Trang

TG . CÁC ĐÀN CHIẾU MINH

Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2011

Thế kỷ 21, con người sẽ nói chuyện bằng tâm linh

Truyền tin nhanh hơn ánh sáng từ lâu là niềm mơ ước của nhân loại: Truyền không qua phương tiện tải (như sóng điện từ), theo một cơ chế thần bí kiểu như cảm ứng tâm linh... Khoa học kỹ thuật nay đã cung cấp cho ta cơ chế này. 

Đó chính là ảnh hưởng lượng tử phi định vực hay ảnh hưởng lượng tử siêu quang tốc. Phương thức thông tin thực hiện theo cơ chế thần bí đó gọi là thông tin lượng tử siêu quang tốc.

“Cảm ứng tâm linh” giữa các hạt cơ bản

Thuyết tương đối và lượng tử lực học là những phát kiến vĩ đại nhất của vật lý học thế kỷ 20, không chỉ giúp con người có được những lý giải sâu sắc chưa từng có về thế giới tự nhiên mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật do chúng tạo ra như phát minh ra tia laser, sự xuất hiện của máy tính điện tử… đã làm thay đổi cuộc sống của con người.

Tuy nhiên, thuyết tương đối và lượng tử lực học lại không thể “chung sống hoà hợp” được. Trong khi thuyết tương đối không thừa nhận bất cứ một sự vận động vật chất hay truyền tải tin tức nào nhanh hơn tốc độ ánh sáng, thì lượng tử học lại thừa nhận sự tồn tại của một loại ảnh hưởng siêu quang tốc thần bí.

Theo thuyết lượng tử học, giữa các hạt cơ bản hút nhau (như điện tử, quang tử…) tồn tại một quan hệ siêu quang tốc. Nếu chúng ta tiến hành tác động lên một hạt trong đó, hạt kia sẽ lập tức “cảm ứng” được những ảnh hưởng này và sẽ có những thay đổi tương ứng mà không phụ thuộc vào khoảng cách giữa chúng.

Tư duy nhanh hơn ánh sáng

Thực hiện thông tin siêu quang tốc bằng “ý thức”! Nghe có vẻ ngoài sức tưởng tượng, nhưng đây là một việc rất tự nhiên, vì rốt cuộc chỉ có ý thức mới nhận biết được nội dung thông tin.

Các nhà khoa học đã tiến hành một số thí nghiệm chứng minh trong não người tồn tại sự ảnh hưởng của lượng tử siêu quang tốc. Trong đó nổi bật nhất là thí nghiệm mới đây của GS Grinberg Zylberbaum:

Hai người tham gia thí nghiệm, sau khi làm quen với nhau được đưa vào hai “lồng Faraday” (chắn sóng điện từ) đóng kín, cách nhau 14,5 m. Một thiết bị ghi lại điện não đồ của họ. Các nhà khoa học phát hiện, khi một người trong số họ bị kích thích bằng các chớp sáng và ở vào trạng thái bị kích động đặc biệt thì người kia cũng có những biểu hiện chuyển dịch giống như trong tư thế bị kích động.

Vì hai người đã được cách ly nhau qua lồng Faraday nên thí nghiệm đã loại được những ảnh hưởng của trường sinh học, từ đó chứng minh một cách nghiêm túc rằng, giữa hai người tham gia thí nghiệm đã có một sự liên hệ và ảnh hưởng lẫn nhau với những đặc trưng của lượng tử siêu quang tốc.

Phương thức truyền tin của tương lai

So với cách truyền tin truyền thống, thông tin lượng tử siêu quang tốc có nhiều ưu điểm mà người ta vẫn mơ ước. Trước hết, thời gian truyền tin bằng 0, vì vậy nó là cách truyền tin nhanh nhất. Thứ hai, nó không chịu ảnh hưởng của bất kỳ yếu tố nào trong môi trường giữa hai đối tượng thông tin, do đó chống nhiễu tuyệt đối.

Thứ ba, loại bỏ hoàn toàn khả năng nghe trộm, trở thành phương thức thông tin đảm bảo bí mật tốt nhất. Và cuối cùng, nó là phương thức thông tin bảo vệ môi trường tốt nhất, không có bất kỳ sự ô nhiễm bức xạ điện từ nào.

Trong tương lai, khi con người thám hiểm không gian vũ trụ rộng lớn, những hạn chế của thông tin truyền thống sẽ cản trở rất nhiều. Ví như khi con tàu vũ trụ đến được một hành tinh cách trái đất 1 năm ánh sáng, thì thông tin vô tuyến giữa trái đất và hành tinh đó sẽ kéo dài tới hai năm hay hơn, như vậy thông tin vô tuyến hiện nay sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa.

Thông tin siêu quang tốc rõ ràng sẽ trở thành phương thức thông tin chủ đạo trong tương lai.

(Theo Khoa Học và Đời Sống)




Đối thoại với vong nhân
(Buổi gọi hồn cô Clary M...)
Diễn giải : Cô Clary đã từng là một cô bé đáng yêu, cô mất năm 1850 khi mới 13 tuổi. Và từ đó cô trở thành thần minh hộ mệnh của gia đình, nơi thường tổ chức các buổi gọi hồn cô. Khi đó, cô thường có những cuộc đối thoại rất lý thú. Cuộc đối thoại giữa cô và chúng tôi dưới đây diễn ra vào ngày 12 tháng 1 năm 1857, qua trung gian là anh trai của cô với tư cách là đồng tử.

* * *
Hỏi: Cô có còn giữ được chính xác kỷ niệm nào về sự tồn tại của mình ở thế giới vật chất không? 

Trả lời: Linh hồn nhìn thấy quá khứ hiện tại và một phần tương lai tuỳ theo mức độ hoàn thiện và gần với chúa Trời của mình.

Hỏi: Đòi hỏi về sự hoàn thiện ấy chỉ liên quan đến nhìn thấy tương lai hay còn liên quan đến cả hiện tại và quá khứ? 

Trả lời: Linh hồn nhìn thấy tương lai rõ ràng hơn khi càng gần với Chúa Trời. Sau khi chết, linh hồn nhìn thấy bao quát toàn bộ những lần đầu thai trước, tất nhiên chỉ thấy những gì Chúa trời muốn. Do đó, linh hồn phải hoàn toàn theo Chúa Trời sau những lần đầu thai

Hỏi: Cô có thể cho biết khi nào cô sẽ đầu thai không? 

Trả lời: Trong vòng 10 hoặc 100 năm tới.

Hỏi: Cô sẽ đầu thai lại thế giới này hay một thế giới khác? 

Trả lời: Một thế giới khác.

Hỏi: Thế giới mà cô tới có những điều kiện giống như trái đất không hay tốt hơn hoặc xâú hơn? 

Trả lời: Thế giới đó tốt hơn nhiều, ở đó mọi người đều hạnh phúc,.

Hỏi: Vì cô đang ở đây với chúng tôi, cô có ở một nơi xác định không, và đó là chỗ nào? 

Trả lời: tôi đang có vẻ ngoài là làn khí thanh khiết, và có thể nói rằng linh hồn tôi có thể trải ra rất rộng, và nhìn thấy nhiều điều. Tôi di chuyển tới đây với vận tốc của ý nghĩ. Hiện tôi đang đứng bên phải anh tôi và điều khiển tay anh ấy.

Hỏi: Với bề ngoài là thanh khí, cô có còn các cảm giác mang tính vật lý không ví như cảm giác nóng lạnh chẳng hạn? 

Trả lời: Khi tôi quá nhớ đến thân thể của mình, tôi có một cảm giác gần như là người ta vừa cởi bỏ một chiếc áo khoác nặng nề, và tin rằng vẫn sẽ phải mặc lại nó vài lần nữa.

Hỏi: Cô vừa nói rằng cô di chuyển với vận tốc của suy nghĩ ; vậy ý nghĩ phải chăng chính là linh hồ tự giải thoát khỏi vỏ bọc của mình? 

Trả lời: Đúng như vậy.

Hỏi: Khi ý nghĩ của cô đi đến một nơi nào đó, linh hồn của cô sẽ tự phân tách như thế nào? 

Trả lời: Bề ngoài sẽ tan rã, chỉ có ý nghĩ là di chuyển.

Hỏi: Như vậy đó là năng lực tự phân tách, bản thể vẫn ở lại nơi của nó? Trả lời: Hình dạng không phải là bản thể.

Hỏi: Vậy ý nghĩ sẽ hoạt động như thế nào, chẳng phải nó vẫn luôn cần có trung gian là vật chất hay sao? Trả lời: Không phải như vậy.

Hỏi: Khi suy nghĩ phân tách và di chuyển, chẳng phải là cô sẽ không còn hoạt động qua trung gian là vật chất đó sao? 

Trả lời: thanh khí phân rã đi sẽ tụ lại nơi ý nghĩ đi đến.

Hỏi: Cô mất khi mới 13 tuổi, vì sao cô có thể trả lời các câu hỏi hết sức trừu tượng này với những lời nói ngoài khả năng của một đứa trẻ lứa ở tuổi đó? 

Trả lời: Linh hồn của tôi rất già dặn.

Hỏi: Cô có thể kể lại cho chúng tôi, trong những lần cô đầu thai, lần nào cô là người có hiểu biết nhất? 

Trả lời: Khi tôi là một người đàn ông rất đạo mạo, sau đó tôi đã được đầu thai thành một cô bé mà nét mặt thể hiện cả tâm hồn trong sáng. Thương Đế đã bù trừ cho tôi.

Hỏi: Có thể nào chúng tôi nhìn thấy cô bây giờ không? 

Trả lời: Các ông sẽ làm được điều đó

Hỏi: Làm thế nào để chúng tôi có thể nhìn thấy? Điều đó phụ thuộc vào chúng tôi,vào cô hay vào những người bí mật nào nữa? 

Trả lời: Phụ thuộc vào các ông.

Hỏi: Chúng tôi sẽ phải đáp ứng những điều kiện gì để có được khả năng đó? 

Trả lời: Các ông cần trầm tư một lúc với lòng nhiệt thành, nhưng đừng đến đông quá và mời tới đây một đồng tử như ông Home.



ST



NGƯỜI TỰ SÁT TẠI SAMARITAINE
***

Vừa qua các báo chí đều đưa tin về câu chuyện như sau : « Vào khoảng 7 giờ tối ngày 7 tháng 4 năm 1859, tại doanh nghiệp Samaritaine có một người đàn ông trạc 50 tuổi, ăn vận lịch sự đến thuê phòng tắm. Khoảng 2 tiếng sau do không thấy ông ta ra, người phục vụ quyết định vào phòng tắm xem có phải vì vị khách cảm thấy khó ở không. Và ông ta được chứng kiến một cảnh tượng kinh hoàng : người đàn ông bất hạnh đã tự vẫn bằng một nhát dao cạo vào cổ họng, máu chảy ra nhuộm đỏ cả nước trong bồn tắm. Người ta không xác định được danh tính của người này và đã chuyển xác ông ta về Morgue »

Chúng tôi cho rằng có thể cuộc nói chuyện với linh hồn của người xấu số này sẽ mang lại nhiều điều bổ ích. Vì vậy đã tổ chức cầu hồn người này vào ngày 13 tháng 4, 6 ngày sau khi ông ta chết.

1. Cầu xin Thượng đế toàn năng cho phép linh hồn của người tự sát tại phòng tắm ở Samaritaine ngày 7 tháng 4 năm 1858 đến nói chuyện với chúng tôi

- Hãy chờ một chút ... (vài giây sau) : Anh ta đến rồi

Chú ý : để hiểu được vì sao có câu trả lời này cần biết rằng trong tất cả các buổi cầu hồn luôn có một siêu linh quen thuộc (với người cầu hồn hoặc có quan hệ gia đình với linh hồn người được cầu) luôn xuất hiện mà không cần phải gọi đến. Chính linh hồn này sẽ đưa các linh hồn được gọi tới qua truyền đạt lại các lời mời đối với các linh hồn ở cùng đẳng cấp hoặc cao hơn, và ra lệnh với các linh hồn ở cấp thấp hơn. Các buổi cầu hồn do cô Ermance Dufaux làm đồng tữ đều được Thánh Saint Louis hỗ trợ, và chính câu trả lời trên là của Người. (Caodaifrance : vị Thánh St Louis là vị thần minh giáo dưởng và bảo hộ cho Thông Linh hội Paris, cũng như Thông Linh học tin rằng mỗi một người chúng ta đều có một Thần minh theo bảo hộ và dẩn dắt, nếu mà ta tin vào vị ấy, người VN còn gọi vị ấy là "Quới nhân" )

2. Ông đang ở đâu ?

- Tôi không biết .... Hãy cho tôi biết tôi đang ở đâu vậy ?

3. Ông đang ở số 35 phố Valois (Palais-Royal), giữa những người chuyên nghiên cứu về thông linh, và đang rất quan tâm đến ông.

- Các ngài hãy nói là tôi còn sống đi .... Tôi cảm thấy ngẹt thở trong mồ lắm rồi.

4. Ai đã động viên ông tới đây với chúng tôi?

- Tôi tự cảm thấy dễ chịu hơn

5. Nguyên nhân nào khiến ông tìm đến cái chết ?

- Tôi đã chết rồi sao ? .... Không thể nào ... tôi vẫn đang trong thân thể của mình mà ... Các ông không thể hiểu được tôi đau đớn thế nào đâu !... Tôi ngạt thở !... Cầu xin bàn tay nào đó giúp tôi kết thúc nỗi dày vò đau đớn này !

Nhận xét : Linh hồn của ông ta, cho dù đã rời bỏ thể xác vẫn ngụp lặn trong cái mà người ta gọi là vòng cuốn của vật chất hữu hình ; những suy nghĩ cảm nhận trần thế vẫn còn dai dẳng ; khiến cho ông ta không tin rằng mình đã chết.
6. Tại sao ông không để lại một dấu tích gì để người ta có thể nhận ra ông? 

- Tôi đã bị ruồng bỏ ; Tôi chạy trốn nỗi đau để rồi phải chịu sự dằn vặt

7. Giờ đây ông vẫn mai danh ẩn tích bởi những lý do cũ chứ ? 

- Vâng, đừng đổ thêm lửa vào vết thương đang nhỏ máu nữa

8. Ông có thể cho chúng tôi biết tên tuổi, nghề nghiệp và địa chỉ trước kia của ông không ?

- Không ... hoàn toàn không thể ...

9. Ông đã từng có gia đình, vợ con chứ ?

- Tôi đã bị bỏ rơi ; không ai thương yêu tôi cả.

10. Ông làm gì để đến mức không ai thương ông cả ?

- Có bao nhiêu người như tôi chứ! ... Một người đàn ông có thể bị bỏ rơi ngay trong gia đình của mình khi không có trái tim nào yêu thương anh ta nữa.

11. Khi tự vẫn, chằng lẽ ông không hề do dự sao ?

- Tôi muốn chết ... tôi mong được ngơi nghỉ.

12. Chẳng lẽ ý niệm về tương lai không thể ngăn cản ý định tự vẫn của ông sao ?

- Tôi không tin vào đó nữa ; tôi chẳng có gì để hy vọng. Mà tương lai là hy vọng.

13. Ông đã phản ứng như thế nào khi ông cảm thấy sự sống đang tắt dần trong ông ?

- Tôi không nghĩ gì cả ; tôi cảm thấy ... Nhưng cuộc sống của tôi chưa tắt ... hồn tôi vẫn còn trong thể xác ... Tôi chưa chết đâu ... nhưng tôi cảm thấy vòi bọ đang gặm nhấm thể xác tôi

14. Ông cảm thấy thế nào khi đã hoàn toàn rời bỏ cuộc sống ?

- Điều đó là thật sao ?

15. Lúc cuộc sống tắt đi trong ông, ông cảm thấy đau đớn lắm không ?

- Ít đau đớn hơn lúc sau đó. Bởi chỉ có cơ thể là đau đớn.

Thánh Saint Louis giải thích thêm: Khi linh hồn thoát khỏi gánh nặng đang đè lên nó, Nó cảm thấy khoái lạc của sự đau đớn.


- Tình trạng đó luôn xuất hiện sau khi tự tử à ? (Câu hỏi đặt ra với thánh Saint Louis)


- Đúng như vậy, linh hồn của kẻ tự vẫn sẽ ở lại với thể xác cho đến khi hết thời hạn kiếp sống của anh ta. Cái chết tự nhiên là do sự sống yếu dần đi, còn tự vẫn là ngắt đi hoàn toàn sự sống.
16. Những người chết đi do các nguyên nhân tai nạn không do chủ quan của mình có gặp tình trạng tương tự không bởi nó cũng làm rút ngắn cuộc sống tự nhiên ?

- Không bao giờ. Các ông hiểu thế nào là tự vẫn? Linh hồn chỉ chịu trách nhiệm với những gì nó làm ra mà thôi.

Nhận xét: Chúng tôi đã chuẩn bị hỏi linh hồn của người đàn ông xấu số này rất nhiều câu hỏi về tình trạng hiện tại linh hồn, nhưng khi nghe những câu trả lời vừa rồi, chúng trở nên vô nghĩa. Chắc chắn ông ta không ý thức được tình trạng của mình; đau đớn là điều duy nhất ông ta có thể tả lại.

Những linh hồn vừa thoát kiếp, nhất là khi ở trần thế không trau rồi để nâng mình vượt lên vật chất thường không tin cái chết đã đến. Nhìn qua, có thể cho điều đó là kỳ lạ, nhưng chúng tôi có thể giải thích điều đó một cách rất tự nhiên. Nếu hỏi một người lần đầu tiên bị mộng du rằng phải chăng anh ta đang ngủ, hầu như anh ta sẽ luôn trả lời rằng “không”, và câu trả lời đó hoàn toàn thực tế. Chính người hỏi đã đặt ra một câu hỏi không phù hợp và không đúng chỗ. Khái niệm “ngủ” trong ngôn ngữ thường dùng của chúng ta luôn đi cùng với thể trạng tạm thời mất đi các cảm giác. Thế nhưng người mộng du vẫn nhìn thấy, suy nghĩ và ý thức được sự tự do tinh thần, không tin rằng anh ta đang ngủ, và thực tế đúng là như vậy nếu hiểu theo đúng nghĩa của từ này. Vậy anh ta sẽ trả lời “không” cho đến khi quen với cách hiểu mới. Tình trạng của người vừa mới chết cũng tương tự, họ cho cái chết là không thực. Giống như người mộng du, họ vẫn nói, vẫn nhìn, vẫn cảm giác được, do vậy họ không tin mình đã chết. Họ sẽ chỉ tin điều đó khi đã ý thức được thể trạng mới của mình.



ST


Như chúng ta đã biết trong thế-giới vô-hình có Thần Thánh Tiên Phật mà cũng có Yêu Quái Ma Quỹ. Nên trong sự sử-dụng cơ bút Đức Chí-Tôn cũng đã cảnh-giác rằng Ma-Quỷ sẽ lợi dung danh-nghĩa Thần Thánh mà truyền-bá những điều ma-giáo phá hại chánh-đạo, nên Thánh-giáo Đức Chí-Tôn đã dạy rằng :



“Buổi Bạch-Ngọc-Kinh và Lôi-Âm-Tự lập Pháp Tam-Kỳ Phổ-Độ, Quỷ-Vương đã khởi phá-khuấy chơn Đạo. Đến danh Ta nó còn mượn, duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.



Lại còn hiểu rõ rằng Ta đến với huyền-diệu nầy, mượn cơ mầu-nhiệm, hiệp Tam-thập-lục-động đổi gọi Tam-Thập-lục-Thiên các tên chư Thần Thánh Tiên Phật bị mạo nhận mà lập nên Tả-Đạo” (TNHT/Q1/trang 38)



Theo Thánh-giáo đã trích dẫn trên, Đức Chí-Tôn cho biết rằng Đạo khai thì Tà khởi để khuấy-phá, thử-thách khảo dượt những người tu-hành, nên Quỷ-vương cũng có thể mượn danh Thượng-Đế và Tiên Thánh, cũng dùng huyền-diệu cơ-bút để dối gạt chúng-sanh, nhưng chỉ có một điều chắc-chắn để phân-biệt thật giả đó là ngai của Thượng-Đế tức là các Đồng-tử mà Thượng-Đế đã chọn lựa thì Ma Quỷ không dám nhập vào mà thôi.



Tuy Đức Chí-Tôn đã cảnh-giác như thế, nhưng về sau cũng có những chức-sắc vẫn còn dùng cơ bút, mà Đồng-tử không phải là những người của Đức Chí-Tôn chọn lựa, đã làm cho một số nhơn-sanh mất đức tin, nên Đức Chí-Tôn cũng đã khiển-trách như sau :



“Các con đã từng nghe lời Thầy khuyên-nhũ về chuyện ngừa cơ bút, thế mà một phần chẳng chịu sửa cải đường ngay cho khỏi lâm vào nẻo tà mị, đã vi lịnh Thầy mà dìu-dắt các con lạc bước, Thầy cũng đại lụy mà ngó xem một phần môn-đệ xứng-đáng của Thầy phải sa vào vực thẳm. Các con nên ghi nhớ mà coi chừng đường lối sau này” 



C… Thầy cấm từ đây chẳng nên lấp-lửng cầu cơ hay chấp bút chi, vì là một sự hại lớn lao cho Đạo. Đã phá đức tín-ngưỡng của chúng-sanh, lại làm cho nhơn sanh bị nhơ-trược. (TNHT/ Q 2/ trang 48).



Đó là những nguyên-nhân chính-yếu mà Đức Chí-Tôn đã hạn chế việc dùng cơ-bút một cách tuỳ-tiện và bừa-bải do những người không phải là Đồng-tử do Đức Chí-Tôn chọn lựa. 



SỰ THÔNG-CÔNG VỚI CỎI SIÊU-LINH NGOÀI NHÂN-GIAN



Hiện nay hiện-tượng sử-dụng Đồng-tử và cơ-bút rất là phổ-biến, từ cá-nhân đến các tổ-chức Giáo-Hội của nhiều Tôn-giáo, trên khắp thế-giới đã phổ-biến những Thông-điệp tiếp nhận từ Thế-giới Siêu-linh của các Thần Thánh Tiên Phật như Di-Lặc, Thích-Ca, Lão-Tử, Khổng-Tử, Jésus… cùng các Vị khi còn sinh-tiền đã có nhiều đóng góp tích-cực cho quốc-gia xã-hội như : Mahatma Gandhi, Tôn-Trung-Sơn… cùng nhiều thi-nhân như Lý-Thái-Bạch, Victor Hugo… các Tướng-lĩnh như : Quan-Công (Quan-Vân-Trường) Trần-Hưng-Đạo… các bậc nữ nhi như : Jeanne D’ Arc, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Chúa Liễu-Hạnh… thậm chí đến các vị khi sinh-tiền là những nhà khoa-học, y-học như : Louis Pasteur, Hải-Thượng Lãn-Ông… cũng điều có giáng-cơ, hoặc dạy đạo-đức, hoặc cho thuốc chữa bệnh…



Hiện-tượng nầy theo giải-thích của Cao-Đài-giáo thì trong thời buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ tất-cả chúng-sanh kể cả Thần Thánh Tiên Phật trong ba cỏi phàm-trần, trung-giới, và thượng-giới đều phải tuỳ duyên mà lập công bồi đức để cao thăng Thiên-vị. Sự lập công nầy có hai trường-hợp thực-hiện : phần người trần-gian thì làm việc hửu-hình, còn các chơn-linh cỏi vô-hình thì nương vào yểm-trợ người trần-thế để họ cũng có dịp lập công. Nên trong Phương-châm Hành Đạo Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung khuyên rằng phần hửu-vi chúng ta cần lập công bồi-đức bằng cách làm các việc thiện cụ-thể để cho các Đấng Thiêng-Liêng họ có dịp hổ-trợ cho mình cũng tạo cho họ có cơ-hội lập-công. Hiện nay chúng ta thường thấy những trường-hợp ngoại-cảm, chửa bệnh, chỉ mồ-mả thất-lạc trong chiến-tranh, hay mất của, thường là được nhiều người tin dùng và cũng nhiều ứng-nghiệm nhất. Nhưng nhiều nơi cũng chỉ linh-ứng trong một thời-gian nào đó, rồi cũng hết hiệu-quả, bởi vì do người chủ-trì thường hay lợi-dụng hiện-tượng nầy để trục-lợi nên Thần Thánh cũng xa rời không tiếp-trợ nữa. 



LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÂN-BIỆT CƠ-BÚT THẬT HAY GIẢ ?



Nhiều người đặt vấn-đề là ngày nay việc sử-dụng cơ bút tràn lan, làm sao phân-biệt thực giả, điều nầy chúng ta có một số nguyên-tắc phân-biệt sau đây :



A.- Phân-biệt chân giả trong cửa Đạo : 



Trong cửa Đạo Cao-Đài cũng có chân giả nên Đức Chí-Tôn cũng đã dạy rằng :

“Khi nào chấp cơ thì phải đợi lịnh Thầy rồi sẽ thi hành”, 

Câu nầy rất có nhiều ý-nghĩa và nhiều phương-thức khác nhau để giám-định sự thật giả, chúng ta cần đi sâu vào một số tiêu-chuẩn quy-định rõ-ràng chi-tiết sau đây :

a)- Như chúng ta đã biết ngoài kênh cơ bút ra còn nhiều kênh khác để tiếp-xúc với Thượng-Đế, nên chúng ta cũng có thể nhận chỉ thị của Thượng-Đế theo các kênh nầy để phối-kiểm mệnh-lệnh tiếp nhận từ cơ-bút.

b)- Linh tâm là Đền ngự của Thượng-Đế vì đã có câu : “Trong lòng Thầy ngự động Thầy hay” 

Nên chúng ta cần giữ-gìn linh-tâm định tỉnh từ hoà để đón nhận những mặc-khải và sự dạy bảo của Thượng-Đế, nhất là những vấn-đề có liên-quan đến hành-động.

c)- Các mệnh-lệnh ban ra từ Cơ-bút, thì Cơ-bút đó phải do các Đồng-tử là chức-sắc cao-cấp của Hiệp-Thiên-Đài từ Thập Nhị Thời-quân trở lên phò-loan. 

d)- Nơi giáng cơ phải là tại Cung Đạo Toà-Thánh Tây-ninh. Vì Đức Chí-Tôn đã chỉ-thị một cách tổng-quát rằng : “. . .chi chi cũng tại Tây-ninh đây mà thôi. . .(TNHT/Q1/Trang 91)

Đức Chí-Tôn đã có chỉ-thị cấm tất-cả việc sử-dụng cơ-bút ngoài các quy-định nêu trên, nên tất cả các cơ bút không xuất phát từ các chức-sắc Đại Thiên-phong của Hiệp-Thiên-Đài Toà-Thánh Tây-ninh và không có sự phổ-biến chính-thức của Hội-Thánh thì tín-đồ không được tin dùng. 



B.- Phân-biệt chân giả ngoài thế-gian :



Còn các hiện-tượng Đồng cốt, cơ-bút ngoài thế-gian thì có những phương-thức nhận-định như sau :



- Quan-sát tìm-hiểu tôn-chỉ mục-đích của các cá-nhân hay tổ-chức sử-dụng và phổ-biến những thông-tin từ đồng-tử hoặc cơ bút để đánh giá những thông-tin đó.

- Kết-hợp giữa huyền-linh và khoa-học để đánh giá : Khi nào tiếp-nhận một thông-tin từ cỏi siêu-linh, trực-tiếp từ đồng-tử hay tứ cơ-bút, chúng ta nên dùng phương-pháp suy-luận của triết-học là kết-hợp giữa trực-giác và lý-trí bổ-sung cho nhau để nhận-định, tức là kết-hợp giữa huyền-linh và khoa học để đối-chiếu mà phân-tích vấn-đề. 

- Thông-tin đó phải vô-tư, vừa hợp lý, vừa cận nhân-tình : Tất cả những thông-tin từ Đồng-tử và cơ-bút thì phải tránh xa danh-lợi, vừa thích-hợp với đạo-lý vưà cận nhân-tình, vừa lý-tưởng vừa thực-tế. Phải phuc-vụ hửu ích cho chúng sanh. 

- Thông tin phải có tình-chất trung-dung không cực đoan, quá khuynh tả hay quá khuynh hửu. Thích-nghi với lẽ Đạo, tức là chú trọng phần thực-hành. Vì Đức Hộ-Pháp Pham-Công-Tắc đã dạy rằng : 

“Đạo không phải nơi lời nói, mà tại nơi kết-quả sự thật mình làm. Chẳng phải nơi câ kệ câu kinh mà tại hành-vi người giữ đạo. Cái khó khăn của đạo chẳng ở nơi giảng dạy, mà ở sự thực-hành. Cái hay của đạo chẳng phải tại nơi yếu-lý, mà ở nơi kết-quả sự giáo-truyền” (Trích Phương tu Đại-Đạo).

Lời dạy trên đây tuy là ứng-dụng một cách tổng-quát trong đường hướng tu-hành, nhưng cũng có thể làm tiêu-chuẩn trong việc nhận-định sự chân giả của đồng-tử và cơ-bút. Nếu dù lý-thuyết đó hay ho bao-nhiêu mà không giúp ích-gì cho chúng-sanh trên bước đường thực-hành đạo hạnh thì cũng chỉ là giả-dối. 

- Trước các hiện-tượng tiên-tri của đồng-tử và cơ bút : Như chúng ta đã biết các hiện-tượng nầy dù là ma quỷ cũng chỉ có thể nói đúng những việc đã xảy ra trong quá khứ mà thôi. Còn chuyện tương-lai là thuộc về thiên-cơ, mà “thiên cơ thì bất khả lậu” . Đức Chí-Tôn đã cho biết rằng dù cho một vị Đại-la Thiên Tiên hay Cổ Phật cũng không có quyền tiết-lộ thiên-cơ. Nên tất cả các đồng-tử và cơ-bút tiên-tri về tương-lai chúng ta không nên cả tin. 

Trên đây là một số tiêu-chuẩn tổng-quát để phân biệt các hiện-tượng đồng-bóng và cơ-bút để phân-biện biết đâu là chân-thật hoặc giả-dối. 



PHƯƠNG-THỨC SỬ-DỤNG CƠ-BÚT MỘT CÁCH HỬU-HIỆU 



Theo kinh-nghiệm của nhiều người đã sử-dụng cơ-bút thì có một một số điều-kiện tiên-quyết sau đây :

- Đồng-tử : Theo nghĩa đen của hai chữ Đồng-tử là kẻ trẻ con, tức là những đồng-nhi niên-thiếu còn trong trắng, tinh-anh, vô-tư, chưa có nhiều dục vọng, chưa nhiễm một định-kiến một triết thuyết nào. 

Các Triết-gia của Tiên-giáo, Nho-giáo thời xưa lấy sự hồn-nhiên vô-tư vô dục của con trẻ làm tiêu-chí tối cao của sự tu-dưỡng :

“Người có đức dày thì như con đỏ” (Hàm đức chi hậu, tỉ xích tử /Lão-tử Đạo-đức kinh/Thiên hạ/55).

”Bậc đại nhân không đánh mất cái lòng của đứa con đỏ” (Bất thất kỳ xích tử chi tâm/Mạnh-tử).

Các Tiên-gia thời xưa đã dựa trên tiêu-chuẩn đó mà tuyển chọn và huấn-luyện người phò-cơ chấp-bút, nên mới đặt tên những người ấy là “đồng-tử”. Vì tâm họ còn hư-tỉnh thuần-phát, hay là sự tu-dưỡng của họ đã đạt đến chỗ thanh-tỉnh, đại định, như thế sẽ không làm ảnh-hưởng đến lời chỉ giáo của Thần Tiên, hay làm nhiễu-loạn những thông-tin phát từ cỏi siêu-linh qua đồng-tử và cơ bút.



Đó cũng là lý-do chúng ta hiểu rằng vì sao buổi đầu khai-nguyên của nền Đạo, Đức Chí-Tôn lại không dùng số đồng-tử trong những đàn cơ của các tôn-giáo sẵn có, mà tuyển-chọn các đồng-tử trong nhóm tây-học đang làm công-chức cho Nhà-nước thuộc Pháp, chưa biết một tí gì về các triết-thuyết cùng phương-pháp hành-đạo và tu-luyện của Tam-giáo, Ngũ-chi. Cũng như lúc bấy-giờ Đức Chí-Tôn đã thâu nhận Ông Trần-Văn-Tạ đang làm công-chức cho Pháp không biết gì về thuốc men chữa bệnh, mà giao cho ông chữa bệnh cho bá-tánh, Ngài dạy ông rằng : 



“Thầy giao khổ bịnh nhơn-sanh cho con. Thầy lấy nhà con làm Thánh-thất của Thầy”. 

Do đó chúng ta mới vững tin rằng tất-cả Giáo-thuyết, Giáo-lý, Giáo-pháp của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phỗ-Độ (Cao-Đài-giáo) ban ra từ buổi đầu bằng cơ bút và bằng mặc khải để truyền-bá Đạo xuống thế-gian là hoàn-toàn của Đức Chí-Tôn truyền đạt qua một nhóm đồng-tử chưa có một tí định-kiến, hoặc một sự hiểu biết nào về tôn-giáo. 



Theo sự định nghĩa của danh-từ Đồng-tử nêu trên, nếu chúng ta muốn sử-dụng cơ-bút một cách linh-ứng thi đều then chốt là phải chọn-lựa đồng tử theo các tiêu chuẩn sau đây :



- Đồng tử phải là những người có thiên-phú xuất chơn thần ra ngoại xác thân, như sinh-tiền của Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc đã có được khả-năng nầy, vì trong tuổi nhỏ, có những lúc Ngài đã “thiếp” đi mê mang như là một giấc ngủ bắt-buộc sau một hồi mới tỉnh lại, sau nầy khi Đức Chí-Tôn thâu nhận Ngài làm đệ tử đã dạy Ngài tham-thiền nhập định và khai khiếu huyền quang nơi Nê-huờn-cung để Ngài xuất chơn thần lên tiếp cận với Đức Chí-Tôn, đã học ở Chí-Tôn những điều bí yếu bí-trọng (Theo Con đường Thêng-liêng hằng sống). 



- Nếu không phải là trương-hợp thiên-phú nêu trên thí đồng-tử phải là người tham-thiền tịnh luyện, nếu chưa xuất chơn-thần ra khỏi xác thân được, thì cũng đạt đến chổ đại-định, thì làm đồng-tử mới linh-ứng. 

- Cần có những Đồng-tử ít nhứt phải là một người không hiểu biết một tý gì về những thông-tin hay vấn-đề đón nhận từ cỏi siêu-linh.

- Có người hỏi rằng nếu như vậy thì dùng trẻ con chưa biết gì, làm đồng tử có được không ? Theo kinh-nghiệm thực-tiển thì những trường-hợp dùng đồng-tử bằng trẻ vị thành niên đều thất-bại, mà đôi khi còn nguy-hại đến chúng nó nữa. Ví tình-trạng Tinh Khí Thần của trẻ em chưa phát-triển đầy đủ, nôi-lực còn yếu kém, sẽ không chịu đựng nổi của điển-lực bên ngoài nhập vào, dễ khiến cho trẻ hoá ngớ ngẫn điên-loạn rất nguy-hiểm. Vi có nhiều trường-hợp người đã thành-niên mạnh-khoẻ, sau khi chơn-linh nhập xác xuất ra, đồng-tử đã bị yếu sức mệt mỏi cả mấy ngày liên-tiếp rất là tổn hại cho sức khoẻ.

- Các trường-hợp cầu-cơ dùng hai đồng-tử hoặc xây bàn dùng hai hay ba đồng-tử trở lên thì các thông-tin nhận được sẽ trung-thực hơn, vì ít bị ảnh-hưởng tư-tưởng một chiều của một hai đổng-tử bị vọng động. 



KẾT-LUẬN



Trên đây là khái-niệm về hiện-tượng thông-công giữa cỏi hữu hình với thế-giới siêu-linh bằng khả-năng ngoại cảm của con người, hay của đồng-tử qua trung gian của cơ-bút trong nhân-gian nói chung và trong cửa Đạo Cao-Đài nói riêng, đó là một hiệân-tượng có thật, và kết-quả của nó dường như cũng đủ sức làm cho con người tin-tưởng. 



Nhưng đây cũng là con dao hai lưỡi, trong lãnh-vực tôn-giáo thì nó là phương-tiện tiếp-xúc với Thượng-Đế và Thần Thánh Tiên Phật, mà cũng là phương-tiện tiếp xúc với Sa-tăng cùng Yêu Tinh Ma Quỷ, vì thế cơ-bút là phương-tiện lập đạo, mà cũng là phương-tiện phá đạo tùy nơi người sử-dụng nó. 

Bởi vì thế mà ngay khi khai Đạo Đức Chí-Tôn cũng đã cảnh-giác một cách rõ ràng rằng : 



“Các con đừng tưởng cơ bút là việc tầm thường”, tức là Đức Chí-Tôn đã khẳng-định rằng cầu-cơ chấp-bút là một việc làm rất hệ-trọng, chớ nên sử-dụng nó một cách khinh-suất, và cũng để tránh những nguy hại cho đạo, vì Ma Quỷ có thể lợi-dụng làm mất đức tin của nhơn-sanh, nên Đức Chí-Tôn đã nghiêm cấm như sau: 



“Thầy cấm từ đây các con chớ nên lấp lửng cầu cơ chấp bút chi, vì là một sự hại lớn-lao cho đạo”.

Còn trong nhân-gian tuy là một hiện-tượng có thật, rất nhiều dân-tộc kể các nền văn-hoá và tín-ngưỡng cùng trình-độ kiến-thức khác nhau tin dùng, vì cũng có những trường-hợp hửu-ích nào đó, nhưng cũng là một phương-tiện dễ bị kẻ xấu lợi-dụng cho mục-đích tư-lợi bất chánh của mình, bởi nó hư-hư thực-thực khó phân-định ranh-giới của chánh tà, nên chúng ta cũng cần đề cao cảnh-giác, đừng để họ dắt-dẫn chúng ta vào sự mê tín dị-đoan.



Ngay trong cửa Đạo theo chúng ta nhận thấy đã đến lúc không còn cần dùng cơ-bút nữa, bởi vì từ khi lập đạo cho đến trước khi ngưng cơ-bút, trải qua một thời-gian dài bảy năm Đức Chí Tôn đã un-đúc bố-hoá đầy đũ rồi, nên Ngài đã dạy rằng:



“ Các con sẽ lấy hết chí-thành đã un-đúc bấy lâu mà lần hồi lập cho hoàn-toàn mối đạo” (TNHT/Q1/trang 1020).

Một lần khác Đức Chí-Tôn cũng đã dạy thêm rằng :

“Từ đây nên liệu chừng nhau mà điều-đình gánh đạo, điều nào mà theo Tân-luật do Thánh-ý, hiệp lòng chư đạo-hửu, bổ-ích cho nền Đạo thì các con cứ thung-dung liệu nhau mà thi-hành, chẳng cần phải đợi phải cầu hỏi.” (TNHT/Q2/trang 48). 

Bởi vì cơ bút nó cũng có những nhược-điểm là nếu sử-dụng một cách tuỳ-tiện bừa-bãi, dễ dắc-dẫn con người lầm-lạc vào Tả-đạo, nên Đức Chí Tôn cảnh-giác rằng: 

“…Nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành Đạo, và bày biện nhiều sự vô lối, thì trong ít năm sau đây, sẽ trở nên một mối Tả-đạo” (TNHT/Q2/ Trang 42) . 



Lại nữa theo luật-pháp Đạo quy-định thì những người có quyền điều-hành cơ-bút trong Đạo phải là các chức-sắc Đại Thiên-phong của Hiệp-Thiên-Đài từ phẩm Thập-Nhị Thời-Quân trở lên, nhưng số nầy đã quy Tiên, mà vẫn chưa được Đức Chí-Tôn tấn-phong thay thế, đó là một điều hiển-nhiên chứng tỏ rằng cơ-bút không còn là phương-tiện cấp-thiết nữa. 



Có người cho rằng không có cơ-bút thì không có Đạo Cao-Đài, đều nầy chỉ đúng một phần nào đó, chứ thật ra trước đây các Đấng Giáo-chủ, các Vị Tiên-Tri đã giao-cảm với Thượng-Đế qua những “kênh” khác nhau, đã khai sáng ra các Tôn-giáo lưu-hành cả mấy nghìn năm, ngay hiện nay cũng vậy, từ ngày Đức Hộ-Pháp và các Vị chức-sắc Đại Thiên-phong của Hiệp-Thiên-Đài quy Thiên chưa được thay thế, nhưng sự tương-giao giữa Thượng-Đế, Thần-linh với con người vẫn tiếp-nối liên-tục, vì Thượng-Đế đến với con cái của Người bằng ân-sủng, còn Con người đến với Thượng-Đế bằng đức tin và tấm lòng hiếu-hạnh, sự tương-liên hai chiều nầy vẫn luôn luôn duy-trì vượt thời-gian và không-gian, không bao giờ gián-đoạn, nhất là trong những thập niên gần đây, hiện-tượng tương-giao lại vượng lên dưới nhiều hình-thức khác nhau bằng tham-thiền nhập-định, bằng trầm tư mặc-tưởng đón nhận những mặc-khải nội tâm vẫn luôn diễn ra trong nhiều chức-sắc, tín-đồ hửu công hửu đức. Nên chúng ta đừng tưởng rằng không có cơ-bút là cắt đứt sự tương-giao giữa Thượng-Đế và con người.

ST

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét