Đại Đạo tạo con đò cứu khổ, Hướng đạo cần tự độ, độ tha. Năm chi bảy phái hiệp hòa, Trương cờ Đại Đạo xây tòa vạn linh.

LỜI GIAO CẢM

LỜI GIAO CẢM
(Kích vào hình ảnh để xem tiếp lời giao cảm)
  Xin chân thành cảm ơn quý huynh, tỷ, đệ, muội và quý độc giả đã ghé thăm NGÔI NHÀ ĐẠI ĐẠO

Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2011

Bí ẩn về con mắt thứ ba (huệ nhãn)

Ðoàn Văn Thông

Trích Báo Viên Giác tại Tây Đức số 110




Từ xưa đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và tài tử về hiện tượng siêu hình đã đi sâu vào những nơi mà họ cho là trung tâm của các sự kiện huyền bí để chứng kiến tận mắt những hiện tượng lạ lùng mà không thể giải thích được. Thời đó có các nhà khoa học và dân tộc học nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Rivers, Ions Veronica, Mbiti John, Wentz W. -E, Osborne Harold... Ðặc biệt là một người đàn bà, một người nữ văn sĩ tên là Alexandra David Neel đã đơn phương độc mã trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của đỉnh Trời là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là nghiên cứu tìm hiểu tận chỗ những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới phương Tây mới biết được những cuộc sống lạ lùng của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống trong các hang động, nơi mà Trời và Ðất như hòa vào nhau thành một.

Ðiểm đặc biệt đáng nhắc đến là nơi đây các vị sư đều có khả năng cao về nhận thức, bộ não luôn luôn được trong sáng nên họ có thể hiểu nhau qua không gian hơn là phải biểu lộ bằng lời nói hay hành động. Nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác mà nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng biết trước được những gì mà người nước khác đang dự định trong đầu. Ngoài ra những vị này còn có khả năng kỳ diệu là phân tích vầng màu sắc tỏa ra từ đầu bất cứ ai để từ đó biết được ý tưởng xấu hay tốt mà người đó đang dự định. Vào thời Ðại sư Lobsang còn tại thế, Ngài thường ngồi sau màn quan sát các Sứ bộ nước ngoài đến thăm Tây Tạng. Thời đó Trung Hoa thường cử phái đoàn tới thăm nhưng bao giờ cũng mang theo ý đồ xấu xa là muốn chiếm đóng và cai trị đất nước Tây Tạng. Tuy nhiên mọi ý tưởng ấy đều biểu lộ rõ qua cặp mắt của Ngài Lobsang đang ngồi sau bức màn. Tây Tạng cũng có lần bị thực dân Anh chiếm đóng khoảng năm 1904. Vào thời đó chính thân phụ của Ðại sư cũng đã nhờ nhãn lực mà biết được tình trạng bất ổn do quân đội Anh gây ra và Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thời đó cũng đã phải rời Tây Tạng sang Mông Cổ cho qua cơn Pháp nạn.

thuyết vụ nổ lớn big bang với hiện tượng tập trung năng lượng

Thuyết về vụ nổ lớn Big Bang của nhà Vật Lý học George Gamov nêu ra (khoảng năm 1948) cho rằng cách đây khoảng hơn 15 tỷ năm, vũ trụ được tạo thành từ một đám mây Hydrogene. Ðám mây này gồm có vô số nguyên tử Hydrogene quy tụ san sát nhau tạo nên một mật độ vô cùng lớn. Toàn thể đám mây quay cuồng với một tốc độ khủng khiếp vừa quay lại càng co rút hơn nữa khiến các nguyên tử khí kết tụ sát lại nhau dồn nén cực độ tạo ra một phản ứng nhiệt hạch khiến đám mây phải nổ tung, vụ nổ vĩ đại này làm phát sinh nên vô số thiên hà.

Có hình: BIG BANG: Sự phát sinh vũ trụ

Qua thuyết trên ta thấy một khi có sự tập trung thì kéo theo một hậu quả quan trọng. Khi một vị Ðạo Sư tập trung tư tưởng thì sự tập chú ấy cũng giống như sự quy tụ các phân tử lại và càng tập chú thì sự cọ xát giữa các nguyên tử càng tăng làm phát sinh năng lượng. Ở đây tưởng cũng nên nhớ lại rằng ngay những người bình thường như chúng ta mỗi khi tập trung tư tưởng để suy nghĩ điều gì thì đầu óc chúng ta như nóng lên khiến đôi lúc nhức đầu chóng mặt khó chịu. Từ lâu giải thích của các nhà khoa học là khi suy nghĩ luồng thần kinh và tế bào thần kinh hoạt động mạnh và tiêu thụ một số năng nhiệt. Như vậy cho đến ngày nay sự kiện phát sinh năng lượng nhiệt hay tiêu thụ nhiệt trong khi tập trung tư tưởng hay suy nghĩ vẫn chưa được lý giải hoàn toàn. Tuy nhiên có lẽ nơi cơ thể và nhất là bộ não của các vị Ðạo Sư năng lượng phát sinh trong khi họ tập trung tư tưởng là điều có thật và chắc chắn là khi tập trung tư tưởng họ không bị tình trạng nóng hay nhức đầu khó chịu như chúng ta thường cảm nhận.

Sự kiện khác có liên quan đến năng lượng cơ thể mà các trường hợp đã xảy ra trên thế giới qua những con người kỳ lạ làm phát sinh các thắc mắc về nguồn gốc phát sinh năng lượng. Câu hỏi được nêu ra là có phải luôn luôn cần tập trung tư tưởng mới phát tỏa được năng lượng không? Một người Nga tên là Krivorotop và con trai là Victor đã có một dạng năng lượng lạ lùng chuyển từ cơ thể ra đôi bàn tay. Mỗi khi cha con người này dùng tay di chuyển dọc theo phần cơ thể của người mắc bệnh thì một thời gian ngắn sau người bệnh lành hẳn. Ở đây điều kỳ lạ là bàn tay của hai cha con này không nóng bỏng như mọi người tưởng mà trái lại lạnh giá. Một người Nga khác, cô Djuna cũng có đôi bàn tay kỳ diệu có thể khám phá ra nơi bệnh trên cơ thể một người nghi là có bệnh. Theo Djuna thì nhờ trường sinh học mà cô có thể áp dụng để truy ra vị trí bệnh trên cơ thể bệnh nhân. Bất cứ cơ thể người nào cũng đều phát ra một vùng điện gọi là vùng điện sinh học. Tùy theo tình trạng cơ thể mà vùng điện sinh học này biến đổi trạng thái. Ðôi tay của Djuna có một cảm ứng rất nhạy với vùng điện sinh học ấy. Qua kinh nghiệm, cô suy đoán sự thay đổi tương ứng với loại bệnh nào và từ đó xác định vị trí có bệnh nơi cơ thể bệnh nhân. Dĩ nhiên từ đôi tay Djuna cũng đã có nguồn năng lượng nào đó phát ra. Trong cuốn Con người và Trường sinh học của Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương, Giáo sư đã nói đến trường hợp một nhân vật nổi tiếng có khả năng thuộc lãnh vực tâm thần. Ðó là bà Nina Kulaghina, bà này đã dùng bàn tay mình đặt cách chiếc la-bàn chỉ hướng một khoảng ngắn và đã làm kim la-bàn chuyển động. Khi bà dùng ngón tay vạch thành vòng trên la-bàn, cách la-bàn vài centimet thì thấy kim la-bàn quay thành nhiều vòng. Thí nghiệm đáng kinh ngạc hơn là bà Nina còn dùng tư tưởng tập trung để khiến cho tim con ếch đặt trong bình thủy tinh đang hoạt động và phải ngưng đập. Bà Nina cũng còn dùng năng lượng tinh thần để làm cho một số đồ vật di chuyển. Ðiều đáng lưu tâm là sau mỗi lần thí nghiệm, bà Nina tỏ ra mỏi mệt, tay chân rũ rượi, cơ thể nóng lên. Các nhà khoa học Nga đã tham gia cuộc thí nghiệm của bà. Họ dùng máy đo nhiệt độ để đo trước và sau cuộc thí nghiệm, kết quả cho thấy năng lượng phát sinh không phải từ sự tập trung tư tưởng như các vị Ðạo Sư Tây Tạng mà là năng lượng từ bên ngoài chuyển vào tích tụ trong cơ thể bà Nina. Cơ chế nào đã giúp bà Nina tiếp thu nguồn năng lượng lớn từ ngoài vào? Còn các vị Ðạo Sư, các vị Lạt Ma Tây Tạng, những nhà huyền thuật nổi tiếng họ lấy năng lượng từ ngoài (vũ trụ tự nhiên) vào cơ thể hay chính sự tập trung năng lượng đã tạo ra nhiệt lượng? Cho đến nay, với sự tham gia nghiên cứu của các nhà khoa học trong lãnh vực này, các báo cáo khoa học chưa có thể dừng lại ở một kết kuận chắc chắn nào. Ít nhất có 2 lý giải khác biệt nhau. Một cho rằng, qua công phu tu luyện nơi những địa điểm mà "Trời và Ðất như giao hòa với nhau" như tại xứ Tây Tạng chẳng hạn thì công phu tu luyện của các nhà huyền thuật thật vô song và thành quả đạt được của họ là thu năng lượng vào cơ thể ở những trung tâm nào đó như trung tâm lực Kundalini (Con Rắn Lửa) hay ở phần đầu thì có trung tâm lực nằm giữa hai chân mày. Con mắt thứ 3, tuyến Pineal gland và cả tuyến Yên cũng có liên hệ chặt chẽ với cơ phận của con mắt thứ 3.

Năng lực của con mắt thứ 3 :

Thần nhãn hay huệ nhãn

Trở lại vấn đề khả năng thông hiểu ý tưởng kẻ khác cũng như thấy rõ và phân biệt vầng màu mà các vị Lạt Ma Tây Tạng có được thì đó lại là sự kiện có vẻ bình thường đối với người dân Tây Tạng. Lý do dễ hiểu là từ tấm bé, họ đã được cha mẹ kể cho nghe chuyện cổ tích về người Tây Tạng thời cổ xưa, theo chuyện cổ tích này thì thời xa xưa ấy, người Tây Tạng ai cũng có một nhãn lực đặc biệt, nhãn lực này không phải từ đôi mắt thông thường của con người mà là từ một con mắt thứ 3 rất kỳ bí. Vì tính cách huyền diệu của con mắt thứ 3 này mà người xưa gọi là Thần Nhãn hay nói theo kinh điển thì gọi là Huệ Nhãn. Về sau, vì con người bị lôi kéo dần vào đường vật chất, ích kỷ, tham lam, sân hận, mê mờ nên trí óc không còn trong sạch, sáng suốt nữa. Cuối cùng như tấm gương bị bụi mờ che kín, con mắt thứ 3 trở thành u tối không còn sử dụng được nữa. Các nhà nghiên cứu về Huệ Nhãn đã bắt gặp trong các giới động vật hình ảnh trung thực nhất về Con Mắt Thứ 3 một cách rõ rệt không chối cãi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại có sự hiện hữu và công dụng thực tế thì lại còn lắm mơ hồ. Ðặc biệt lạ lùng là ngay trong giới động vật có xương sống cấp dưới thì lại thấy hiện diện một cấu tạo giống cấu tạo con mắt bình thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh thể và võng mạc v.v... Theo tài liệu của Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương thì ngay cả loài cá, lưỡng thể, bò sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng đều có dấu tích của Con Mắt Thứ 3. Khi khảo sát cấu tạo bộ xương của loài Khủng Long thời tiền sử, các nhà cổ sinh vật học cũng chú ý tới một chỗ lõm nơi phần sọ của loài bò sát khổng lồ này và đã suy đoán nơi đây là vị trí của một cơ quan thị giác hay nói theo suy tưởng của sự kiện đang bàn là Con Mắt Thứ 3. Công dụng của con mắt này có lẽ để giúp các loài động vật thời cổ không những thấy mà còn biết thêm hay cảm nhận trước được tình trạng chung quanh như mưa, gió, nhất là các vật thể nằm khuất ở vị trí phía trên đầu. Những khám phá mới đây nhất (vào năm 1996) từ một số nhà khoa học đã cho biết là trong não người có một cái tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh, nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại phân hóa tố đặc biệt với một lượng rất nhỏ trong trường hợp con người đang chú tâm cầu nguyện với tất cả thành tâm hay vào các giai đoạn con người ở tình trạng nguy hiểm, thập tử nhất sinh. Cái tuyến lạ lùng đó là tuyến Tùng Quả Pineal gland. Khi phân hóa tố của tuyến đi vào máu thì cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất ngờ mà lúc bình thường không có được. Các nhà sinh vật học còn khám phá ra rằng tuyến Pineal gland còn có liên quan với bộ phận mà người Tây Tạng gọi là Con Mắt Thứ 3.

Có hình

Tại Tây Tạng, nơi nhiều Ðạo viện thường có những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa học, lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để chuyển tư tưởng cho nhau. Khi họ bắt được tư tưởng của nhau được rồi thì khoảng cách tĩnh tọa giữa hai người này sẽ ở vị thế xa hơn. Cứ thế về lâu về dài họ có thể đạt tới khả năng truyền tư tưởng cho nhau qua khoảng cách rất xa: hoặc từ Ðạo viện này đến Ðạo viện khác, từ hang động này tới hang động khác... Theo bà Alexandra David Neel thì nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ im lìm hoang vắng nhưng lại là nơi các luồng tư tưởng của các vị ẩn tu giăng bủa khắp nơi.

Có hình

Một tài liệu kể rằng: Một hôm tại Tu viện Séra ở Tây Tạng xảy ra một tai nạn. Vị Sư già ở đây bị té ngã xuống đất dập xương sọ. Trong cơn nguy khốn ấy, vị Sư già đã dùng Thần lực để chuyển di tư tưởng đến ngay điện Potala, nơi Ngài tin chắc là Ðại sư Mingyar Dondup đang có mặt tại điện. Luồng tư tưởng này đã được Ðại sư Mingyar tiếp nhận. Tức thì, Ngài gọi ngay đệ tử là Lobsang đến ngay Tu viện Séra để kịp thời cứu chữa cho vị Sư già... Chuyện khác kể lại trường hợp một vị Sư ẩn tu trong động đá. Bữa kia sau buổi tĩnh tọa, vị Sư gọi đệ tử lại bảo rằng: "Sáng mai sẽ có một người đi ngang qua đây, con nhớ cho họ nước uống và ít trái cây lót lòng và chỉ hướng khác xuống núi giúp họ vì tối mai sẽ có trận bão tuyết chôn vùi con đường này. Quả nhiên sáng hôm sau có một người xuất hiện gần hang núi. Người đệ tử vội chạy lại giúp đỡ đúng như những gì thầy đã căn dặn từ hôm qua. Tối hôm đó, một trận bão tuyết nổi lên làm biến mất con đường xuống núi. Chính nhờ Huệ Nhãn mà vị Sư đã cứu người lữ hành lạc lối thoát nạn. Câu chuyện này người Tây Tạng thường kể lại cho con cháu nghe và Nữ ký giả Pháp, bà Alexandra David Neel cũng có lần kể lại câu chuyện tương tự trong tác phẩm du ký của bà.

Tác giả Nguyên Phong trong các phóng tác theo các sách của bà Alexandra David Neel về xứ Tây Tạng Huyền Bí cũng đã đưa ra nhiều chi tiết liên quan đến sự kiện chuyển di tư tưởng hay thông suốt ý nghĩ người khác của các vị Ðạo sư Tây Tạng. Tất cả nói lên cái thâm sâu vi diệu của cơ phận gọi là Con Mắt Thứ 3 hay Huệ Nhãn.

Các cường quốc đang nghiên cứu
về con mắt thứ 3

Nga Sô, Trung Quốc, Mông Cổ và cả Hoa Kỳ và Anh Quốc đều đã và đang nỗ lực nghiên cứu, thí nghiện về năng lực chuyển di tu tưởng mà con người có thể đạt được hoàn hảo dựa vào những gì mà các nhà nghiên cứu về năng lực lạ lùng của các vị Lạt Ma và Ðại sư Tây Tạng. Năm 1959, Hải quân Hoa Kỳ đã thực hiện một cuộc thí nghiệm bí mật về chuyển di tư tưởng (thí nghiệm kéo dài trong 5 ngày - từ 22.6.59 đến 26.6.59) Hai nhân vật có khả năng về chuyển di tư tưởng được bí mật chở tới hai địa điểm X và Y cách xa nhau 2000 cây số. Một người vào trong một phòng kín ở địa điểm X, còn người kia vào trong chiếc tàu ngầm Nautilus xuống sâu 2 nghìn cây số ở vị trí Y. Từ 2 vị trí xa nhau ấy, hai nhân vật vừa kể đã bắt đầu cuộc thí nghiệm chuyển di tư tưởng cho nhau. Tại vị trí Y, người làm thí nghiệm lần lượt tập trung tư tưởng nhìn vào những con bài khác biệt nhau rồi đưa tư tưởng có các hình ảnh ấy qua không gian hướng về người đang ở vị trí X. Thứ tự về các con bài, giờ giấc và số lần thực nghiệm chuyển di tư tưởng của người thí nghiệm ở X và Y đều được ghi chép lại cẩn thận. Kết quả so sánh đối chiếu cho thấy độ tiếp nhận đạt chính xác đến tỷ lệ 92%. Hoa Kỳ và Nga đã cùng nhau hợp tác thí nghiệm hiện tượng tương tự nhưng dưới hình thức hơi khác. Bác sĩ người Nga tên là Dzhuma Davitashvili và Bác sĩ Hoa Kỳ là Keith Harry được bí mật đưa đến 2 vị trí cách xa nhau trên đất Hoa Kỳ (thuộc San Francisco) vậy mà họ mô tả được hình ảnh, vị trí, địa điểm của nhau rất rõ ràng. Trong các năm từ 1976 đến 1979 nhiều cuộc thí nghiệm về lãnh vực này cũng đã được thực hiện tại Tiểu bang Chicago (Hoa Kỳ). Tại Nga vào năm 1967, báo Sự Thật đã đưa tin rằng: "Cuộc thực nghiệm chuyển di tư tưởng giữa 2 nhà thí nghiệm ở hai vị trí cách xa nhau: Leningrad và Moscow đã đạt kết quả thành công"

Có hình: Tàu ngầm được dùng làm thí nghiệm chuyển di tư tưởng qua khoảng cách 2000 cây số.

Tuesday lobsang rampa :
lạt-ma bác-sĩ y-khoa

Ðối với những vị Ðại Sư, những vị Lạt Ma Tây Tạng những người đã trải qua những công phu tu luyện tuyệt vời thì sự tập trung năng lượng của họ không gây nên sự mỏi mệt khó chịu như người bình thường.

Phùng Hồ, qua cuốn The Third Eye (Con Mắt Thứ Ba) của một Lạt Ma Bác Sĩ Tây Tạng (Tuesday Lobsang Rampa) đã cung cấp thêm cho đề tài này một số tư liệu liên quan về khả năng kỳ diệu của Lạt Ma Rampa: "Bác sĩ Tuesday Lobsang Rampa lúc còn bé đã được gia đình giáo dục chu đáo. Thân phụ được giao quyền nhiếp chính, trong khi Ðức Ðạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng qua tỵ nạn ở Mông Cổ vì quân đội Anh xâm chiếm đất đai Tây Tạng vào năm 1904". Khi Ngài Lobsang lên bảy tuổi, việc học hành và chuẩn bị cho tương lai do các chiêm tinh gia quyết định. Ngài được thu nhận vào Tu viện Chakpori. Ngay ở lứa tuổi này, Ngài đã tiếp xúc với nhiều nhân vật và thật sự đã có thể nhìn và nhận xét ai là người tốt qua tư tưởng người đó. Sư phụ Ngài là Ðại Sư Mingyar, căn cứ theo lý giải của các nhà chiêm tinh, đã quyết định luyện Thần Nhãn cho Ngài sau ngày sinh nhật thứ tám của Ngài. Sư phụ Ngài đã từng bảo rằng: "Khi Thần Nhãn đã được khai mở, Ngài có thể nhìn rõ chân tướng thâm sâu của con người chớ không phải chỉ thấy cái vẻ bên ngoài của con người mà thôi.

Chính Sư Trưởng tu viện Chakpori là Y-sĩ cận kề của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã căn dặn Ngài Lobsang là người có được Thần Lực mà nhiều người không có. Việc sử dụng Thần Lực ấy rất hạn chế và cẩn thận. Chỉ được sử dụng khi khả năng Thần Nhãn của mình để giúp đời, cứu người bệnh tật, cứu người gặp cảnh khổ đau và nhất thiết không mưu cầu lợi lộc cho riêng bản thân mình. Chính Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã nói với Ngài Lobsang rằng: Ta đã nghe nhiều điều lạ lùng về con. Ngay từ lúc mới chào đời vốn đã có Thần Lực tự nhiên nơi đôi mắt con và Thần Lực đó tăng lên nhờ luyện phương pháp Mật truyền nhằm khai mở Thần Lực của Con Mắt Thứ Ba.

Trong điện Potala có nhiều phẩm vật quý giá do các quốc gia khác cống hiến. Ngài Lobsang đã có lần dùng Thần Lực ngắm say sưa các phẩm vật để phát hiện tâm tình mà người tặng quà muốn gởi gắm. Sau khi Ngài trình bày nhận xét của mình về mỗi tặng vật thì Sư phụ của Ngài lấy một cuốn sách đọc cho nghe sự việc liên quan tới món đó và khen tặng Ngài thực sự có nhận xét chính xác, đã có nhiều tiến bộ trong lãnh vực Thần Nhãn...".

Chính nhờ Thần Nhãn hay Huệ Nhãn mà Ngài Lobsang Rampa đã quan sát tìm hiểu qua tư tưởng của các phái đoàn nước ngoài đến tham viếng hay ngỏ ý muốn hợp tác với Tây Tạng về nhiều lãnh vực. Những ý đồ xấu xa tàng ẩn trong các nhân vật của các phái đoàn đều không thoát khỏi Con Mắt Thứ Ba mà Ngài Lobsang soi tới.. Nhờ đó mà ngày nay mặc dù đất nước Tây Tạng trải qua bao thăng trầm, dòm ngó của thực dân (Anh) và ngày nay là chính quyền Trung Quốc, Tây Tạng vẫn thoát hiểm được nhiều lần nhờ biết trước được ý đồ của đối phương nhờ Thần Lực hay Con Mắt Thứ Ba của các vị Ðạo Sư hay các vị Lạt Ma.

Năng lực của Thần Nhãn rất thâm sâu và phát triển qua nhiều dạng. Do tập trung tư tưởng mà luồng tư tưởng qua đôi mắt để có thể soi thấu tâm cang, tư tưởng kẻ khác. Cũng vậy, qua Thần Nhãn mà các bệnh tật ẩn tàng trong cơ thể dễ dàng được khám phá còn hơn khoa học ngày nay dùng quang tuyến hay tia sáng Laser. Một lãnh vực khác cũng không kém phần quan trọng là Tập Trung Tư Tưởng làm phát sinh năng lượng. Sự kiện này thể hiện qua những phương thức tập luyện mà các Lạt Ma Tây Tạng thường áp dụng cho các môn đệ từ thời xa xưa cho đến ngày nay.

Theo phương thức vừa kể thì các đệ tử khi luyện tập họ phải quyết tâm trì chí vì trong tuyết giá, họ phải tập ngồi tĩnh tọa một cách bình yên như đang ngồi nơi mát mẻ bình thường. Dù nhiệt độ hạ thấp dưới không độ, người thực tập phải mình trần, chỉ một miếng khố quấn ngang hạ bộ những phải cố gắng tập trung tư tưởng, trì chú chịu đựng cái rét như xé nát thịt xương. Sau một thời gian tập chịu đựng giá lạnh ấy, họ sẽ tập trung tư tưởng để tạo năng lượng làm cho cơ thể nóng lên để chống lạnh. Lần lần chuyển qua giai đoạn tập trung tư tưởng làm phát sinh năng lượng mạnh mẽ để làm cho tuyết giá quanh mình tan ra. Nhiều người thực tập theo phương cách đào một lỗ trong tuyết và tự chôn mình vào trong đó để rồi tập trung tư tưởng khiến cho tuyết phủ quanh mình tan ra thành nước.

Năng lượng nhiệt phát ra từ tập trung tư tưởng là điều mà các nhà khoa học hiện nay đang quan tâm nghiên cứu. Một số nhà Thiên Văn vũ trụ từ lâu đã nghiên cứu hiện tượng bùng nổ vũ trụ hay hiện tượng Big Bang. Họ tìm thấy ở đó một tia sáng cho sự giải thích về sức mạnh vạn năng của năng lượng tập trung là như thế nào?

một số tư liệu liên quan đến con mắt thứ ba hay huệ nhãn

Sự kiện liên quan đến Huệ Nhãn hay Con Mắt Thứ Ba đã có một số tư liệu Ðông Tây nói đến. Tại Việt Nam vấn đề con mắt thu cũng được nhắc đến từ lâu trong các Kinh điển Phật Giáo, trong các báo phát hành khoảng năm 1950 tới 1960 như báo Ðại Chúng và các báo liên quan đến khoa học huyền bí. Các sách vở trong nước cũng như hải ngoại thỉnh thoảng cũng bàn về sự kiện này. Ðặc biệt trong các tác phẩm viết về đất nước huyền bí Tây Tạng của tác giả Nguyên Phong đã có nhiều tư liệu quý giá liên quan đến Con Mắt Thứ Ba. Thí dụ như phần nói về nghệ thuật chuyển di tư tưởng là một trong các bộ môn huyền thuật ở Tây Tạng. Theo khoa này thì người thực tập cần phải tự mình huấn luyện làm sao để có được khả năng tập trung cao để có thể phát ra những luồng tư tưởng. Phải giữ gìn cho đầu óc minh mẫn và mẫn cảm để dễ dàng tiếp thu luồng tư tưởng của người khác.

tư tưởng con người là những làn sóng thuộc về tâm thức

Một số tư liệu, sách vở hiện nay tìm hiểu về lãnh vực này theo hướng khoa học thì tư tưởng con người là những làn sóng thuộc về tâm thức. Một khi tư tưởng được tập trung thì cường độ của làn sóng này sẽ được gia tăng mạnh mẽ. Làn sóng nhờ đó mà lan rộng hơn và rung động theo làn sóng nào đó. Khi hai người trao đổi, truyền đi luồng tư tưởng cho nhau thì đồng thời họ sẽ trì tụng thần chú để tạo những âm thanh rung động nhờ đó mà phát sinh được những chu kỳ rung động của tư tưởng và các tần số sẽ dễ dàng bắt được khiến họ nhận rõ tư tưởng của nhau.

Chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng tham luyến sân si mê mờ, quyết tâm giữ lòng trong sạch và tu trì thì mới có được Huệ Nhãn. Chính phần lớn các vị Ðại sư tại Tây Tạng, những người ẩn tu nơi vùng núi cao tuyết giá hay trong các Ðạo viện thâm nghiêm là có thể có được năng lực thượng thừa ấy mà thôi. Tuy nhiên theo các vị Ðại sư thì không phải tất cả các vị chân tu Tây Tạng đều có Thần Nhãn hay Huệ Nhãn như ta tưởng, vì muốn có được Thần Nhãn thì người đó không những phải hội đủ các điểm cần yếu như đã nói trên mà còn phải có Thần Lực đặc biệt kết hợp với các pháp môn tu luyện cao siêu mới được. Phép tu luyện cao siêu đó có mục đích là để khai mở Huệ Nhãn. Một khi đã có Huệ Nhãn rồi thì dù ngồi tĩnh tọa trong đạo viện, nơi núi cao hay trong rừng sâu vẫn có thể thấy được những gì xảy ra ở khoảng cách rất xa, hay chuyển di tư tưởng đến một nơi nào đó cho ai.

Có hình hai hình

năng lượng tinh thần

bộ não người: Bình Ac-quy thu phát điện năng

Những nhà khoa học tiên phong xâm nhập thế giới huyền bí để nghiên cứu tìm hiểu đã xem năng lượng tinh thần là phần quan trọng trong vấn đề nghiên cứu hiện tượng siêu hình. Theo họ não bộ người là một cái bình Ac-Quy, nhưng là cái bình Ac-Quy siêu đẳng và huyền bí rất nhiều. Bộ não người phát sóng và thu sóng, phát điện và thu điện trong tự nhiên vũ trụ. Tuy nhiên sự vận hành, thu phát, chuyển biến còn tùy ở cơ thể người mang bộ não. Dưới mắt nhà khoa học họ không chỉ tập chú vào các vị Lạt Ma, các nhà tu hành nơi các hang động thâm sâu hay trong các đạo viện khuất sau rặng tuyết sơn để nghiên cứu một cách riêng rẽ, trái lại họ nghiên cứu toàn thể bộ não người không phân biệt ai, miễn là có khả năng kỳ diệu lạ lùng mà người bình thường không có được. Trên thế giới từ cổ đại đến nay đã có những con người không trải qua quá trình tu luyện nào cả nhưng vẫn có được một năng lượng tinh thần rất lớn, họ có thể nhìn xuyên qua vách tường, xuyên qua sắt thép, xuyên qua khoảng cách rất xa. Có người còn dùng năng lượng tinh thần để làm cháy đồ vật hay làm cho các hạt nảy mầm, có người sử dụng năng lượng tinh thần để chữa bệnh hay chuyển di tư tưởng, tiếp nhận ý nghĩ của người khác v.v...

Có hình: Năng lượng từ hai bàn tay của bà Julien Chorowicz làm cho cái kéo lơ lửng và chuyển di trong không khí.

năng lượng ở trung tâm anahata

Theo kinh điển Tây Tạng thì trong cơ thể con người ẩn tàng một năng lượng mạnh mẽ nhưng chỉ gặp ở các vị Ðạo sư vì những vị này có khả năng sử dụng được năng lượng kỳ bí ấy.

Cũng theo tư liệu bàn về các trung tâm lực tàng trữ trong các Ðạo viện cổ xưa của Tây Tạng thì 7 trung tâm lực phát sinh năng lượng mạnh mẽ là:

1. Ajna nằm giữa hai chân mày.
2. Sahasrara - Brahmarandhra ở ngay trên đỉnh đầu.
3. Vishoudha ở yết hầu.
4. Anahata ở ngay tim.
5. Svadhisthana ở lá lách.
6. Manipoura ở rốn.
7. Mulhadhara ở xương mông.

Theo lý thuyết thì đôi khi người thường có thể thấy được năng lượng phát sáng từ các trung tâm lực đó phát ra từ các vị Ðạo sư. Tuy nhiên chỉ thấy gián tiếp qua hình ảnh chụp. Một trường hợp điển hình đã chứng minh là một nhà sư Miến Ðiện thuộc phái Theravada trong một cuộc hành hương qua Mỹ đã đến thăm một gia đình người Miến. Trong khi vị Sư đang tập trung tư tưởng thì người con rể trong gia đình này chụp ảnh Sư đang tĩnh tọa. Lạ lùng thay khi ảnh được sang ra thì mọi người đều thấy trong bức ảnh có một nguồn sáng tỏa ra từ ngực của Sư. Nếu để ý sẽ thấy có lằn nếp áo, như vậy chứng tỏ rằng nguồn sáng đó phát ra từ bên trong cơ thể Sư, hay nói cách khác là từ trung tâm lực Anahata.

Có hình: Phần tia sáng nơi ngực vị Sư đang tĩnh tọa phải chăng đang phát ra từ trung tâm lực Anahata?

Ngày nay loài người đã sống văn minh hơn nhưng vẫn còn một số vùng hoang vắng được xem như tận cùng quả đất, nơi đó có vài bộ lạc vẫn còn sống cuộc đời man dã giống như thời đại đồ đá của loài người trước đây. Ðiều kỳ lạ là nhiều nhà thám hiểm đã len lỏi vào tận các vùng xa xôi hẻo lánh để tiếp xúc với loài người được xem là sơ khai, họ bắt gặp được nhiều điều kỳ diệu mà các phù thủy ở đó đã thực hiện. Một thí dụ điển hình là nhóm nhà báo của Paris Match nổi tiếng của Pháp đã lặn lội tiến vào một nơi được xem là sống biệt lập với thế giới loài người tại một hoang đảo xa xôi tận Thái Bình Dương. Trên đường đi có một ký giả bị té ngã khi leo qua một con suối và bị gãy chân phải khiêng cáng. Khi đoàn ký giả này tới thì thấy một người đàn ông ngồi yên lặng, trên người chỉ một miếng da thú quấn ngang hạ bộ mà thôi. Người đàn ông ra dấu đặt người ký giả bị gãy xương nằm xuống trên một miếng da gấu, hai bên đặt hai bó đuốc bằng gỗ thông. Xong ông đưa tay lên trời huơ huơ mấy cái, vừa huơ tay vừa đọc một tràng thổ ngữ kỳ lạ rồi bất ngờ chỉ vào người bị gãy xương và ra hiệu ngồi dậy. Lạ lùng thay, người ký giả này tự nhiên không còn đau đớn nữa và đứng dậy một cách tự nhiên. Người đàn ông sau khi ra tay cứu giúp người ký giả bị nạn liền quay qua bên cạnh chỉ vào một cái thùng sắt sét rỉ ra dấu như ngầm bảo: "Các ông hãy đem vật này ra khỏi nơi đây!". Rồi lặng lẽ đi vào một cái hang sâu đầy rêu và rễ cây che phủ. Cùng lúc đó dân trong bộ lạc đứng nhìn từ xa trên các gộp đá cũng thoăn thoắt chạy vào các hang động. Ðoàn ký giả quan sát kỹ cái thùng sắt thì thấy ngoài thùng có chữ mờ nhạt về dấu hiệu quân đội Ðức. Có lẽ vật này từ một máy bay Ðức bị lạc hướng và rơi xuống trong thời Thế chiến II và dân trong bộ lạc không muốn giữ lại những gì từ thế giới đầy vật chất bên ngoài. Sự lẩn tránh của họ đã nói lên điều đó. Ðoàn ký giả đã không tìm ra được người nào khác trong bộ lạc, tất cả như ẩn tránh không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Các hang động đều đóng kín bởi các khối đá lớn. Các ký giả Pháp suy đoán rằng người đàn ông ngồi chờ họ là trưởng bộ lạc hoặc nhà phù thủy. Ðiều kỳ lạ là không hiểu nhờ đâu mà ông ta biết được đoàn ký giả này sẽ đến và trong đoàn có người bị tai nạn gãy chân để chuẩn bị trước mọi thứ cần thiết. Ngoài ra phương cách trị gãy xương như vậy rõ ràng vượt ra khỏi tính cách khoa học của ngành y khoa hiện đại nhưng kết quả lại hoàn toàn thành công. Phải chăng cư dân ở đây chữa trị chỉ bằng hiện tượng siêu linh huyền bí? William Halse Rivers (1864-1992), nhà nghiên cứu nổi tiếng về văn minh của các bộ tộc hoàng gia, đặc biệt là các vùng hoang đảo thuộc Châu Ðại Dương đã cho rằng nhiều nơi cư dân tuy thưa thớt, man dã nhưng đời sống tâm linh lại rất cao. Theo Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương (1989) thì có những thổ dân chữa bệnh không cần thuốc như tại Phi Luật Tân nhiều nhà phẫu thuật đã dùng loại năng lực thuộc lãnh vực tâm linh để giải quyết thành công các ca phẫu thuật, có người cho rằng họ là con cháu của những người thuộc bộ lạc Kahuna đã mai một. Có lẽ thiên nhiên quá gần gũi với họ và họ đã hòa tâm hồn vào vũ trụ cùng với biển cả bao la, lại không bị vật chất ràng buộc nên trí óc họ trong sáng và dễ thu nhận những sự kiện huyền diệu thuộc lãnh vực tâm linh chan hòa trong vũ trụ tự nhiên. Theo Rivers thì nhiều bộ tộc có lắm người truyền cho nhau tư tưởng qua không gian như hiện tượng telepathic vậy (thần giao cách cảm). Phải chăng điều nhận xét của nhà nghiên cứu lỗi lạc Rivers đã chứng minh rõ ràng qua chuyến thám hiểm của đoàn ký giả Pháp vừa kể trên.

Người Âu Mỹ gọi hiện tượng kỳ diệu này nằm trong lãnh vực Telepathic hay Thần Giao Cách Cảm và hiện tượng được gọi là Clairvoyance (nhìn xuyên suốt qua mọi vật) hay hiện tượng Ý thức lan rộng, bành trướng trong không gian, điều mà các nhà quân sự hiện nay đang lưu tâm nghiên cứu và ước vọng trong tương lai sẽ nhờ đó mà thăm dò tìm hiểu rõ ràng các căn cứ bí mật quân sự của đối phương hay biết được các âm mưu, kế hoạch của địch... Hiện nay, các trường Ðại Học ở Hoa Kỳ, cùng với các bệnh viện, các phòng thí nghiệm quân sự và các viện nghiên cứu đang tập chú nghiên cứu các hiện tượng này.

Một số lớn các nhà nghiên cứu Âu Tây đã chú tâm nghiên cứu về nguyên gốc phát sinh những khả năng đặc biệt đó, nguồn gốc phát sinh theo nhận thức của họ là Con Mắt Thứ Ba hay Huệ Nhãn.

Trong các tư liệu viết về Chakras là các trung tâm tích tụ năng lực con người thì có trung tâm Ajna được xem là một trong các trung tâm quan trọng nơi phần đầu của cơ thể con người. Trung tâm Ajna nằm giữa hai chân mày.

Có hình

Như vậy nguyên tắc và sự vận hành cũng giống như sự phát sóng của đài phát thanh và sự bắt được làn sóng của những cái Radio. Cũng từ sự kiện này mà có thể suy đoán thêm rằng: Cuộc sống ở chốn thị thành huyên náo cũng là một trong các nguyên nhân làm cho con người dễ mắc bệnh tâm thần bởi lý do chính là tại nơi đây đã tập trung vô số nguồn tư tưởng hỗn tạp, tạo nên những âm ba rối rắm lộn xộn ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng, trí óc mỗi người khiến họ không còn khả năng điều khiển nổi tư tưởng của mình nữa, tâm trí bị phá hoại, hao tán nên tinh thần không được minh mẫn dễ rơi vào những tình huống xấu xa, tội lỗi, kéo theo sự suy nhược thần kinh và cơ thể sẽ bị nhiều thứ bệnh hoành hành mà phổ biến nhất là loại bệnh tâm thần và cả bệnh ung thư nữa. ...

Có hình

Cũng theo tư liệu này thì khi tập trung tư tưởng con người dễ dàng tiếp nhận được các làn sóng rung động khác. Ðây là một quyền năng còn thâm sâu vi diệu hơn nữa trong lãnh vực chuyển di tư tưởng hay tiếp nhận tư tưởng của kẻ khác. Có nghĩa là sẽ nhận được nhiều tư tưởng trên khắp các tầng số, băng tầng...

Ðoàn Văn Thông



Sưu tầm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.

  • Đức Giáo Tông Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 14-3 Quý Hợi
  • 10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
  • Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS)
  • Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides