tôi đã ra sao?
Ông Jules nắm lấy tay tôi trấn an và ôn tồn:
- Cháu đã về nhà rồi, có đúng không? Phải chăng là điều cháu vẫn ao ước trong suốt thời gian học tập quân sự? Tôi thắc mắc:
- Nhưng tại sao mọi người không ai nhìn thấy tôi hết? Tại sao tôi không thể nói chuyện với ai được?
Ông Jules thong thả giải thích:
- Cháu phải hiểu rằng cháu đã về nhà nhưng không bằng thể xác mà bằng một thể khác... Chính cái tư tưởng mong muốn trở về nhà trong suốt thời gian cháu học tập quân sự đã khiến cậu tìm đến gặp cháu để giúp cháu hoàn tất tâm nguyện trên.
Tôi thút thít khóc:
- Như vậy là cháu đã chết rồi phải không?
Ông Jules thong thả:
- Rồi cháu sẽ hiểu. Hiện nay cậu chỉ có thể cho cháu biết rằng cháu khôgn còn ở cái thế giới quen thuộc của cháu nữa... Nhưng cháu không nên phí thì giờ vô ích, cháu chẳng mong trở về thăm nhà hay sao? Tôi định thần nhìn quanh, cả nhà đã bắt đầu ngồi vào bàn ăn. Cha tôi vừa rót một ly rượu chát lớn, thong thả thưởng thức mùi vị trước khi ăn. Các em tôi đang cười đùa bàn tán về chương trình ti-vi mà chúng vừa xem. Mẹ tôi vừa cắt đĩa lassagna vừa lẩm bẩm:"Phải chi có thằng Steve ở đây, nó vẫn thích món này lắm!". Vì một lý do thầm kín nào đó, tôi đọc rõ tư tưởng của mẹ tôi và xúc động mạnh. Ông Jules giả thích:
- Ở cõi trần, người ta có thể nhận thức mọi vật bằng năm giác quan thông thường như nghe, nhìn, ngửi, nếm và sờ mó nhưng ở cõi này, các giác quan trên không còn sử dụng được nữa mà chỉ có tư tưởng mà thôi. Nếu cháu muốn tiếp xúc với mẹ cháu, cháu hãy tập trung tư tưởng gửi đến mẹ cháu những niềm yêu thương tốt đẹp nhất thì mẹ cháu sẽ nhận được.
Julia Vorobiova
Tại Lirkrain có một phụ nữ tên là Julia Vorobiova, bà là một phụ nữ bình thường giống như bao nhiêu phụ nữ khác, bà đã có gia đình, con cái đều đã khôn lớn. Chỉ có điều đặc biệt là vào năm 37 tuổi bà bị bất tỉnh nhân sự và bị chạm vào một đường dây điện cao thế. Người ta đưa bà vào nhà xác vì chắc chắn là bà không thể nào sống. Nhưng lạ lùng thay, chỉ mấy ngày sau bà Vorobiova tỉnh lại và suốt gần nửa năm trời, bà Vorobiova không thể nào ngủ được vì bà cảm thấy trong cơ thể bà có một sự chuyển biến lạ lùng. Não bộ bà như rự hòa quang và bà có cảm tưởng như người bà có một bình acquy lớn sôi sục điện năng.
Dần dần cơn cuồng loạn về ánh sáng và điện lực dịu dần, bà Vorobiova đã bắt đầu trở lại bình thường. Bà đã đi lại, ăn uống, ngủ và suy nghĩ, làm việc như bao người khác. Bà khỏe mạnh, bình tĩnh. Nhưng một hôm bà bỗng hốt hoảng vì vừa khám phá ra một điều vô cùng kỳ lạ là khi bà đến tiệm bán bánh mì. Hôm đó bà gặp một thiếu phụ đang đứng đợi xe buýt trước cửa tiệm bánh. Ðiều kinh ngạc là bà đã thấy toàn thể mọi cơ quan, bộ phận trong cơ thể của người thiếu phụ ấy. Có nghĩa rằng, bà Virobiova đã nhìn xuyên con người qua áo quần, da thịt họ. Bà sợ quá, dụi mắt nhiều lần nhưng lần nào bà cũng đều thấy như thế, ngay cả những người qua đường bà cũng đều thấy rõ ruột gan, tim phổi và cả những sợi gân, những mạch máu của họ.
Trở về nhà, tim bà còn đập mạnh vì hồi hộp. Bà không dám nhìn vào bất cứ vật gì vì bà luôn luôn thấy xuyên sâu vào mặt trong chứ không phải chỉ thấy ở dạng thể bên ngoài.
Nhưng rồi dần dần bà Vorobiova cũng bình tĩnh trở lại và bà tự nhiên cảm thấy vui thú và tự tin về khả năng kỳ lạ mà bà đã có được. Bà tự nghĩ "có lẽ Ðấng Tối Cao đã ban cho ta khả năng này với mục đích nào đó". Từ đó, bà lại hăng hái tò mò nhìn ngắm và tìm hiểu bất cứ những gì bà thấy. Bà đã nhiều lần làm cho những người hàng xóm ngạc nhiên vì bà Vorobiova đã chỉ cho họ tìm lại được những gì mà họ làm mất.... Có một lần bà đã giúp cho bác sĩ biết một cậu bé con nuốt nhầm một đồng xu vào bụng và bà vừa nhìn cậu bé vừa nói:
- Ðồng xu hiện đang nằm ở vị trí của đường vòng cuối dạ dày nối tiếp với ruột non.
Từ đó trở đi có nhiều người kéo đến nhà bà Vorobiova để xin bà giúp đở đủ chuyện: nào là tìm kiếm vật bị mất, tìm hài cốt của thân nhân bị thất lạc, định bệnh v.v...
Các phóng viên trong nước và ngoài nước đã nghe tin lạ về bà nên đã đến gặp bà để tìm hiểu.
Có lần nhà báo Nicolai Lixovencon đến gặp bà Vorobiova, chưa kịp đặc câu hỏi, bà đã hỏi ngược lại nhà báo:
- Ông có muốn tôi nói rõ là sáng nay ông đã dùng gì không? - Ồ! Nhà báo nói, rất hân hạnh.
- Bụng ông toàn là nước Kitxen mà thôi.
Nhà báo reo lên đầy thán phục.
- Ðúng! đúng! Thưa bà, sáng nay vội quá tôi chẳng kịp ăn thứ gì. Quả thật tôi rất ngạc nhiên về lời đoán của bà.
Càng ngày tin đồn về khả năng nhìn suốt mọi vật làm dân chúng khắp nơi ùn ùn kéo đến gặp bà càng ngày càng đông khiến chính quyền phải cắt cử những nhân viên an ninh đến khu vực bà ở để vãn hồi trật tự. Vô tình bà Vorobiova đã trở nên một nữ bác sĩ chẩn bệnh chính xác còn hơn cả máy chụp quang tuyến. Ðôi mắt của bà bây giờ không phải là đôi mắt của những con người bình thường nữa. Bà còn cho biết là mỗi lần đi dự tang lễ của một người nào là bà rất chán nản ngại ngùng vì bà không ngững thấy quan tài mà bà còn thấy cả xương thịt của người chết ngay trong áo quan, xuyên qua lớp ván và những vải liệm.
- Giờ đây cái đẹp nhân thế không còn nghĩa lý gì đối với tôi như trước đây nữa. Mọi vật tôi đều nhìn xuyên suốt chứ không còn thấy ở ngoại diện. Những cô gái đẹp, những hoa hậu đối với tôi dường như vô nghĩa nếu tôi nhìn lâu vào họ. Tất cả mọi vật rõ ràng là đầy vẻ giả tạo. Vì thế tôi nghĩ rằng thật buồn cười khi ta tô điểm son phấn đầy vẻ diêm dúa cũng chỉ là để che cái thực thể bên trong mà thôi.
Một người bạn của bà ta hỏi bà một câu như sau:
- Chị thấy ra sao khi trước mặt chị là một người đàn bà đã sửa sắc đẹp trên thân mình hay trên mặt họ.
- Ồ! Tôi thấy cả những vật thể để độn vú, độn mông, độn mũi, những chất để bơm vào da. Những vật thể này nằm dưới da thịt họ như những viên đá lăn lóc trên đường vậy....
Đạo Sư TraiLinGa
Các tư liệu sách vở cổ xưa của xứ Ấn đã ghi lại rất nhiều về những con người có những quyền năng lạ lùng như Ðại SưTrailinga một nhân vật phi thường có tuổi đời gần 300. Vị Ðại Sư này thường ăn rất ít, suốt ngày chỉ tham thiền nhập định trong một thiền viện nhỏ hẹp bằng đá và đất. Theo các tài liệu thu thập được của một tu sĩ thuộc phái Yoga tên là Yogananda, (một vị thiền sư nổi tiến của Ấn Ddộ) thì Ðại Sư Trailinga có nhiêu khả năng siêu phàm khó có ai tưởng tượng được như đi trên nước. Lặn sâu dưới nước mấy ngày vẫn không chết. Ðại Sư Trailinga còn có khả năng chữa được lành cho người bệnh nhất là bệnh nan y qua đôi tay của mình, nhiều người bệnh chỉ sờ vào đôi chân của Ðại Sư cũng đã thấy bệnh thuyên giảm do năng lựs siêu đẳng trong người của ông ta truyền sang.
Ðiều kỳ lạ là Ðại Sư Trailinga còn có thể uống bất cứ loại chất độc nào vào ngươì mà không sợ bị ngộ độc. Ngay cả những loại acid cực mạnh như loại acid nitrique đậm đặc cũng không làm miệng lưỡi gan ruột ông bị cháỵ Sự kiện vừa kể thật ra khá phổ biến ở Ấn Ðộ thời xưạ Như có lần một phái đoàn ngoại giao của tiểu vương Ranjit Singh đã qua thăm nước Anh. Trong chuyến công du ấy, nhà vua đã đem theo nhiều người có khả năng siêu phàm để giới thiệu những khả năng về huyền thuật của người Ấn Ðộ. Một đạo sĩ đã cho các nhà khoa học tại Ðại học nổi tiếng của nước Anh là Ðại Học Oxford chứng kiến tận mắt những chất độc, những chất vô cùng nguy hiểm lưu trữ cẩn thận tại một kho chứa của phòng thí nghiệm hóa học đều được các đạo sĩ này yêu cầu dùng thử. Ông đã uống một số lượng chất acid đậm đặc, khói bốc nghi ngút trước một số đông giáo sư và sinh viên khiến mọi người đều kinh ngạc.
Nhưng sự kiện làm cho các khoa học gia kinh ngạc hơn nữa là khi đạo sĩ này yêu cầu hãy đào một cái hố để chôn sống ông ta xuống đó trong khoảng 48 ngày. Lúc đầu các nhà khoa học Anh tỏ ý nghi ngờ nhất là các y bác sĩ tại các bệnh viện và các viện nghiên cứu y khoa. Những người này tỏ sự chống đối ra mặt. Khoa trưởng của một đại học Y đã phát biểu như sau:
- Chúng ta không nên phí phạm thì giờ vào những trò bịp bợm, ảo giác. Nhà khoa học chỉ nên nghiên cứu và tìm hiểu sự kiện đúng với tinh thần khoa học thực nghiệm. Chưa đến lúc chúng ta tìm hiểu những trò vô bổ, những điều thực hiện qua kỷ xảo của những ảo thuật gia, những Fakir...
Tuy nhiên khi tiểu vương Rajit Singh đoan chắc với chính phủ Anh là ông ta với thiện chí đã đem chút văn hóa, nghệ thuật và khả năng của người Ấn Ðộ nói riêng và Ðông Phương nói chung đến nước Anh và tuyệt nhiên không xử dụng bất cứ ma thuật nào thì viện trưởng Ðại Học Oxford đã gạt ra ngoài tai những chống đối vủa một số giáo sư, những nhà khoa học và yêu cầu vị đạo sĩ hãy thực hiện điều ông nói.
Trước tiên các nhà khoa học yêu cầu được phép khám nghiệm, kiểm tra thể chất, sức khoẻ đạo sĩ. Ðây là ý đồ của các nhà khoa học muốn xem thử vị đạo sĩ này có uống loại thuốc gì hay không. Bác sĩ Claude Wade đã được chỉ định để lo phần nàỵ Người ta đào một cái hố vừa đủ để thả chiếc quan tài mà trong đó vị đạo sĩ nằm duỗi tay chân như người đã chết. Nắp áo quan được đậy lại cẩn thận có niêm phong. Người ta ghi chú giờ bắt đầu hạ huyệt và lấp đất chôn vị đạo sĩ. Dĩ nhiên suốt mấy ngày đêm đều có người túc trực canh chừng cẩn mật. Ðối với nhóm người chống đối, họ còn cắt cử riêng những người của họ theo dõi vì biết đâu là đã có sự ngấm ngầm hổ trợ, giúp đỡ của chính những vị giáo sư hay các nhà khoa học cho phái đoàn Ấn vì lý do chính trị, tôn giáo hay có lợi về tiền bạc bởi tiểu vương Ranjit Singh nổi tiếng là một người hào sản?
Trong suốt 48 ngày tự chôn sống dưới đất qua sự kiểm tra nghiêm ngặt của các nhà khoa học, không ai nghĩ được rằng vị đạo sĩ kia sẽ còn sống khi mộ huyệt được khai quật.
Ðúng vào ngày thứ 48, vào lúc 11 giờ 20 phút trưa, Ủy Ban Khao Học, đại diện Ð.ai Học Oxford và rất nhiều nhân vật tay mắt của nước Anh đã có mặt tại địa điểm và hồi hộp theo dõi kết quả của một sự kiện đã gây sôi nổi dư luận trong nước. Khi nắp quan tài được bật mở, bác sĩ Claude Wade là người được phép quan sát trước tiên. Với ống nghe trong tay, vị bác sĩ này đã khám nghiệm xem thử vị đạo sĩ còn thở hay không. Chỉ mấy phút sau vừa lúc ông ta gục gặt đầu việc tỏ ý mọi việc vẫn tiến triển tốt nghĩa là vẫn còn nghe được nhịp thở và nhịp đập của tim thì vị đạo sĩ từ từ ngồi dậy ngay trong chiếc quan tài chưa kịp mang lên khỏi mộ huyệt. Mọi người lúc bấy giờ đều há hốc mồm, kinh ngạc. Như vậy, một con người bằng xương bằng thịt, chui vào trong áo quan đậy kỹ rồi đem chôn hơn một tháng rưỡi trời, không ăn không uống, không thở, không hoạt động...nhưng vẫn sống ? Ðiều này đối với khoa học có phải là chuyện vô lý giả tưởng hay không? Nhưng rõ ràng mọi sự đều diễn ra ngay trước mắt họ ?
Nguyên cứu hiện tượng tái sinh
Lịch sử về nguồn gốc của thuyết tái sanh thật quá lâu đời, có thể nói thuyết này xuất hiện từ khở thủy của nền văn minh nhân loại như Ðại Ðức Dhammananda đã phát biểu, tuy nhiên trước đây thuyết này vẫn bị nhiều người cho rằng đó chỉ là một thuyết hoàn toàn có tính cách tôn giáo mà thôi. Mãi đến sau này, các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà khoa học đã bắt đầu đi sâu vào lãnh vực tìm hiểu vấn đề tái sanh. Không ai tưởng tượng được một vấn đề lúc đầu được xem là có tính cách tôn giáo, siêu linh và có khi còn gọi là mơ hồ nữa lại đã và đang được vô số các nhà khoa học ở thế kỷ 20 đổ xô vào nghiên cứu, phần lớn họ là những nhà vật lý, những giáo sư, những bác sĩ, những nhà báo... Họ làm việc hết sức vô tư mà chủ đích là mong tìm được lời giải đáp cho vấn đề vì khắp nơi trên thế giới (chớ không riêng gì một nơi nào) hiện tượng luân hồi tái sinh mãi mãi diễn ra như luôn luôn thách thức và khêu gợi trí tò mò của họ.
Paris Match là tạp chí có tiếng không những ở nước Pháp mà còn khắp thế giới đã đăng tải câu chuyện lạ kỳ có thật của cô Ruth Simmons là nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sinh. Cô đã nhờ nhà thôi miên lỗi lạc là Morey Benstein giúp tìm lại tiền kiếp của mình. Sau những lần được đưa vào giấc ngủ thôi miên, cô Ruth Simmons đã thấy rõ từng giai đoạn thời gian mà cô đã trãi qua nhất là từ năm một tuổi đến năm mười tuổi. Cô mô tả tiền kiếp của mình một cách chi tiết. Cô cho biết, kiếp trước mình là một cô gái trẻ bình thường thuộc dòng họ Murphy người Ái Nhĩ Lan. Năm 1921 cô qua đời, nhưng năm 1923 cô mới lại tái sinh vào làm người con gái thuộc dòng họ Simmons với tên là Ruth tại Hoa Kỳ. Khi được hỏi tại sao cô qua đời năm 1921 nhưng tái sinh vào năm 1923 thì cô Ruth cho biết như sau: "Một người chết đi không chắc là được tái sinh liền mà đôi khi còn trải qua nhiều năm chờ đợi điều kiện thuận hợp cho sự đầu thai của mỗi linh hồn vì thế mà đôi khi có sự mất liên tục. Cô còn cho biết: "Sau khi được an táng, tôi chưa thể đầu thai trở lại nên phải ở tình trạng dật dờ vô định, trạng thái mà con người thường gọi là ma."
Ruth Simmons về sau rất nổi tiếng, các nước Âu Châu, Mỹ Châu rất thích đọc chuyện người đàn bà này vì chính cô ta là người nghiên cứu hiện tượng tâm linh siêu hình, vừa là người có kinh nghiện về những gì liên quan với lãnh vực ấy.
CON GÁI CON ÔNG CẢ HIÊU Ở CÀ MAU (VIỆT NAM)
Thượng Tọa Thích Thiện Hoa đã nêu lên một số bằng chứng về hiện tượng luân hồi, những bằng chứng nà được ghi lại trong cuốn Phật học Phổ Thông xuất bản tại Việt Nam vào cuối năm 1990. Sau đây là một trong những bằng chứng ấy:
Câu chuyện có thật này sảy ra tại làng Tân Việt ở Cà Mau (vùng Ðầm Giơi). Ở đây có một gia đình gồm hai vợ chồng và 3 người con. Người cha trong gia đình này là ông Cả Hiêu. Cô con gái trong gia đình được ông Cả Hiêu cưng chìu như trứng mỏng nhưng không may, cô bị bệnh và qua đời lúc 19 tuổi. Cả nhà ai cũng đau buồn thương xót, ông Cả Hiêu thì như điên như dại.
Câu chuyện không chấm dứt ở sự qua đời của cô gái mà lại là chuyện bắt đầu vì do sự trùng hợp nào đó, (mà sau này người trong hai vùng này mới tìm thấy thêm chi tiết). Ở cách làng Tân Việt cũng có một cô gái bị bệnh (cùng thời gian với cô con gái ông Cả Hiêu) và qua đời. Người nhà khóc lóc, lo việc tẩm liệm thì bất ngờ ngày hôm sau cô gái sống lại làm mọi người vừa mừng vừa sợ. Cô gái tự nhiên mạnh khỏe, như không có gì gọi là đau ốm bệnh hoạn cả. Ðiều lạ lùng là từ khi sống lại, cô gái này cứ một mực đòi người trong gia đình đưa cô đến nhà ông Cả Hiêu. Mọi người trong nhà đều hết sức ngạc nhiên vì không biết ông Cả Hiêu là ai. Khi hỏi cô gái thì cô cho biết cha của cô chính là ông Cả Hiêu người làng Tân Việt. Người nhà nghỉ rằng cô gái có lẽ bị ma nhập, quỷ ám nên lo sợ, đi tìm thầy về cúng và trừ tà. Nhưng cô gái vẫn khăng khăng đòi đi gặp cha mình và bảo rằng cô biết rõ đường đến nhà ông Cả Hiêu. Cô mô tả đường đi, tả ngôi làng, tả cái nhà, số nhà từng chi tiết và kể về những người nhà ông Cả Hiêu nữa. Cô gái bảo ông bà Cả Hiêu là cha mẹ ruột của mình. Cuối cùng cha mẹ cô gái buộc lòng phải cùng đi theo chuyến xe đò đến làng Tân Việt để tìm hiểu thực hư.
Khi đến bến xe, mọi người xuống xe còn đang bỡ ngỡ không biết đi theo hướng nào để về nhà ông Cả Hiêu thì cô gái nói: "Ðừng có ngại, để con dẫn đường cho". Thế rồi khi đến cổng nhà ông Cả Hiêu, cô gái tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng và chạy nhanh vào nhà. Lúc đó hai vợ chồng ông Cả Hiêu đang ngồi trong nhà. Cô gái chạy lại ôm chầm lấy ông Cả Hiêu vừa khóc vừa nói: "Ba ơi, con đây ba ơi!" Hai vợ chồng ông Cả Hiêu còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì sảy ra thì vừa lúc cha mẹ cô gái bước vào nhà kể lại chi tiết câu chuyện cho vợ chồng ông Cả Hiêu nghe. Ông Cả Hiêu lấy làm lạ, cũng kể lại cong gái mình bị bệnh đã qua đời cho cha mẹ cô gái nghe. Ông còn chỉ tay lên bàn thờ có đặt tấm ảnh của cô con gái con ông. Trong khi đó cô gái mới đến cứ đi lại trong nhà tự nhiên như là người đã ở đó từ lâu rồi.
Câu chuyện đến hồi kết thúc khi sự kiện đã rõ ràng; cô gái nhất quyết ông bà Cả Hiêu là cha mẹ mình và ông bà Cả Hiêu cũng chấp nhận điều đó vì cô gái nói rõ những chi tiết mà ngoài con gái ông Cả Hiêu ra khó có ai biết rõ chuyện gia đình ông bà. Thế là hai gia đình kết thân với nhau. Dân chúng hai vùng Cà Mau, Bạc Liêu biết được một chuyện lạ lùng hãn hữu trên thế gian, họ bảo cô gái ấy có hồn là con của ông bà người làng Tân Việt nhưng thân xác lại là con của ông bà người làng Vĩnh Mỹ.
NHÀ BÁO RAY BRYANT (ANH QUỐC)
Trong tạp chí Yêu (phát hành vào hạ tuần tháng 8 năm 1992 tại Hoa Kỳ) có đăng tải một câu chuyện có thật về những bằng chứng về tiền kiếp. Theo đó thì Ray Bryant là nhà báo người Anh, 44 tuổi tự nhiên nhớ lại tiền kiếp của mình rất rõ. Theo Ray Bryant thì khoảng năm 1855, anh ta là một trung sĩ tên là Reuben Stafford và đã tham dự nhiều trận đánh kinh hồn trong đó có trận Crimeé vô cùng khủng khiếp. Ðó là trận chiến dữ dội nhất giữa quân Nga và quân Anh, Pháp, Thổ. Trong trận này quân Anh bị quân Nga tiêu diệt 700 người. Trường hợp nhà báo Anh Ray Bryant nhớ lại tiền kiếp đã một thời làm xôn xao dư luận nước Anh.
Lúc bấy giờ chính Bộ Quốc Phòng Anh phải nhờ đến Ðại Tá John Bird đích thân tìm hiểu sự thật. Ðại Tá này đã cùng với một số sử gia lục lọi các tư liệu trong nha Văn Khố, Quốc Phòng Bảo Tàng Viện Chiến Tranh, các thư Viện Quốc Gia, các tài liệu xưa và đã đi đến kết luận là câu chuyện không phải bịa đặt vì họ đã tìm thấy tên của một trung sĩ tên là Reuben Stafford. Ðiều chính xác là qua giấc ngủ thôi miên, nhà báo Anh này còn cho biết tiền kiếp của mình là trung sĩ Stanfford, đã chết ở Sebastopol thì trong tài liệu tìm được tại Bảo Tàng Viện Chiến Tranh Anh Quốc cũng có sự kiện này. Ðó là chưa kể những trường hợp lạ lùng ăn khớp với nhau về những gì mà nhà báo Anh này đã mô tả vào thời đó: Nào là chuyện gia đình, đời sống trong quân đội, tên người chỉ huy, các loại súng, lương tiền và cả huy chương nữa.
BÉ GÁI JIMMY Ở CANADA
Jimmy là cháu của bà Emma Michell 82 tuổi sống ở British Columbia. Bà này đã kể lại cho nhà nghiên cứu về sự chết là Jeffrey Iverson câu chuyện dị kỳ có thật sau đây:
Một hôm, Jimmy đang ngồi chơi trong nhà thì bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung. Bé hỏi bà rằng: Tại sao không có gì mà tự nhiên chuông nhà thờ đổ, thì bà cho biết: Hôm nay có đám ma của một người địa phương đã qua đời. Bé Jimmy bỗng đứng dậy nhìn qua cửa sổ và nói:
- Bà biết không? Chính người chết ấy đã thuê người đánh đập con và liệng xác con xuống sông đó! Bà Emma ngạc nhiên về câu nói của đứa cháu gái, nên hỏi:
- Tại sao con lại thốt lên những lời kỳ dị ấy.
Bé Jimmy ngồi trên ghế rồi nói như phân trần:
- Ðể con kể cho bà nghe về chuyện một người cậu, ông cậu này là người đã bị người ta đánh đập dữ dội đến chết và thân xác ông đã được tìm thấy ở sông Bulkeley. Khi người này bị đánh chết và bị liệng xuống sông thì lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây con biết được mọi chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy!
Bà Emma nghe Jimmy nói thì vô cùng kinh ngạc và run sợ vì bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật trong gia đình bà có người bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xác xuống sông và lúc đó, đúng như lời cháu bà nói thì Jimmy chưa chào đời.
Ðiều cần lưu ý là gia đình giòng dõi của bà Emma Michell là một gia đình kiểu mẫu, nghiêm túc ở vùng Bắc Mỹ Châu, họ tin tưởng rằng con người khi chết vẫn có thể lại tái sinh và sự tái sinh ấy thường quay lại trong gia đình dòng họ.
CẬU BÉ PAULL TRAVEED
Câu chuyện có thật này xảy ra trong gia đình Traveed ở nước Pháp. Gia đình bà Traveed rất đau buồn vì sinh con hai lần nhưng lần nào đứa con mới chào đời được vài giờ cũng đều chết cả. Hai vợ chồng rất buồn. Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa đầy một năm sau khi đứa con thứ hai qua đời, bà Traveed lại chuyển bụng. Ðây là đứa con thứ ba. Cả hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi con trai hay con gái, con nào cũng được, miễn rằgn đứa bé ra đời mạnh khỏe sống lâu là hai vợ chồng vui sướng rồi.
Quả thật trời không phụ lòng họ, đứa con sinh ra lần này trông vui vẻ, khoẻ mạnh. Hai vợ chồng đặt tên cho con là Paul Traveed. Ðiều kỳ lạ chỉ có bà Traveed để ý theo dõi là trên ngực Paul có cái vết giống cái vết mà đứa con thứ hai của bà lúc chào đời cũng có. Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu xanh như vết chàm lên ngực đứa con đã chết này vì trong thâm tâm bà bà nghĩ rằng đứa con thứ hai này chết đi thì đứa con kế tiếp cũng có thể là nó sẽ lại ra đời. Bà Traveed làm dấu ấn như vậy để xem thử lần sinh thứ ba hài nhi ra đời có còn mang dấu vết ấy không, nếu không thì điều bà nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm màu xanh hiện rõ trên ngực đứa con thứ ba thì bà Traveed vô cùng lo lắng vội vã gọi chồng và nói:
- Anh ơi, xem này, thằng bé này cũng có dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đã làm lên ngực đứa con bất hạnh thứ hai của mình. Vậy cái dấu chấm này là gì? Có phải là dấu trước đây không? Hay là...Paul chính là đứa con thứ hai của mình? Ngoài ra thằng Paul lại còn có thêm một vết sẹo dài ở bắp đùi mà luc' sinh ra mình đã thấy đó. Người chồng nghe vợ nói thì chạy lại nhìn chăm chăm vào ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng hồng mơn mởn của Paul rõ ràng có một dấu chấm màu xanh.
Hai vợ chồng bà Traveed từ đó sống trong lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa con. Nhưng thế rồi suốt trong 12 năm dài đằng đẵng, Paul vẫn khoẻ mạnh, ăn ngủ, học hành, đi chơi bình thường như bao đứa trẻ khác. Ðiều kỳ lạ là mặc dầu còn trẻ con nhưng dáng dấp, cử chỉ, lời nói của Paul lại giống như người lớn. Thỉnh thoảng ngồi trước mặt mọi người trong gia đình, Paull thường phát biểu những câu mà không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó lại nói được những câu như thế.
Một hôm bé Paul hỏi mẹ:
- Mẹ à! Bên cạnh cửa ngở vườn nhà mình trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không còn. Vậy ai đã chặt nó vậy?
Bà Traveed vô cùng kinh ngạc khi nghe con nói câu đó vì thật sự cái cây mà con bà nhắc đến đã bị chồng bà đốn ngã trước khi Paul ra đời. Tuy vậy bà Traveed cũng lấy làm tò mò, bà hỏi Paull:
- Tại sao con lại biết cây này vì lúc ba con đốn ngã nó thì con chưa ra đời mà?
Paull nhăn mặt tỏ vẻ bực tức và nói:
- Tại sao ba lại đốn cây ấy đi?
Bà Traveed giải thích:
- À! là tại vì cây này dễ trở thành chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà.
Paul dằn từng tiếng rất rõ ràng:
- Trong số những kẻ trộm ấy có một đứa bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không? Ðứa bị đâm chết ấy tên là Jainqueville.
Bà Traveed vừa kinh ngạc vừa lo sợ. Hai tay bà ôm lấy ngực mồm há hốc, bà hỏi Paul dồn dập.
- Này con! Ai đã chỉ vẽ lời nói bậy bạ ấy cho con! Ai ? Nói cho mẹ biết đi...
Paul nói như phân bua:
- Việc này xảy ra đã lâu rồi má à! Con biết rõ điều này. Không ai kể cho con nghe hết. Con đã biết rõ sự việc là ba đã dùng dao đâm Jainqueville chết gục nơi gốc cây ấy. Jainqueville có một vết sẹo ở đùi.
Bà Traveed quá sợ hãi nên dùng tay che miệng con lại và nói:
- Thôi đi! Con nói nghe ghê quá! Ai dạy con nói thế? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé!
Paul vẫn tiếp tục nói có vẻ hằn học:
- Con phải nói; vì đó là sự thật. Con cũng có một vết sẹo ở bắp đùi mà ba má thường thấy đó.
Sau đó, Paul đợi người cha đi làm về và cũng nói tất cả những lời mà nó đã nói với mẹ mình. Tự nhiên ông Traveed lo sợ thấy rõ ràng. Ông có cảm tưởng như tên cướp Jainqueville đã nhập vào xác thân Paul để nói chuyện với ông. Từ đó ông ít khi tiếp xúc với đứa con. Trong khi đó Paul thường tỏ ra lầm lì. Thường ngày nó chỉ loay hoay chơi với một con dao nó mua ở đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông thấy con như vậy càng thêm lo sợ.
Thế rồi một hôm, Paul từ đâu không biết chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên: Paul, gì thế con, có việc gì xảy ra thế? Paul vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có viết chữ. Trong thư là lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi trường học tìm cách giết Paul để phi tang mọi chuyện.
Bà Traveed thấy rõ ràng chữ của chồng mình viết chớ không ai xa lạ. Bà sợ quá nói với Paul: Trời ơi! Sao lại có chuyện xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy? Vậy con cứ ở đây với mẹ, đừng đi đâu cả. Paul vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh giường mẹ. Sáng hôm sau, trời còn tinh mơ, bà Traveed tự nhiên choàng tỉnh dậy, bà không thấy Paul đâu. Hoảng hốt, bà xô cửa đi tìm, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ có người giúp việc chạy lên. Không nghe tiếng Paul cũng như ông Traveed lên tiếng trả lời. Bà Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paul. Cánh cửa mở tung, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra: Ông Traveed và thằng Paul đều nằm chết dưới sàn nhà, máu ra lênh láng. Nơi ngực ông Traveed, con dao mà thằng Paul thường mân mê hằng ngày cắm sâu đến tận cán.
Câu chuyện có thật trên đây đã được tờ báo của Pháp tên là Revua des Derx Mondes đăng tải vào năm 1889 và mới đây được tác giả Thiện Nhật lược thuật lại trong một đặc san Phật Ðản xuất bản tại Hoa Kỳ.
NGƯỜI THANH NIÊN TÊN MICHAEL WRIGHT
Walter Miller là một thanh niên bảnh trai có nhiều nhân tình. Tuy nhiên trong số các người tình, anh ta yêu nhất là cô gái bạn học cũ. Hai người yêu thương nhau rất mực. Không may, vào năm 1967, Walter Miller bị tai nạn xe hơi và qua đời . Cô gái nghe tin bất tỉnh mấy lần. Cô quên ăn bỏ ngủ, khóc lóc suốt ngày đêm. Thế rồi liên tiếp mấy đên liền cô ta nằm mơ thấy Walter Miller trở về đứng trước mặt cô nét mặt hớn hở và nói: "Em à! Anh sẽ trở lại với em!". Cô gái mỗi lần tỉnh giấc đều buồn chán vì nghĩ rằng đó chỉ là giấc mơ mà thôi vì không bao giờ người yêu của cô lại có thể trở về với cô một lần nữa. Walter Miller đã chết và nấm mồ anh đã bị phủ biết bao lần lá rụng mùa thu rồi.
Bốn năm sau cô gái lấy chồng và sinh hạ một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Micheal Wright. Khi đứa bé đúng 3 tuổi nó trở nên khôn lanh lạ lùng và nói chuyện như người lớn. Một hôm Micheal nói: "Con chính là Walter Miller. Cách đây khoảng ba bốn năm đã bị tai nạn xe hơi, chiếc xe lăn xuống dốc, cửa kính vở tan..." Sau đó, Michael kể hết tất cả những gì về mình, về cô nhân tình (giờ đây chính là mẹ của Micheal) và còn nói rõ tên người em gái của Micheal Miller nữa, đã mô tả rõ ràng thành phố mà Micheal Miller đã cùng người bạn dừng lại nghỉ ngơi trước khi tiếp tục lái xe lên đường rồi tai nạn chết người xảy ra... Câu chuyện này đã được tác giả Quỳnh Châu lược thuật lại trong Tiền Phong (1991-Hoa Kỳ).
SỰ TRỞ LẠI CỦA NGƯỜI CON GÁI ÚT
Vợ chồng anh chị T. Nh. (chồng người Mỹ, vợ người Việt) có một người con gái rất dễ thương nhưng không may cháu lại qua đời (ngày 2 tháng 2 năm 1992). Ðiều kỳ lạ là trước khi mất độ ba ngày, cô con gái này đã gọi điện thoại nói với mẹ là: "Mẹ đừng lo cho con, con lớn rồi, con sẽ trở lại sớm." Rồi cô con gái lại gọi tiếp:
- Ba mẹ à! Con sẽ là một người mới lạ mà chính ba mẹ sẽ không ngờ tới. Rất đặc biệt!
Hai vợ chồng anh chị T. Nh. không hiểu con gái nói gì lạ quá. Khi cô gái qua đời một tháng thì người cha là anh R. K. nằm mơ thấy cô con gái đứng trước mặt anh ta và nhắc lại một câu thật lạ lùng:
- Từ nay ba đừng ra thăm mộ con nữa vì con sắp đi rồi, con sẽ đầu thai lại vào tháng 11 tới đây.
Ðiều kỳ dị là đúng vào ngày 11 năm đó người con gái lớn thứ hai của anh chị T. Nh. bấy lâu có vẻ đăm chiêu tư lự bỗng nhiên trong bữa ăn tối đã nói với gia đình như sau:
- Ba mẹ ơi! Con đã có thai.
Ðối với bậc cha mẹ khi nghe con gái mình chưa tổ chức cưới hỏi mà thốt ra câu đó thì đều hốt hoảng, lo buồn nhưng đối với hai vợ chồng anh chị T. Nh. lại như bàng hoàng rung động theo một nỗi vui mừng khó tả. Người chồng (anh R. K.) đã nói với chị T. Nh:
- Anh biết cháu ngoại mình không ai khác hơn là con gái mình đã đầu thai lại.
Thế rồi hai vợ chồng anh chị T. Nh. lo chuẩn bị đám cưới gấp cho con gái. Hôn lễ cử hành ngày 27 tháng 12 năm 1992.
Khi cháu bé ra đời, càng ngày gương mặt cháu càng giốgn cô con gái của anh chị T. Nh. như đúc. Hàng ngày hai vợ chồng chị T. Nh. đi làm về là không còn muốn ngủ nữa, cứ lo bế ẵm bé vì đây không những là cháu ngoại họ mà còn là con gái muôn vàn mến yêu của họ nữa...
SỰ TRỞ LẠI CỦA NGƯỜI CHỒNG TIỀN KIẾP
Năm 1974 gia đình chị Lê Thị Khanh H. tổ chức lễ cưới cho chị rất linh đình tại một khách sạn lớn ở Sài Gòn. Hai vợ chồng chị đi Ðà Lạt để hưởng tuần trăng mật. Trên đường xe chạy đến Ðà Lạt chồng chị là anh L., một sĩ quan không quân, cứ nhắc đi nhắc lại một câu chuyện thật lạ lùng: "Ðây là lần cuối cùng tụi mình đến Ðà Lạt chơi". Chị Khanh H. bảo chồng đừng nói câu kỳ quặc đó nhưng anh ta cứ nói và còn bảo: "Em à! Lần đầu và lần cuối em à!"
Ngày trở về trong khi xe đang chạy thì tự nhiên một chiếc xe chở củi lớn ở bên đường chạy ra khiến chiếc xe chở hai vợ chồng chị Khanh H. phải quặt tay lái và lăn xuống cái dốc gần đó. Lạ lùng thay, chiếc xe chỉ nằm vắt ngang một thân cây to lớn ở sườn đồi. Chị Khanh H. không hề gì, chỉ xây xát mình mẩy nhưng người chồng chị lại bị thanh sắt ở phía trước đập mạnh vào phía lá gan nên bất tỉnh. Xe cứu thương cấp tốc chở hai vợ chồng về bệnh viện Sài Gòn. Bác sĩ cho biết anh L. khó sống, chỉ hy vọng còn chống chọi với tử thần độ một tuần lễ là nhiều. Chị Khanh H. khóc đến gần hết nước mắt. Chị không ngờ câu nói lạ lùng của người chồng mới cưới lại là một sự thật. Phải chăng đó là oan nghiệt, khổ đau, nghiệp chướng hay ma quỷ nhập?
Trong khi đó, anh L. khi tỉnh khi mê. Trước khi anh qua đời độ 3 ngày, tự nhiên anh L. tươi tỉnh hẳn lên, ngồi dậy ăn được và anh đòi ăn cháo cá. Trông anh có vẻ sảng khoái, vui vẻ, anh nắm tay chị Khanh H. và nói say sưa:
- Anh không chết đâu, em đừng lo. Mà nếu anh có chết thì chỉ có thể xác anh chết mà thôi vì anh sẽ quay về với em, sống với em mãi mãi. Tại sao chúng mình mới sống với nhau đã vội chia tay, tại sao lại có điều vô lý đắng cay đó?
Nói xong một hơi dài thì anh L. lại có vẻ mệt mỏi trở lại.
Ngày 10 tháng 12 năm 1974 lúc 1 giờ sáng, anh L. đang nằm thiêm thiếp bỗng ngồi nhỏm dậy nhìn quanh. Chị Khanh H. hốt hoảng chạy lại đỡ anh và hỏi:
- Sao anh trở dậy làm gì: Anh đi tiểu phải không?
Anh L. lắc đầu nói:
- Anh sắp xa em rồi. Nhưng em cứ tin tưởng rằng anh sẽ trở lại với em trong một thời gian không lâu. Lúc đó tuy em không thấy anh nhưng chính anh là người đó, anh quyết tâm thực hiện điều anh mong ước..."
Nói xong câu đó, anh L. từ từ nằm xuống có vẻ mệt lả và khoảng 4 giờ sáng thì anh trút hơi thở cuối cùng.
Chị Khanh H. khóc ngất và bất tỉnh nhiều lần tại bệnh viện. Người nhà và chính các y tá, bác sĩ ở bệnh viện đều biết về câu chuyện lạ lùng này, và ai cũng khuyên chị tin tưởng vào lời trăn trối của anh L..
Cha của chỉ Khanh H. là một người có đạo không tin chuyện đầu thai Luân Hồi nhưng mẹ của chị lại tin rằng người con rể của bà sẽ đầu thai trở lại.
Thời gian thấm thoát đã một năm qua. Năm 1975 người em gái của chị Kh. lên xe hoa về nhà chồng, và đến năm 1976 thì hạ sinh một cháu gái. Ðiều kỳ lạ là cháu bé này rất khôn ngoan. Mới 3 tuổi mà cháu đã nói được những câu như người lớn với lý luận rất rõ ràng. Chị Khanh H. cho biết tháng 3 năm 1980 chị quyết định vượt biên cùng với hai vợ chồng người em gái của chị.
Hôm chuẩn bị đồ đạc để đi, bỗng nhiên cháu bé nói cho cả nhà nghe:
- Nhớ đừng quên đem nước theo, tháng này đi biển êm nhưng thiếu nước cũng chết.
Nói xong cháu chạy vào phòng chị Khanh H. lấy cái bi đông nước của quân đội ra đưa cho chị Khanh H. và nói:
- Ðây là cái biđdông nước mà ngày xưa mình thường dùng khi về quê chơi chắc không ai còn nhớ. Vật kỷ niệm của mình mà. (Cái bi đông nước này là của anh L. mang về nhà)
Mọi người trong nhà đều ngạc nhiên. Riêng chị Khanh H. thì cảm thấy như có một luồng điện lạnh chạy từ chân tới đầu chị. Chị tự hỏi: Phải chăng anh L. đã đầu thai vào làm cháu gái của chị?
Mấy ngày sau có tin công an đi điều tra về vụ tổ chức vượt biên trong phường khiến mọi người lo sợ. Do đó, vợ chồng người em gái không dám vượt biên nữa. Trong khi chị Khanh H. vẫn giữ lập trường cương quyết. Một hôm, gần ngày lên đường, cháu bé chạy lại nói:
- Ðừng có lo, công an đi kiểm soát là mưu mô đó thôi, như vậy càng dễ đi, nếu không ai đi, cháu đi.
Vừa nói cháu vừa chuẩn bị đồ đạc cùng với chị Khanh H., cử chỉ chững chạc như người lớn.
Hôm xuống ghe hai vợ chồng của người em gái chị Khanh H., cứ ngập ngừng lo sợ, cuối cùng khi bước xuống ghe chỉ có chị và cháu bé đi thôi.
Khi ghe được kéo vào đảo Bi Ðông nằm trên cát tự nhiên cháu bé nói với chị Khanh H. giọng như người lớn:
- Nằm đây mà nhớ lại ngày xưa mình cùng nằm ngắm trời mây ở Vũng Tàu. Tự nhiên chị Khanh kinh ngạc, tại sao cháu bé lại nói điều kỳ lạ, chưa bao giờ bé đến Vũng Tàu. Vậy đó là lời nói của ai? Có phải là của chồng chị không? Vì kỷ niệm ấy không bao giờ phai trong trí chị, những ngày chưa cưới, chị và L. thường về Vũng Tàu nằm trên bãi cát ngắm biển và trời mấy. Khi qua Hoa Kỳ, càng ngày bé càng có những lời nói, cử chỉ hoàn toàn giống như chồng của chị Khanh H. ngày nào. Cho đến nay chị vẫn còn sống độc thân. Chị coi cháu gái ấy là nguồn sống độc nhất của chị, là niềm hy vọng của chị và cũng là toàn bộ những kỷ niệm của người chồng đáng thương của đời chị.
***Chị Khanh H. hiện giờ đang ở tại Florida với đứa cháu gái của chị.
ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét