Thứ Bảy, 20 tháng 11, 2021
RA ĐỜI, VÀO ĐẠO
Càng ngày tôi càng trông tỏ hai nẻo đường, mà nhân loại bắt buộc phải băng qua:
1.- Nẻo đường hướng ngoại: để thích ứng với hoàn cảnh.
2.- Nẻo đường hướng nội: để tiến hóa; để đắc Đạo, phối Thiên.
Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2021
Thứ Hai, 12 tháng 7, 2021
Thứ Năm, 8 tháng 7, 2021
GIỚI CẤM CHO TỊNH VIÊN
Thứ Năm, 1 tháng 7, 2021
Thiên Chúa đến trong kỳ ba
1. Hai ngàn năm trước Chúa giáng sinh nơi trời tây,
Bao người vui sướng đón Chúa đến một mùa đông,
Chuộc tội hình, chịu đóng đinh trên thập giá,
Cho công nghĩa cuộc đời, sứ mạng này, Cha Trời Thiên Chúa truyền trao.
Thứ Bảy, 19 tháng 6, 2021
MƯỜI ÐIỀU BIỆN MA CHO NGƯỜI TU THIỀN
Ban ngày ban mặt lại có vấn đề ma mị sao? Không nên ngủ mê nói mớ làm cho thiên hạ một phen chạy loạn lăng xăng. Thực ra ma với không ma cũng tại ta. Một niệm không dừng được là ma dẫn ta vào luân hồi sanh tử, một niệm ta làm chủ được hoàn toàn thì đất nước ta thanh bình. Thế thì có ma gì? Chẳng qua tất cả tự ta mà ra.
Còn như thuật trị ma xưa nay trong thiền đường thường dùng là "Điều được tâm lăng xăng của mình, dừng được vọng tưởng điên đảo của mình". Tương đối ổn định được vọng tưởng của mình, ông chủ đã nắm quyền làm chủ được, còn nói gì là ma với không ma? Nói cho cùng ma hay không ma cũng chỉ một cách nói thôi. Chỉ xin là trên lộ trình Phật Đạo ta không nên dừng lại ở bất cứ nơi nào, mà phải tiến và khắc tiến đến cùng mới tới nhà. Cũng lại không có một chút gì để cho ta nắm bắt đâu,mà phải buông và buông cho thật sạch mới ổn.
Thứ Ba, 8 tháng 6, 2021
Bài học về văn hóa tư duy từ Khổng Tử: Quân tử hay tiểu nhân chỉ khác nhau ở sự cân bằng và kiềm chế mà thôi!
“Đạo của Trời lấy chỗ dư bù chỗ thiếu, đạo của Người lấy chỗ thiếu bù chỗ dư”.
Chúng tôi xin giới thiệu bài viết "Quân tử hay hiệu quả của văn hóa tư duy" của Chuyên gia tư vấn và đào tạo Kỹ năng bán hàng & Quản lý bán hàng Đỗ Xuân Tùng. Mời độc giả đón đọc.
Thứ Hai, 7 tháng 6, 2021
KIẾM TÌM THƯỢNG ĐẾ
Đây là chuyện tôi nghe:
Trà đồng lên Tàng Kinh Các gặp sư huynh quản thủ. Nhìn quyển tập nơi tay chú em, quản thủ hỏi:
Chủ Nhật, 6 tháng 6, 2021
Hai chữ người Thầy trong quan niệm của Khổng Tử
Thứ Bảy, 5 tháng 6, 2021
Chánh Tinh Tấn và cơ hội
Trong mỗi giây phút của cuộc sống, tiềm năng của ta thật là mênh mông. Trong ta lúc nào cũng có một khả năng vô cùng của sự can đảm, tỉnh thức và tình thương. Dù vậy, đa số chúng ta lại bị giới hạn bởi điều kiện, chịu sống trong một tình trạng bất lực, tin rằng mình không có khả năng thực hiện những gì mình muốn. Ta đóng kín con tim mình lại. Chúng ta tự nhủ, "Tôi không làm việc ấy được. Tôi không đủ khả năng. Tôi không đủ mạnh. Tôi bất tài..." Dần dà theo thời gian, những ý nghĩ ấy sẽ kết đặc lại thành một hình ảnh về con người của ta. Và rồi ta sẽ bị giới hạn bởi quá khứ của mình, bởi những lần ta thất bại, bởi mặc cảm tự ti. Tội nghiệp thay, chúng ta vì không biết nhìn sâu nên đã tự xem thường cái năng lượng vô cùng đang tiềm tàng trong mỗi người chúng ta. Ta quên mất đi con người thật của mình.
Thứ Tư, 26 tháng 5, 2021
Tôn Giáo Tính và Đời Sống Tôn Giáo
Khái niệm "Tôn giáo" đã được tranh cãi rất nhiều và vẫn chưa đi đến một kết luận, dù hiện nay "tôn giáo" đã trở thành là vấn đề lớn chung của toàn cầu vì những biến động tôn giáo không ngừng xảy ra trên thế giới; và dường như con người đang cảm thấy bế tắc trong việc tìm ra một giải pháp cho hòa bình nhân loại trong đó bắt buộc phải tháo gỡ những vướng mắc bắt nguồn từ "tôn giáo".
Trên con đường đi tìm một định nghĩa chính xác cho thuật ngữ "Tôn giáo", các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều phương pháp khác nhau, từ ngược giòng lịch sử để quan sát toàn bộ diễn trình lịch sử tôn giáo cho đến đi sâu vào từng tôn giáo trên thế giới để mong nắm được bản chất đích thực tôn giáo . Cuối cùng cũng chỉ mới dừng lại ở điểm chung tương đối với cách hiểu tôn giáo:
"1-Tôn giáo là một thực thể khách quan của lịch sử loài người. Nó la một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người, của từng cộng đồng xã hội; 2-Tôn giáo là một yếu tố cần nghiên cứu, vì qua nó mới hiểu được đầy đủ đời sống xã hội và văn hóa tinh thần của nhân loại, dân tôc, của một cộng đồng, hay một cá nhân bất kỳ; 3-Tôn giáo vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính xã hội. Bản thân tôn giáo có cuộc sống riêng. Nó có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực cuộc sống, nó có những biểu hiện rất khác nhau giữa các cộng đồng, các thành viên trong một cộng đồng, chẳng hạn các nghi thức, cấm kỵ, hiến tế, cầu xin, thờ cúng, nơi thừa tự…"
Hầu hết các nhà khoa học nghiên cứu về tôn giáo đều cho rằng : tôn giáo là một sản phẩm của Con người, do Con người sáng tạo ra và bị nó chi phối. Marx cũng kết luận: "Con người sáng tạo ra tôn giáo , tôn giáo không sáng tạo ra con người". Không phủ nhận quan điểm này nhưng vấn đề đặt ra là tôn giáo được phát sinh từ nhu cầu nào của cuộc sống con người? Tại sao con người cần tôn giáo? Chức năng và nhiệm vụ của tôn giáo ra sao ?
Con người dù sơ khai hay con người văn minh đều có niềm tin vào một hiện thực tâm linh siêu việt ở bên ngoài thế giới loài người, bởi vì như J.Nehru đã viết trong tác phẩm "Phát hiện An Độ":"Cuộc sống không phải bao gồm toàn những gì chúng ta nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy, tức là thế giới hữu hình đang biến đổi theo thời gian , không gian; nó còn liên tục tiếp xúc với một thế giới vô hình của các yếu tố khác, có thể bền vững hơn hoặc cũng biến đổi như vậy; và không một ai có trí suy xét lại có thể bỏ qua thế giới vô hình này"
Điều đáng nói là niềm tin đó được thể hiện vô cùng phong phú và đa dạng từ ngây ngô, đơn giản nhất đến tinh tế, phức tạp, phổ biến tùy theo căn cơ , trình độ tiến hoá, tri thức, thời đại… của mỗi người. Niềm tin đó phát xuất từ sự quan sát hay cảm nhận của mỗi người đối với mọi sự vật chung quanh trong đời sống, để thấy được những điều không bình thường, hoặc không thể lý giải bằng những qui luật của thế giới hữu hình và có thể gây cho con người nỗi sợ hãi. Các nhà nghiên cứu gọi đó là những phản ứng vô thức của bản năng con người mà đã hiện diện trong lịch sử nhân loại từ khi chưa có dấu vết tôn giáo, thí dụ như sự sợ hãi của người sơ khai trước những hiện tượng thiên nhiên. Và phản ứng bản năng này ngày nay vẫn còn: "Ta cũng có thể thấy hiện tượng đó ngay cả ở những con người văn minh trước những tai nạn khó lường, ngày càng gia tăng trong thế giới công nghiệp hiện đại"
Những phản ứng bản năng nhìn chung đều bắt nguồn từ nỗi sợ hãi về cái chết mà con người cảm thấy rằng mình bất lực đối kháng. Từ đó dẫn đến những niềm tin vào thế giới vô hình mà con người tin đang tồn tại song song với thế giới hữu hình và có thể tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống, làm nên những chuyện may mắn hay rủi ro, tai họa… cho con người. Như vậy, dù muốn dù không cũng phải nhìn nhận đây là một thuộc tính của bản năng con người và có thể đồng ý với cách gọi niềm tin này là "tâm thức cá nhân" hay "tôn giáo tính".
" Tôn giáo tính" được biểu hiện qua rất nhiều dạng khác nhau trong những lĩnh vực đời sống, ở những mức độ khác nhau tùy theo trình độ tiến hóa của mỗi người, từ chỗ thấp nhất, như việc cầu khấn của một người nơi một miểu nhỏ bên vệ đường thờ một hay nhiều người đã chết vì tai nạn xe cộ tại nơi đây, để mong được thỏa mãn một ước muốn như trúng số đề ; hay cao hơn là sự lễ bái của con cháu trước bàn thờ tổ tiên giữa khung cảnh trang nghiêm trong ngày gia đình cúng giỗ , hoặc không khí thiêng liêng của giây phút cử hành lễ mặc niệm tưởng nhớ những bậc anh hùng vị quốc vong thân,… đến chỗ cao nhất là niềm tin vào một tôn giáo.
"Tôn giáo tính" không chỉ hiện diện nơi mỗi cá nhân mà còn tồn tại trong xã hội, trong nền văn hóa của mỗi dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử đã làm nên niềm tự hào cho cả giống nòi, dân tộc như huyền thoại "Con Rồng cháu Tiên", "Thánh Gióng", "các vua Hùng"…..của người Việt Nam.
Chính cái "tôn giáo tính" đã làm cho con người khác con vật và chứng tỏ con người là sinh vật tiến hóa cao nhất trong muôn loài, mà con người có được là do phần thiêng liêng ẩn chứa trong tận cùng sâu thẳm của tâm thức mỗi người mà các tôn giáo gọi là "Thiên tính" (Khổng giáo), "Phật tính" ( Phật giáo), "Linh quang"( Cao Đài), hay hiểu nôm na là "chất Trời". Và phần thiêng liêng này khi được phát huy sẽ giúp con người hành sử đúng theo "thiên lý" tức "lẽ Trời" hay "nhân bản" mà có thể hiểu nôm na là "đạo lý" hay "lương tâm con người".
Ngay từ chỗ này mà tôn giáo đã được khai sinh. Với chức năng và nhiệm vụ điều chỉnh "tôn giáo tính" , tôn giáo hướng dẫn con người phát huy "niềm tin hiện thực tâm linh siêu việt ở bên ngoài thế giới" của mình theo chiều hướng thượng, thăng hoa, để làm thức dậy phần thiêng liêng cốt lõi đang say ngủ trong tâm thức của mỗi người, giúp con người tiến hóa không chỉ về mặt tâm linh hay đạo đức tức hoàn thiện bản thân mà còn tạo tiền đề xây dựng sự ổn định trật tự trong xã hội nhân sinh. Đó chính là cứu cánh đích thực của tôn giáo.
Nhưng đáng buồn là xuyên suốt các thời kỳ lịch sử tôn giáo, tôn giáo đã không làm tròn chức năng và nhiệm vụ của mình do chính bởi con người đã điều khiển tôn giáo bằng tham vọng riêng tư; ràng buộc tôn giáo vào lợi quyền, tư hữu của con người để rồi gắn liền tôn giáo với chính trị, làm biến chất tôn giáo.
Tôn giáo chỉ là con thuyền đưa khách
Bản chất đích thực của tôn giáo chỉ là công cụ, phương tiện, ngoài việc nhằm hướng dẫn con người tìm về sự giải thoát tâm linh là mục đích cuối cùng mang tính chất thiêng liêng, còn nhắm đến mục tiêu dẫn dắt con người xích lại gần nhau, tìm thấy tiếng nói chung trong cộng đồng loài người trên cơ sở chân lý là đạo đức để cùng góp phần xây dựng một cuộc sống hòa bình an lạc, chứ tôn giáo không phải là "gia tài" hay "di sản" của riêng bất cứ cá nhân, tổ chức, hay dân tộc nào để con người nhân danh bảo vệ, hay tôn sùng cá nhân tôn giáo để đưa đến tranh giành, giết chóc, tàn sát lẫn nhau. Thánh giáo đạo Cao Đài có dạy: "Tôn giáo là con thuyền đưa khách mà Đạo là bến đỗ. Tất cả các con thuyền đều xuôi về bến đỗ"
"Đạo" được hiểu là năng lực và qui luật bất biến của vạn hữu, là chỗ xuất phát vạn hữu và cũng là chỗ vạn hữu qui về. Con người từ Đạo mà đến. Đến nơi đây để cùng nhau xây dựng cuộc sống sáng tạo với những điều đẹp đẽ làm thành gia tài chung cho nhân loại. Rồi con người sẽ quay về với Đạo. Trong ý nghĩa đó, tất cả các tôn giáo đều giữ vai trò của con thuyền đưa khách tìm về bến bờ chân - thiện - mỹ là Đạo. Khách đi thuyền không có lý do gì khi đã sang bờ, thuyền cập bến rồi , không chịu rời thuyền mà quay lại giành thuyền nhân danh bảo vệ thuyền vì thuyền là của tôi, hay vì thuyền đã giúp tôi đến được bến bờ chân lý. Rời thuyền không phải là một hành vi bội bạc mà trái lại, chính là sự trả ơn để thuyền tiếp tục làm tròn nhiệm vụ đưa khách của nó.
Khi nói đến tôn giáo, người ta nghĩ đến cái thiêng và thường đồng hóa "tôn giáo" với "tín ngưỡng". Dĩ nhiên không thể phủ nhận tôn giáo đi liền với tín ngưỡng và cái thiêng. Nhưng không phải tín ngưỡng nào cũng là tôn giáo, và càng không phải cái thiêng nào cũng của tôn giáo. Tôn giáo có giáo lý, có những qui điều giới luật mà theo đó, con người nếu chấp hành, bản thân sẽ trở nên tốt đẹp hơn , dần dần đi đến chỗ hoàn thiện. Nếu tôn giáo nào có những điều luật đi ngược lợi ích của người khác, hay chỉ nhằm phục vụ cho một nhóm người thì chính là do con người đã cải cách, sửa đổi tôn giáo theo ý họ. Đường lối tôn giáo ban đầu thì đúng, nhưng do ngươì thi hành đường lối tôn giáo có canh cải, qua nhiều thế hệ cho nên tôn giáo lần lần đi vào chỗ sai lệch, thay đổi bản chất.
Con người sử dụng tôn giáo như một công cụ phục vụ thế quyền. Thực vậy, ý niệm "con thuyền đưa khách"của tôn giáo không còn nguyên sơ thanh thoát qua hình ảnh:
"Non xanh, nước biếc một con đò.
Ai qua bỉ ngạn Lão đưa cho.
Bao nhiêu hành lý xin chừa lại
Chỉ chở Hà đồ với Lạc Thơ."
(Thánh giáo Cao Đài)
vì con thuyền đã bị con người lèo lái hướng đến danh vọng, quyền lực, lợi ích riêng tư, chính trị,…để cuối cùng tôn giáo chỉ cập bến bờ thù hận, tương tranh, khủng bố, giết chóc…Tôn giáo đã bị thế tục hóa và bị nhận diện qua các hiện tượng: " Tôn giáo luôn gắn liền với chính trị. Các thế lực chính trị- xã hội không ngần ngại lợi dụng sự chuyển biến đầy phức tạp của tôn giáo , phục vụ cho ý đồ riêng tư. Ngược lại, những tổ chức và lực lượng tiến bộ, trong đó có cả những người cộng sản, lại muốn đưa tôn giáo vào những cuộc đấu tranh vì những mục đích lành mạnh: bảo vệ hòa bình, bảo vệ môi trường…, đấu tranh vì tiến bộ, độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc."
Tôn giáo là sự kết hợp giữa "cái thiêng" và "cái phàm" ; giữa" hữu hình" và "vô hình" qua tác động của chiếc cầu nối là "đức tin". Thiếu một trong hai không có tôn giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng niềm tin nơi con người về một hiện thực tâm linh siêu việt ở bên ngoài thế giới hữu hình có nhiều kiểu dáng, cấp độ khác nhau và chính tôn giáo điều chỉnh niềm tin đó theo một chuẩn mực dựa trên cơ sở có lý luận, tách biệt khỏi cái "mê tín" vốn thuộc lĩnh vực "tín ngưỡng".. mặc dù tôn giáo nào cũng khởi đầu bằng những huyền thọai. Nhưng phải hiểu một cách đúng đắn những huyền thoại của tôn giáo vì đó là những câu chuyện hàm chứa ý nghĩa ẩn dụ thuộc phạm trù "Đạo học" , nói lên "lý Đạo" mà con người phải chiêm nghiệm mới có thể thấy được sự tế vi , huyền nhiệm. Thí dụ: Khi nói đến câu chuyện Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội bồ đề, khi sắp đắc đạo, Ngài bị ma quỷ hiện thành những cô gái đẹp ra sức quyến rũ,cám dỗ , thì phải hiểu "ma quỷ" là những ham muốn sinh lý trong bản thân của mỗi người,sẽ thử thách người tu luyện khi chọn con đường "tuyệt dục". Hoặc như chuyện "Tây Du Ký" của tác giả Ngô Thừa An mà đã được tác giả Lê Anh Dũng giải mã một cách hết sức lý thú. Mặt khác, chính những huyền thoại tôn giáo cũng như những "cái linh thiêng " của tôn giáo là những bước đầu cần thiết để tôn giáo tiếp cận với con người, mới có thể quy hướng niềm tin con người vào chỗ cao thượng, ích lợi cho chính con người và xã hội con người.
Nhờ tôn giáo, con người sẽ đóng khung được "tôn giáo tính' của mình và dẫn dắt nó đi theo con đường có định hướng để rồi tự sửa đổi bản thân từ xấu ra tốt, từ ác ra thiện, từ vị kỷ thành vị tha… Bằng nhiều cách nói khác nhau, nhưng tựu trung tôn giáo nào cũng muốn chỉ ra cho con người thấy rằng con người là một chủ thể tự do, có khả năng tiến hóa vô cùng to lớn, vì được đứng trong thế Tam tài "Thiên- Địa- Nhân" tức ngang hàng cùng Trời Đất. Xác thân con người sẽ bị hủy diệt theo thời gian nhưng tâm linh con người vẫn tồn tại và nếu con người biết rèn luyện, phát triển, phần tâm linh sẽ tiến hóa lên hàng siêu xuất thế gian tức là thành thần thánh tiên phật. Chính vì vậy mà Phật giáo nói: "Phật là phật đã thành, chúng sinh là phật sẽ thành" hoặc nói như Cao Đài giáo: "Thầy (Thượng Đế) là các con, các con là Thầy" hay: "Tu là học để làm Trời, chứ đâu kiếp kiếp làm người thế gian"
Mục đích của tôn giáo không phải tập trung ở nghi lễ cúng kính với sự cuồng tín suy tôn mặc dù đối với con người, nghi lễ phải có để bày tỏ lòng tôn kính với các Đấng Thiêng Liêng, nhưng ý nghĩa đích thực của nghi lễ trong đời sống tôn giáo là để con người có những phút giây lắng lòng hòa quyện cùng với cái thiêng mà trở về với sự cao thượng của tâm hồn hầu xa lánh cái tục vốn nặng phần tính toan tranh đấu. Đã đành không có nghi lễ không thể hiện tôn giáo nhưng đừng ngộ nhận có nghi lễ cúng kính, có thờ phượng là có tôn giáo, nếu như những nghi lễ đó không đem lại một lợi ích thiết thực cho sự thăng hoa tâm hồn con người hoặc tệ hơn, chỉ phục vụ cho những ước muốn tầm thường của con người trong cuộc sống thế tục.
Như vậy, tôn giáo nào cũng hướng con người đến sự rèn luyện hoàn hảo nhân cách để đủ điều kiện thực hiện tiếp tục sự tiến hóa trong cõi vô hình phù hợp với công cuộc tiến hóa chung của toàn thể vũ trụ sau khi rời bỏ xác thân. Đó mới chính là cứu cánh đích thực của tôn giáo.Do vậy, tôn giáo phải là ánh sáng dẫn lối con người :"ánh sáng vị tha rọi sáng lòng ích kỷ, ánh sáng bác ái sẽ rọi sáng bóng tối hẹp hòi, ánh sáng tình thương sẽ phá tan màn đâm u tối, ánh sáng từ bi sẽ dẫn lối cứu khổ cuộc đời, ánh sáng công phu sẽ phá tan màn lưới vô minh, ánh sáng công quả sẽ chan hòa tánh hẹp hòi bon chen ích kỷ, ánh sáng phúc đức sẽ tiêu rỗi nghiệp chướng tiền khiên, ánh sáng nhơn hòa sẽ phá tan phái phe kỳ thị…" (Thánh giáo Cao Đài)
Trong ý nghĩa đó, tất cả các tôn giáo đều có chung một bản chất nền tảng là đạo lý , cùng thực hiện một nhiệm vụ là giáo dân vi thiện, nhắm đến cứu cánh giúp cho tâm linh con người tìm đến một sự giải thoát . Mỗi một tôn giáo ra đời tuỳ hoàn cảnh lịch sử, xã hội, địa lý, văn hóa, phong tục , tập quán của mỗi nơi, cho nên có những hình thức khác nhau. Đó là ở góc độ hữu hình; nhưng ở khía cạnh vô hình, mỗi tôn giaó được khai sinh là do thiên cơ với ý nghĩa " đời loạn, đạo khai". Các tôn giáo lần lượt được khai mở phù hợp với những điều kiện thực tế của nhân sanh, để dễ dàng cho con người tiếp cận và đón nhận. Cho nên tại sao một tôn giáo ra đời nơi này mà không phải nơi khác, vào lúc này mà không phải lúc khác?
Nói một cách cụ thể, bởi lẽ con người có bản năng nội tại là tâm thức cá nhân hay tôn giáo tính phát xuất từ hạt nhân thiêng liêng tiềm ẩn, con người cần có tôn giáo như là phương tiện để điều chỉnh, dẫn dắt, giúp con người phát huy hướng đến chỗ hoàn thiện hóa bản thân nhờ vào những giáo điều, qui luật của tôn giáo, để làm tiền đề cho việc góp phần xây dựng một xã hội thái hòa an lạc trong cuộc sống thế gian và tiếp tục những chặng đường tiến hóa tâm linh cao hơn sau khi rủ bỏ xác thân. Nếu con người nhận thức đúng đắn như vậy, con người khi bước vào ngưỡng cửa tôn giáo, giống như người khách bước chân xuống đò để sang sông, và đích điểm là bờ bên kia chớ không phải là con đò. Từ đó, con người sẽ không còn những định kiến so sánh tôn giáo nào lớn, tôn giáo nào nhỏ; hay tôn giáo nào kế thừa tôn giáo nào. Và điều cần hơn hết là không còn sự phân biệt, kỳ thị: " tôn giáo của bạn" và "tôn giáo của tôi", vốn dĩ chính là nguyên nhân đưa đến những cuộc thánh chiến triền miên trong lịch sử nhân loại và lịch sử tôn giáo.
Thay vì biến tôn giáo thành một thứ tư hữu để lăn xả hy sinh bảo vệ một cách cuồng tín, con người chỉ cần hành động ứng xử theo cách mà các vị giáo chủ tôn giáo của mình đã làm hay đi theo con đường mà các Ngài đã đi, để trở thành những Thích Ca, những Khổng tử, những Jésus, những Lão Tử, những Mohamed,… thì thế giới này sẽ ngập tràn ánh sáng của tình thương và nhân loại không phải khổ đau vì chiến tranh, thù hận và tôn giáo cũng nhờ đó mà rạng danh.
Nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam, trải qua vô số các cuộc chiến tranh liên tiếp, nhưng tất cả chỉ là những cuộc kháng chiến tranh đấu bảo vệ bờ cõi non sông trước sự xâm lấn của ngoại bang chứ hoàn toàn không có những cuộc xung đột tôn giáo. Phải chăng đó là hệ quả tất yếu của nền văn hóa nông nghiệp với truyền thống thờ Trời, cộng với tâm hồn phóng khoáng, gần gũi, nhưng kính trọng thế giới tự nhiên của người Việt tự ngàn xưa đã làm nên truyền thống bao dung trong tín ngưỡng của dân tộc Việt được thể hiện qua các giòng tín ngưỡng dân gian vô cùng phong phú tồn tại song song với tinh thần tam giáo đồng nguyên được ghi nhận từ rất lâu trong lịch sử nước nhà.
Như vậy, có phải chính nhờ vào cái "gia tài tín ngưỡng" phong phú đa dạng này mà dân tộc Việt trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm với nhiều giai đoạn trong đó có những giai đoạn tự chủ, văn minh tỏa sáng, vẫn chưa có nhu cầu cần thiết có thêm một nền tôn giáo bản địa, mặc dù phần tâm thức cá nhân hay tôn giáo tính của dân tộc rất mạnh mẽ? Hay nói rõ hơn, do chiếc thuyền từ tôn giáo chỉ được thả ra khi giòng đời nghiêng ngửa, nhân tâm ly loạn trong sự xói mòn mất mát những giá trị đạo lý tinh thần vốn tối cần cho con người trong cuộc sống; mà dân tộc Việt Nam dù phải chịu nhiều đau khổ dưới ách thống trị của ngoại bang từ thế hệ này sang thế hệ khác nhưng những giá trị tinh thần truyền thống đậm chất đạo lý của giống giòng Hồng Lạc vẫn không chút lung lay ngược chiều thiên lý, cho nên từ "nhân" đến "Thiên" đều nhất quán không cần có một tôn giáo của VN, để làm nổi bật tinh thần bao dung tín ngưỡng độc đáo của con cháu vua Hùng.
Cho đến khi công cuộc mở đất về phương Nam sắp kết thúc nơi miền cực Tây của tổ quốc, là lúc cả thế giới đều bắt đầu lâm vào tình trạng rối ren của một thời đại nhiễu nhương mới, do bởi con người quá nặng về phần văn minh vật chất với tham vọng bá quyền, những sự tranh đua, giành giựt lên đến đỉnh cao làm tha hóa mọi giá trị đạo đức nhân bản, trong đó VN cũng phải chịu cùng chung số phận bị xâu xé. Và đây mới là thời cơ chín muồi cho sự ra đời của các tôn giáo bản địa.
NGƯỜI VIỆT NAM BỘ VÀ CÁC TÔN GIÁO BẢN ĐỊA
Trong lịch sử Việt Nam, Nam bộ là vùng đất trẻ nhất , chỉ mới hình thành hơn 300 năm; và công cuộc Nam tiến là cả một quá trình gian khổ tiếp nối bởi nhiều thế hệ người Việt đã rời bỏ quê hương, dấn thân vào cuộc tha phương cầu thực vô cùng gay go, hiểm hóc. Dù vùng đất phương Nam phì nhiêu, màu mỡ, với nguồn tài nguyên phong phú, nhưng vẫn còn hoang hóa, xa lạ, cho nên những người đi mở cõi không chỉ phải chống chỏi với thiên nhiên mà còn phải đương đầu với thú dữ, sơn lam chướng khí, bệnh tật và vô vàn những trở ngại khác trên bước đường khai phá những cánh rừng hoang vu, cải tạo những vùng đầm trũng chưa từng có bước chân người.
Tại sao chỉ Nam bộ mới hình thành các tôn giáo bản địa?
Với đặc điểm địa lý- sinh thái vừa thuận lợi vừa khó khăn của miền đất miền Nam, quá trình tranh đấu cho cuộc sống mới đã để lại những dấu ấn riêng trong đời sống văn hóa và tâm linh của những lưu dân người Việt , góp phần tạo nên một bản sắc Nam bộ mà đặc biệt là sự hình thành những tôn giáo bản địa trong thời gian từ gần nửa cuối thế kỷ XIX đến quá đầu thế kỷ XX : Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ An Hiếu Nghĩa, Cao Đài và Hòa Hảo.
Như vậy phải chăng Nam bộ là vùng đất linh hội tụ khí thiêng của Trời Đất, nên mới sản sinh những vị giáo chủ khai sáng tôn giáo giúp cho con người có được chỗ dựa tâm linh? Hay do bởi nhiều yếu tố khách quan tác động mà Nam bộ đã có những điều kiện để hình thành các tôn giáo ?
Thực tế, các tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ An Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo đều khởi phát từ vùng đất An Giang, nơi có nhiều núi non bí hiểm lại giữa vùng châu thổ đồng bằng Cửu Long có nhiều sông ngòi chằng chịt. Riêng đạo Cao Đài chính thức khai mở tại Tây Ninh, cũng là nơi có ngọn núi Bà Đen, trung tâm điểm của vùng văn hóa tín ngưỡng dân gian Nam bộ và được xem là nơi hun đúc khí thiêng của Trời - Đất. Đồng thời, trong quá trình khai đạo Cao Đài có dính líu đến các tỉnh Hà Tiên , Phú Quốc, những địa danh cùng với Châu Đốc và Tây Ninh được xếp vào vùng đất địa linh được tạo nên bởi Cửu Long Giang. (Thất Sơn-An Giang, núi Dương Đông- Phú Quốc, núi Thạch Động -Hà Tiên, núi Điện Bà-Tây Ninh). Như vậy có thể nói trước hết, đặc điểm địa lý-sinh thái của Nam bộ đã tác động đến đời sống tâm linh tín ngưỡng của người Việt nơi đây, làm tiền đề cho sự ra đời cuả các tôn giáo địa phương.
Tiếp theo, về phương diện lịch sử, giữa thế kỷ 19, Nam bộ nằm trong bối cảnh chung của đất nước, nhưng với những hoàn cảnh cụ thể riêng biệt đã tạo nên những điều kiện để chỉ có Nam bộ mới hình thành các tôn giáo Việt.
Từ thế kỷ XVII, người Việt đã bắt đầu công cuộc khai phá và định cư trên vùng đất phương Nam. Cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn ngày càng khốc liệt, cuộc Nam tiến của người Việt ngày càng dồn dập. Phần đông lưu dân là nạn nhân của giai cấp địa chủ phong kiến muốn thoát cảnh đói nghèo cùng cực, hoặc là những thành phần trốn tránh luật lệ hà khắc hay sưu cao thuế nặng của triều đình. Ngoài ra cũng có binh lính nhà Nguyễn di dân theo chính sách dinh điền, mở thêm đất mới để củng cố tiềm lực phía Đàng Trong. Nhưng nhìn chung tất cả đều có chung một hoàn cảnh là phải tranh sống trong một môi trường đầy gian lao, sóng gió, bất ổn nên tạo cho họ một bản chất phóng khoáng, liều lĩnh mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là : "cá tính của nông dân Nam bộ". Đời sống của họ cởi mở, dễ thông cảm với người khác, chính là điều kiện để họ dễ dàng thấm nhập, chịu ảnh hưởng các nền văn hóa khác qua quá trình tiếp xúc giao lưu trên mảnh đất mới có nhiều tộc người.
Thực vậy, khi người Việt vào đất Nam bộ, đã có sự hiện diện của người Khmer, là những cư dân nông nghiệp có nền văn hóa chịu ảnh hưởng của Phật giáo kết hợp với tín ngưỡng dân gian. Rồi đến sự di cư của người Hoa đến Nam bộ, làm nghề thủ công, buôn bán mang theo tập tục thờ cúng Quan Thánh Đế Quân, Thiên Hậu Thánh Mẫu…Đến đầu thế kỷ XIX, có người Chăm theo đạo Hồi từ Campuchia, Thái Lan về định cư ở Châu Đốc và một số tỉnh Nam bộ. Cuộc sống chung giữa các cộng đồng cư dân này với người Việt đã hình thành một sinh hoạt văn hóa đa dạng, nhiều màu sắc, và chắc chắn có tác động đến việc ra đời của các tôn giáo bản địa.
Về mặt tín ngưỡng, những người đi mở đất, như đã nói, hầu hết là vì tha phương cầu thực, họ không phải là thành phần có điều kiện học hành, cho nên họ không chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Mặt khác, do triều Nguyễn cấm đoán, bài bác đạo Phật nên người dân cũng ít có cơ hội tiếp xúc. Họ chỉ in đậm trong tâm thức giòng tín ngưỡng dân gian được xem là gần gũi với Đạo giáo như tin tưởng bùa chú trị bệnh , trừ tà hay đồng bóng và niềm tin này đã được nuôi dưỡng mạnh mẽ do bởi hoàn cảnh sống luôn phải đương đầu với nhiều sự nguy hiểm, bệnh tật do muỗi mòng, thời tiết , hay sơn lam chướng khí của núi rừng.
Nói một cách cụ thể, người đi khẩn hoang nơi vùng đất mới xa lạ, bí hiểm với nhiều chướng ngại khách quan, tất nhiên phải có nhu cầu rất lớn về tâm linh, tín ngưỡng, mà hành trang tinh thần họ mang theo lại không có một tôn giáo chủ đạo có thể giúp họ an lòng khi gặp phải nguy hiểm, gian truân. Từ năm 1975, đã có giáo sĩ người Pháp đặt chân đến truyền đạo ở Hà Tiên, nhưng do giáo lý Thiên Chúa giáo xa lạ với tập quán, phong tục cổ truyền của Việt Nam nên không mang lại cho người dân Nam bộ niềm tin họ mong muốn.
Thêm vào đó, suốt từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, luôn xảy ra chiến tranh biên giới giữa nhà Nguyễn với Chân Lạp, Thái Lan, làm cuộc sống người dân luôn trong thế bất ổn. Chẳng những thế, triều đình nhà Nguyễn còn có chính sách di dân lập đồn điền, huy động dân đi đào kênh, khai phá đồng bằng với chế độ khắc nghiệt làm thiệt mạng rất nhiều người trong khi lao động. Từ đó phát sinh những cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại triều đình. Triều đình lại xuống tay đàn áp dã man.Người nông dân lại phải bỏ mảnh đất mới còn thấm đậm mồ hôi và nước mắt của mình để đi lánh nạn.Và nơi họ tìm đến ẩn náu, chính là những nơi hẻo lánh của vùng 7 núi.
Thời gian này lại diễn ra mất mùa, đói kém liên miên. Nạn địa chủ bóc lột tá điền gây cho người nông dân cảnh lầm than điêu đứng khôn cùng. Rồi lại thêm dịch bệnh tràn lan (Riêng năm Tự Đức thứ 2, 1849 riêng tỉnh Vĩnh Long đã có 43.000 người chết vì bệnh dịch)
Tiếp theo đó, Pháp chiếm Nam kỳ (1859) nhân dân Nam bộ đứng lên khởi nghĩa, nhưng gặp nhiều thất bại liên tiếp tạo nên sự khủng hoảng tâm lý nặng nề trong dân chúng. Xã hội Nam bộ vào nửa cuối thế kỷ XIX gần như rối loạn và lâm vào cảnh bế tắc. Tâm lý người dân hoang mang cực độ, họ chỉ còn biết trông chờ một phép lạ mầu nhiệm nào đó giúp họ thoát khỏi mọi đe dọa hiểm nguy.
"Đời loạn, Đạo khai". Đó là tiêu ngữ của tôn giáo. Vì nói theo tôn giáo, "đạo khai là để cứu đời". Đời đang quá nhiều khổ đau, bế tắc vì nhân tâm hụt hẫng, mất phương hướng, thì tôn giáo ra đời để chỉ cho con người lối thoát về mặt tâm linh, giúp con người phục hồi niềm tin và hy vọng hầu tiếp tục cuộc hành trình của kiếp người.
Như vậy, sự xuất hiện lần lượt các tôn giáo trong giai đoạn lịch sử này đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người Việt ở Nam bộ, trong những điều kiện, hoàn cảnh kết hợp chưa từng có trong lịch sử trước đó ở Việt Nam, nhất là những tôn giáo này chứng tỏ được tính thiêng, hay nói dễ hiểu, những người khai sáng tôn giáo đã thể hiện được sự mầu nhiệm làm cơ sở cho người dân tin và theo đạo để tạo điều kiện hình thành tôn giáo.
Có gì khác nhau giữa các tôn giáo bản địa và các tôn giáo đã có trước đó ở Việt Nam? Liệu có phải những tôn giáo bản địa đã sinh ra từ trong lòng những tôn giáo trước đó nhưng lại có gốc rễ cắm sâu trong lịch sử dân tộc và biểu thị tâm lý của dân tộc và tâm lý vùng?
Tìm hiểu các tôn giáo bản địa cũng như so sánh các tôn giáo bản địa với các tôn giáo đã có trước đó ở VN, chúng ta thấy có những điểm tương đồng về nội dung lẫn hình thức, cho nên có ý kiến:"Một tôn giáo ra đời sau dường như bao giờ cũng có sự kế thừa phần nào giáo lý, lễ nghi của tôn giáo ra đời trước. Sự kế thừa mang tính thụ ứng văn hóa đó (acculturation) nhiều ít, như thế nào, phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện, học vấn, phong tục tập quán, nếp sống của người khai sáng tôn giáo mới và cư dân trong vùng (tức đối tượng hấp thu, được đáp ứng nhu cầu từ tôn giáo đó)
Thực ra, tất cả các tôn giáo dù ra đời ở thời gian và không gian khác nhau, có những hình thức và cách diễn đạt đường lối, tôn chỉ , mục đích khác nhau nhưng tựu trung cũng có chung một nền tảng đạo lý, nhằm hướng đến sự cởi mở tinh thần con người, làm tiền đề cho sự kiến tạo hạnh phúc đích thực cho con người về mặt nhân sinh, đồng thời cũng chỉ ra đường hướng tiến hóa của tâm linh con người ở thế giới siêu xuất thế gian. Do đó, không thể nói rằng tôn giáo này được sinh ra từ trong lòng tôn giáo khác, mà chỉ có sự phân hóa một tôn giáo thành những hệ phái, chi phái khác nhau; hay nói cách khác, một tôn giáo có thể bị biến thái để phù hợp với yêu cầu của hoàn cảnh xã hội hay trình độ của con người đặt niềm tin vào tôn giáo đó.
Trong 4 tôn giáo bản địa, có tới 3 tôn giáo có cùng một cách lập giáo, do con người sáng lập, cùng phương cách ban đầu là thể hiện tính thiêng qua việc chữa bệnh,đồng thời dùng lời đạo lý thuyết phục con người tin tưởng, từ đó đưa ra đường lối , mục đích trên cơ sở một hệ tư tưởng dẫn dắt con người đến một đức tin. Riêng đạo Cao Đài, cũng ra đời trong cùng một bối cảnh lịch sử và xã hội nhưng cách lập giáo có khác. Giáo chủ đạo Cao Đài không phải là người phàm đã chứng ngộ, mà là một Đấng Vô Hình - Đức Thượng Đế - đã liên lạc với con người qua cơ bút, một hình thức đã từng được sử dụng trong đạo Lão, lại phổ biến ở phương Tây trong thời gian đó. Tính thiêng ban đầu của đạo Cao Đài được thể hiện qua việc cầu cơ. Tất cả đường lối, tôn chỉ, mục đích và giáo lý đạo đều được các Đấng Thiêng Liêng dạy qua cơ bút. Những người đầu tiên tham dự việc cầu cơ đều trở thành đệ tử của Đức Thượng Đế.
Nhìn chung, các tôn giáo bản địa có những điểm chung, nhưng không thể căn cứ trên thời điểm ra đời của mỗi tôn giáo để kết luận có sự kế thừa giữa các tôn giáo này, cũng như với các tôn giáo đã có trước đó. Bởi vì, bản chất đích thực của tôn giáo chỉ là phương tiện để giúp con người tìm đến chỗ duy nhứt của vũ trụ là ĐẠO, được hiểu như là năng lực và qui luật bất biến của vạn hữu, là chỗ xuất phát vạn hữu và cũng là chỗ vạn hữu qui về. Hiểu được như vậy thì mới có thể thấy được rằng nền tảng của tôn giáo chỉ có Một, cho dù ra đời cách đây mấy ngàn năm hay chỉ mới ra đời cách nay một thế kỷ.
Tuy nhiên, ngoài nền tảng chung được coi là chân lý , các tôn giáo đều phản ảnh nét riêng phù hợp nền văn hóa của dân tộc nơi nó khai sinh, biểu thị được tâm lý của dân tộc, mà nói theo tính thiêng của tôn giáo, có sự chọn lựa con người, không gian và thời gian cho mỗi một tôn giáo ra đời.
Chính vì vậy , các tôn giáo được khai sinh trên vùng đất Nam bộ đều đậm chất truyền thống dân tộc: tính khoan dung trong tín ngưỡng, tinh thần Tam giáo đồng nguyên, tinh thần yêu nước, trọng kính tổ tiên, nhớ ơn tiền nhân qua tôn chỉ, được thể hiện trong giáo lý các tôn giáo.
Nét đặc trưng chung của các tôn giáo bản địa là biểu tượng tôn giáo đều mang tính chất vô vi. (Tấm Trần Điều của Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ An Hiếu Nghĩa, Tấm Trần Dà của Phật giáo Hòa Hảo, Thánh tượng Thiên Nhãn của Cao Đài), cũng chính là nói lên tinh thần dung hợp tín ngưỡng truyền thống của người Việt.
Một điểm chung khác được tìm thấy trong các tôn giáo bản địa qua sinh hoạt tôn giáo nơi chùa, thất vào ngày sóc vọng trong tháng cũng như các cuộc lễ trong năm.Đó chính là hình thức sinh hoạt đình làng độc đáo của người Việt mà có lẽ vẫn còn lưu lại trong tâm thức những người Việt tha phương với lòng hoài niệm quê hương xưa cũ.
Một điều không thể không đề cập đến khi nói về các tôn giáo bản địa là đạo phục. Rõ ràng không sao chép hay bắt chước bất kỳ một tôn giáo nào trước đó. Chỉ là loại y phục truyền thống của người Việt với 2 màu đen, trắng. Đây không chỉ nói lên tinh thần dân tộc mà còn thể hiện ý chí bảo tồn văn hóa truyền thống, hàm chứa thái độ phản kháng nền văn hóa phương Tây du nhập lúc bấy giờ, nhất là qua việc để râu, tóc của các tín đồ tôn giáo bản địa.
Có khuynh hướng giữ gìn nền văn hóa dân tộc, nhưng các tôn giáo bản địa không loại trừ việc kết nạp những sự tiến bộ do người phương Tây mang lại được thể hiện qua việc tận dụng chữ quốc ngữ để làm phương tiện truyền đạo đồng thời có sự dung hợp truyền thống qua các thể điệu văn vần để diễn đạt giáo lý hay sấm giảng, một hình thức văn chương bình dân dễ đi vào lòng người, song song với những kinh sách chữ Hán.
Tuy nhiên, điều đáng nói là tất cả các tôn giáo nói chung, các tôn giáo bản địa VN nói riêng dù trên cơ sở nền tảng " vạn giáo đồng nhất lý", nhưng tùy theo trình độ đối tượng nhân sanh mà người lập giáo có thể lý giải những khái niệm tương đồng trong biểu tượng, giáo lý, nghi lễ… một cách khác nhau, nhưng vẫn không rời xa đích điểm cuối cùng là dẫn dắt con người quay trở về với phần thiện lương trong mỗi người để xây dựng nền móng cho việc sửa đổi nhân cách, hoàn thiện bản thân.
Kết luận:
Dù muốn dù không cũng phải nhìn nhận chừng nào con người còn hiện hữu, con người vẫn cần đến tôn giáo trong đời sống vì niềm tin của mỗi người về một hiện thực tâm linh siêu việt bên ngoài đời sống con người không bao giờ chấm dứt, cho dù con người có đạt đến trình độ văn minh đến đâu chăng nữa; do bởi "cái biết" của con người thì có hạn mà "cái không biết" thì vô hạn. Đã đến lúc con người cần nhìn tôn giáo với cái nhìn trung thực không thiên kiến, chủ quan để thấy rõ bản chất "phá chấp" cao quý và thiêng liêng của nó. Nguyên nhân bản chất của tôn giáo không bao giờ có thể tìm thấy được trên những luận cứ của bất cứ quan điểm nào . Ngày nào con người chưa để tôn giáo làm đúng vai trò và nhiệm vụ của nó là " con thuyền đưa khách về bến đỗ là Đạo" thì không chỉ các tôn giáo bản địa Việt Nam mà cả những tôn giáo ra đời cách đây mấy ngàn năm vẫn còn là câu hỏi đối với con người.
Lòng ham muốn của con người vô hạn. Không bao giờ có thể thỏa mãn hết, Đạo khai để cứu đời: ổn định trật tự xã hội khi tâm thức cá nhân con người savào chỗ dục vọng.
-Tôn giáo : phương tiện, công cụ giúp con người đạt đến chỗ chân thiện mỹ: Đạo . Tôn giáo là con thuyền đưa khách . …
-Tạo ra Quan niệm: Tôn giáo này lớn,nhỏ, tôn giáo ra đời sau, trước, kế thừa, bắt chước, …. Thật ra tôn giáo đều có chung một nền tảng chân lý: vạn giáo đồng nhất lý, nhắm đưa con người tìm đến chỗ gọi là Đạo.
-Tùy theo trình độ tiến hóa, văn minh, văn hóa, địa ly, hoàn cảnh lịch sử mà mỗi ton giáo ra đời chỗ này không phải là chỗ kia. Phật giáo< Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Nho giáo… để tái lập ổn định trật tự xã hội, bằng chính sự sửa sai của con người qua giáo lý là khuôn phép đạo đức chuẩn mực.
-Các tôn giáo bản địa VN ra đời trên vùng đất Nam bộ với những yếu tố đặc trưng.
Thứ Hai, 24 tháng 5, 2021
KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN
Đã bao lần tôi về Ấn Độ và Nepal để dự lễ Phật đản. Năm nay Thánh địa Lumbini (Lâm-Tỳ-Ni) tu
sửa thêm nên thoáng mát, rộng rãi. Buổi lễ diễn ra rất long trọng, hoành tráng, có cả Tổng thống tham dự. Dân chúng kéo đến rất đông, mừng ngày Đấng cứu thế ra đời...!
Tôi có cảm giác vô cùng xúc động khi nhìn trụ đá cảm niệm Đức Phật giáng sinh. Năm 250 trước Tây lịch, Hoàng đế A-dục đã dựng trụ đá ghi rõ: Đây là nơi sinh Đức Phật Thích Ca. Nhà sử học Tây phương nói: Trụ đá này là bản khai sinh của Phật. Còn Hòa thượng Huyền Diệu cho rằng: “Trụ đá là nhân chứng biết nói - vì còn 5 dòng chữ đã khắc trên bia đá”.
Khoảng 8 giờ sáng, nghi lễ bắt đầu, các tôn giáo bạn trú xứ tại Lumbini, Tăng đoàn các nước (Nhật, Trung Quốc, Thái Lan, Sir Lanka, Đài Loan, Pháp, Đức, Áo, Nepal, Ấn Độ giáo, Miến Điện, Nepal, Việt Nam, Campuchia...) đều có mặt. Chư Tăng Ni theo nghi thức riêng của mỗi nước đều tụng kinh. Hòa thượng Huyền Diệu cùng Tăng Ni và Phật tử Việt Nam dâng hương lễ Phật. Nơi thánh địa âm vang lời cầu kinh, hòa lẫn những tiếng trống, chuông, mõ... âm vang hùng hồn, thanh âm êm dịu như ru hồn khách mộng trở về cõi tịnh, phủi sạch nợ trần ai!
Tôi nhìn trụ đá cảm nhớ ơn Đấng Từ phụ muôn đời của nhân loại: Thái tử Sĩ Đạt Ta, dòng Thích Ca oai hùng, quên đời vương giả, bỏ chốn thâm cung, gót son phong trần! 6 năm khổ hạnh rừng sâu! 49 ngày chứng quả tại cội Bồ đề. Đức Phật là người bằng xương, bằng thịt, như người bình thường... mà quá phi thường.
Cuộc đời của Đức Phật từ khi sinh ra cho đến khi đắc đạo, hành đạo và Niết Bàn... đều ở gốc cây. Ngài sinh tại Lumbini dưới tàn cây Hoa Vô ưu. Ngài thành đạo dưới cội Bồ đề. Khi Phật dạy đạo cho đồ chúng cũng ngồi dưới bóng cây và khi nhập Niết Bàn, hơi thở cuối cùng, Ngài vẫn nằm giữa hai tàn cây Sala song thọ. Sự giáng trần của Ngài hình như có sự sắp đặt thiêng liêng, khoa học khó giải thích được. Chỉ có những tâm linh hòa với tâm linh mới đạt được tâm cảnh này!
Lịch sử ghi rõ, lúc Thái tử Sĩ Đạt Ta rời hoàng cung, trốn ra khỏi thành Ca Tỳ La Vệ cũng vào lúc Công chúa Da Du Đà La sinh Thái tử La Hầu La, nhân dịp đó Ngài bỏ trốn. Nhưng trước khi đi, Ngài muốn nhìn mặt con trẻ lần cuối. Ngài vào phòng thấy Công chúa đang ngủ say, ôm lấy đầu con thơ với tư thế che chở.
Ngài không nhìn mặt con được và Ngài đi đến chuồng ngựa gọi Xa Nặc, Xa Nặc nghe tin Ngài định trốn đi, thưa rằng:
Hỏi: Trời đất nhân gian, mờ mịt quá,
Giờ đây Thái tử định đi đâu?
Đáp: Chính đời mù mịt nên ta phải
Đi để tìm ra ánh đạo mầu.
Hỏi: Ngày mai bao kẻ sầu tang tóc
Ly biệt thưa Ngài lắm khổ đau?
Đáp: Ta sẽ trở về khi thấy đạo
Giải thoát nhân gian vạn khổ sầu.
Và Ngài tiếp: Rộn rã chim muông ríu rít ca
Dường như chào đón Sĩ Đạt Ta
Xa xa lấp lánh dòng sông bạc
Xa Nặc về đi cứ mặc ta.
Và Ngài đến dòng sông Anoma cắt tóc trao đồ cho Xa Nặc. Ôi! Cao cả thay Đức Phật của chúng ta. Cương vị hoàng gia sống trong cung hoàng điện ngọc, vợ đẹp, con xinh, ngôi báu sẵn dành... thế mà ra đi tìm giải thoát, dầm mưa dãi nắng, kham nhẫn mọi cảnh ngộ, mục đích cung hiến trí tuệ cho chúng sanh. Ai đã làm được công hạnh vĩ đại này? Chỉ có đấng từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Khi Phật chứng quả, nói cùng chúng tăng: “Lúc ta còn trẻ là trang nam tử, ta cắt tóc đen, cha mẹ ta phản đối khóc đầy nước mắt, ta cũng nhất quyết xuất gia. Vì ta nhịn ăn quá lâu nên thân thể gầy yếu, ta không còn sức chịu đựng, tay chân ta như lóng tre, xương sống, xương sườn lồi ra cũng như cột của căn nhà đổ nát, đồng tử của ta nằm sâu như cái hố, thăm thẳm lung linh như độ giếng nước sâu. Da đầu ta khô héo, nhăn nheo như trái mướp đắng. Ta sờ vào da bụng và xương sống ta, hai thứ gần như dính lại.”
Nghe lời than của Phật, dù rằng trên trang sử nhưng cũng xót xa tận đáy lòng...! Tôi nước mắt long tròng! Đức Phật hành đạo quá khổ hạnh, mỗi ngày chỉ dùng vài hạt mè nuôi thân. Nhờ bát sữa của nàng Su Già Ta, Ngài có chút năng lực, tìm đến cội Bồ đề tọa thiền! 6 năm khổ hạnh, 49 ngày hành thiền. Tâm như bất động. Trong 49 ngày, Ngài ngồi thiền dưới 7 gốc cây.
Tuần thứ nhất Ngài ngồi tại cội Bồ đề. Tuần thứ 2, Ngài ngồi gần xéo cổng chính, nay làm tháp Animesh Locahn Chaitya. Tuần thứ ba, Ngài ngồi gần cội Bồ đề, có trụ đá và những đóa sen. Lúc ấy, Chư thiên nghi ngờ sự chứng quả của Phật, nên Ngài hiện thần thông, tạo thành ánh sáng rực rỡ và từ đó mọc lên 7 đóa sen. Phật đi kinh hành trên những đóa sen ấy. Tuần thứ tư, Phật an trú dưới gốc cây, nay làm đền thờ Rajagriha. Lúc đó Phật phóng hào quang ngũ sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, cam. Tuần thứ năm, nơi cổng chính bước xuống cầu thang có trụ đá đánh dấu: Đây là nơi phía Đông Phật thiền định dưới cội cây Bồ đề. Tuần thứ sáu phía Nam Đại tháp, có hồ nước lớn. Lúc ấy Phật tọa thiền trong đêm mưa bão sấm sét, mãng xà vương Mucalinda (Thần Rắn Naga) 7 đầu xuất hiện bảo vệ che mưa cho Phật và tuần thứ bảy Phật hành thiền phía Đông Nam, gần cội Bồ đề không xa, Ngài an trú cội cây Rajayatana và Phật được hai thương buôn người Miến Điện tên là Tapussa (Ba Lợi) và Bhallika (Đề Vị), đến từ Ukkhala cúng dường cháo mạch và bánh mật ong. Đức Phật dùng thực phẩm xong, nhổ tóc tặng hai vị thương buôn ấy, và hai vị xin làm đệ tử Phật. Đó là hai vị đệ tử cư sĩ quy y đầu tiên và khi hai thương nhân về nước, xây tháp bằng vàng thờ tóc Phật. Hiện giờ còn ở Miến Điện gọi là chùa Tháp Vàng.
Đức Phật chứng quả thấy rõ chúng sanh trong sáu đường, quay cuồng trong kiếp luân hồi, bánh xe luân hồi chẳng buông tha ai cả! Nỗi khổ của chúng sanh bị kéo dài vô cùng tận. Đức Phật đã thoát ra, Ngài nói: “Trong dòng sống chết vô tận ta chạy mãi không nghỉ ngơi, từ bào thai này đến bào thai khác đuổi theo người chủ ngôi nhà. Ta phát giác người rồi mái sườn đều sụp đổ. Tâm lìa tạo tác tất cả diệt trừ xong”.
Đức Phật để lại cho chúng ta kho tàng vô giá: Di sản là trí tuệ, Hạnh độ tha, gương nhẫn nhục. Ngài đã hươi gươm huệ, đoạn lìa dây ái...! Cắt đứt lưới tình, chứng quả vô sanh, thế mà còn bị oan gia trái chủ Đề Bà Đạt Đa vô tâm sát hại...! Lúc Phật tọa thiền tại núi Linh Thứu cùng Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, A Nan... Đề Bà Đạt Đa cho hai binh sĩ ám sát Phật. Lệnh truyền: Hai tên lính ấy giết Phật xong phải xuống đường cũ! Hai người lính ấy mang gươm lên núi, khi đến gần Phật, họ hôn mê bất tỉnh hồi lâu, khi tỉnh lại, sám hối Phật và trình bày kế hoạch của Đề Bà Đạt Đa.
Đức Phật an ủi hai người ấy và Phật chỉ đường tắt cho họ xuống núi. Phật khuyên hai binh sĩ đừng theo nghề cũ nữa... Riêng Đề Bà Đạt Đa dù sắp đặt kế hoạch rất chu đáo nhưng cũng bị thất bại. Ông sai binh sĩ khi lên núi giết Phật xong, phải xuống đường cũ và đã có bốn binh sĩ khác chờ giết hai tên lính kia; và bốn người sát nhân cũng phải xuống đường cũ, sẽ bị tám sát nhân khác giết bốn người đó, và tám sát nhân xuống tới chân núi cũng bị 16 người phục kích thanh toán! Âm mưu rùng rợn bị hỏng, hai binh sĩ trước trốn mất, nhờ thế mà những tên sát nhân sau bỏ trốn luôn!
Khi Phật sắp nhập Niết Bàn liền gọi Ngài A Nan đến dặn: “Ta đã già, 80 tuổi, đến hạn kỳ cuối, đời người như cỗ xe cũ chạy nhờ những sợi dây chằng chịt nâng đỡ. Sau khi ta nhập Niết Bàn, các ông hãy lấy chánh pháp làm nơi an trú. Không nên tìm nơi an trú khác.” Lời dạy của Đấng Thế tôn là lời châu ngọc, là ánh đuốc soi đường, cảm ứng hàng trăm triệu người trên thế giới. Giáo pháp của Phật dạy: Duyên sanh, từ bi, trí tuệ, bình đẳng, giải thoát và giác ngộ!
Trong phiên họp ngày 15 tháng 2 năm l999, Hội đồng Liên hiệp quốc đã ý thức ký kết công văn số (A|54| L-59) quyết định hàng năm tổ chức ngày lễ Vesak, vào tháng 5 dương lịch, là ngày trăng tròn để kỷ niệm tưởng nhớ ngày sinh, ngày thành đạo và ngày nhập diệt của Đấng cứu thế muôn đời của nhân loại.
Bạch Đức Thế tôn, giáo lý của Ngài như mặt trời rực chiếu, xoay vòng không bao giờ tắt...! Như ánh trăng thượng tuần, như Thái Sơn hùng vĩ... Ngài đã nhập Niết Bàn trên 2000 năm. Những lời Di giáo của Ngài như những dòng suối thiên nhiên cuồn cuộn chảy mãi, không cần số đếm và cũng không có chỗ gọi là tận cùng.
Hôm nay kỷ niệm đản sinh, nơi Phật giáng trần, chúng con cảm nhận công ơn Phật bằng tất cả trái tim… Ngài là vị Đạo sư cao cả, vĩ đại tuyệt vời... Ngài đã dũng mãnh bỏ lại những gì lạc thú trần gian... Oai hùng, kham nhẫn, vui chịu mọi cảnh ngộ... Ngài đã thực hành bản thân mình: Tìm đạo, Chứng đạo và Dạy đạo! Hôm nay Tăng Ni chúng con cùng Phật tử nguyện noi dấu bước chân Ngài. Sống trong chánh pháp của Ngài…!
Bạch Đức Thế Tôn, dù chúng con sinh ra khi Phật đã nhập Niết Bàn, chúng con chưa một lần đối diện với Đấng Từ phụ cao cả! Tuy thế, giáo lý Phật là thuyền bè, đưa chúng con vào thế giới vô cùng tận... Chúng con xin nguyện thể nhập vào Từ bi tâm của chư Phật...!
Thứ Bảy, 22 tháng 5, 2021
Tôn Giáo, Nghệ Thuật, Triết Học và Khoa Học.
Nghệ thuật không thể là cái cầu nối giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Không thể là cầu nối giữa hai bờ sông. Không thể là cầu nối giữa hai đỉnh núi. Không thể là cái cầu. Nhưng nó là sự nối tiếp giữa chủ quan và khách quan, giữa cái logic và cái phi logic, giữa bên ngoài và bên trong, giữa hôm nay và ngày mai.
Düsseldorf, German, ngày 3/1/2013
Sài gòn, ngày 10/5/2013
Tác giả: Cs. Minh Đạt.
Tôi đã từng viết:
Giống như một đồng tiền, cuộc sống của Nhân loại có hai mặt. Một mặt là Khoa học và Triết học. Một mặt là Tôn giáo. Hai mặt này không đối lập, không chống đối, nhưng không thể là như nhau. Cùng phục vụ Con người, những chúng rất khác nhau.
Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Khoa học và Triết học nghiên cứu cái bên ngoài của Con người, là Vạn vật, là Vũ trụ, là quy luật Tự nhiên, là các quy luật Xã hội, là các quy luật Kinh tế,… Nó nghiên cứu chuyển động các vì sao, chuyển động các giải Ngân hà, tương tác giữa chúng,… Nó nghiên cứu về cấu tạo cơ bản của Vật chất, về nguyên tử, về các hạt, về các Lực trong Tự nhiên… Nó nghiên cứu về Con người, về Tâm lý, về Cơ chế hoạt động của các hệ thống trong cơ thể, về sự hoạt động của Não bộ, về cấu trúc của gen… Nó nghiên cứu về các mô hình tập thể: Chính phủ, Thể chế xã hội. Nó nghiên cứu về các quy luật phát triển Xã hội, các quy luật phát triển Kinh tế của Tập đoàn, của Quốc gia, của Khu vực, của toàn Thế giới,… Triết học cũng vậy, ngay cả Triết học Hiện sinh, một bước nhảy vĩ đại của lịch sử Triết học Thế giới: lấy Con người là Trung tâm của Vũ trụ, Con người là Chủ thể. Con người Chủ thể đó, cũng là sự phóng chiếu của Thực tại Vũ trụ vào Con người mà thôi. Tất cả, tất cả các ngành Khoa học và Triết học là tập trung nghiên cứu cái bên ngoài của Con người. Tôn giáo ngược lại. Tôn giáo thuộc về Tâm linh. Tông giáo không chỉ quan tâm cái bên ngoài. Tôn giáo là đi sâu vào cái bên trong. Tôn giáo đưa con người vào cái Tĩnh lặng sâu thẳm. Tôn giáo đưa con người tới sự Phúc lạc toàn phần và Vĩnh viễn. Đó chỉ có thể là con đường đi vào bên trong.
Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Khoa học là logic, là phân tích, là lý luận, là chứng cứ. Cả Khoa học và Triết học đều dùng chung một phương pháp đó là Logic. Không logic Khoa học không thừa nhận. Logic là cơ sở của mọi Lý thuyết; có logic các phương trình mới xác định được nghiệm, ngay cả khi xác định Vô nghiệm. Không logic Triết học không thừa nhận. Phép Biện chứng được Georg Wilheim Friedrich Hegel tìm ra, như một bước nhảy vĩ đại trong lịch sử của Triết học. Không có phép Biện chứng, Triết học không có sức sống, không có màu sắc. Karl Marx lấy cái Biện chứng của Hegel ghép vào trong Duy vật. Khoa học và Triết học phải là logic. Tôn giáo thuộc về Tâm linh. Tôn giáo là chủ quan. Sự Chứng ngộ không thể nào khái quát được bằng công thức, bằng phương trinh, ngay cả bằng ngôn ngữ. Không thể, không bao giờ có thể giải thích và chứng minh được. Khoa học và Triết học vận hành bởi cái Đầu, bằng Bộ óc. Tôn giáo vận hành bởi Trái Tim, bằng Tình yêu. Trái tim và Tình yêu luôn có bước nhảy, nó không bao giờ tuần tự, nó luôn là nghịc lý, nó là Phi logic. Tôn giáo là Phi logic.
Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Lý thuyết, mệnh đề, phương trình, toán tử, tích phân, đạo hàm, xấp xỉ, gần đúng,… có nghiệm hay vô nghiệm,… tất cả những điều này là quan trọng. Nhưng nó không phải là cuối cùng. Không phải là cuối cùng, dù đã rất logic. Điều cuối cùng phải là Thực nghiệm, phải là Thực tế. Phải có Thực nghiệm, phải có Thực tế kiểm tra Khoa học mới công nhận. Triết học là đi tìm Chân lý của thực tại, bằng con đường khách quan. Khoa học và Triết học là khách quan. Tôn giáo là chủ quan. Nó hoàn toàn là kinh nghiệm cá nhân, là chủ quan, là duy nhất theo một cách nào đó. Phật Gautama đạt Chứng ngộ không chỉ vì Ngài từ bỏ ngài vàng, quyền lực, giàu sang, cung tần mỹ nữ… Phật Gautama Chứng ngộ chỉ khi Ngài có sự từ bỏ lớn lao: từ bỏ tìm kiếm. Jesus Christ Chứng ngộ bằng Tình yêu vĩ đại. Tôn giáo là như vậy. Tôn giáo là Chủ quan. Mỗi một Con người đi tới Chân lý bằng con đường của mình.
Khoa học và Triết học là trò chơi của Trí tuệ, nó đi tìm Chân lý để HIỂU. Tôn giáo không phải là như vậy. Tôn giáo đi sâu và bên trong của Con người. Tôn giáo hoà nhập cái bản thể của Con người vào cái Toàn thể của Vũ trụ. Tôn giáo là đi tìm Chân lý để BIẾT. Cái không biết, thì đi tìm để hiểu. Con người thông thuờng chỉ đi tìm để hiểu những điều không biết. Con người không thể trải nghiệm được chuyển động của các hạt cơ bản trong thế giới Hạ nguyên tử. Cũng như con người không thể trải nghiệm được chuyển động của các vì sao trong giải Ngân hà. Nhưng tất cả những điều đó, con người có thể hiểu qua Thuyết Tương đối, qua việc bắn các chùm hạt, qua việc giải các phương trình trong Lý thuyết Chuỗi… Cái đã biết thì không cần hiểu nữa. Trải nghiệm rồi, biết được mọi góc cạnh, biết được mọi chiều kích, biết được mọi cung bậc, biết được mọi màu sắc, biết được mọi hương vị,… biết Tất cả, không còn phân biệt, vậy thì đầu cần gì phải hiểu nữa! Hiểu và Biết khác nhau như vậy.
Đó là sự khác nhau giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Không thể so sánh Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Nó là hai cấp độ khác nhau. Có thể so sánh những Galileo Galilie, Isaac Newton, Alber Einstein, Ernest Rutherford, Niels Bohr, James Chadwick, Werner Heisenberg, Kurt Gödel và Stephen Hawking,… Với những Aristote, Descartes, Kant, Hegel, Jean-Paul Sartre và Albert Camus,… Có thể so sánh họ với nhau. Nhưng không thể so sánh từng người họ, không thể so sánh toàn thể họ với Phật Gautama, với Jesus Christ,… Những Nhà Khoa học, những Nhà Triết học với Phật Gautama và Jusus Christ là hai cấp độ khác nhau. Không thể so sánh họ với Phật Gautama và Jusus Christ được. Không thể được.
Không thể lấy ngôn ngữ của Khoa học, Triết học đi phân tích, đi chứng minh, đi giải thích,… Tôn giáo. Không nên, vì đó là không thể. Ngôn ngữ, mệnh đề, công thức, toán tử và phương trình làm sao có thể giải thích được cái Tĩnh lặng tuyệt đối? Là sao có thể phân tích được sự Chứng ngộ Linh thiêng? Phật Guatama đã nhiều lần im lặng. Ngài đã im lặng và không nói câu trả lời. Ngôn từ của Con người và những công cụ của Trí tuệ, những phương trình, những toán tử, những đạo hàm và những tích phân,… làm sao, làm sao có thể diễn tả được cái vô cùng của Vũ trụ. Làm sao có thể diễn tả được cấu trúc của Linh hồn… Phật Gautama đã im lặng. Xin đừng dùng logic, xin đừng dùng Lý thuyết Tập hợp, xin đừng dùng khái niệm Tập Mờ,… để giải thích. Mọi lý thuyết đều màu xám! David Hilbert, Pierre Simon de Laplace đã thực sự thoái vị rồi.
2
Và tôi cũng từng viết:
Nghệ thuật: âm nhạc, thơ ca, văn chương, hội hoạ, điêu khắc và điện ảnh,… là cầu nối giữa Khoa học, Triết học và Tôn giáo, là cầu nối giữa cái bên ngoài và bên trong, là cầu nối giữa hôm nay và ngày mai, là cầu nối giữa cái logic và cái phi logic,… Xin hãy tích hợp các thứ này vào trong bản thân con người. Nghệ thuật sẽ làm cho Khoa học và Triết học thơ ca hơn, màu sắc hơn, tươi tắn hơn. Nghệ thuật sẽ làm cho Tôn giáo gần gũi hơn, cụ thể hơn, đằm thắm hơn. Tích hợp được cả bốn thứ, con người tin, con người hiểu, giàu có lên rất nhiều và con người sẽ biết.
Anh Phạm Việt Hưng, (một người bạn đồng hành trên một con đường vốn vắng khách lữ hành, lời của anh) đã comment cho tôi:
Nghệ thuật: âm nhạc, thơ ca, văn chương, hội hoạ, điêu khắc và điện ảnh,… là cầu nối giữa Khoa học, Triết học và Tôn giáo. Tôi không nghĩ như thế. Nói như thế thì đề cao khoa học quá. Có vẻ như khoa học và triết học nằm ở vế này, tôn giáo ở vế kia. Tôi nghĩ khoa học, nghệ thuật là những con đường khác nhau để khám phá ra một phần nào đó (some part) của chân lý, một khía cạnh nào đó (some feature) của chân lý, một góc nào đó (some corner) của chân lý, một mầu sắc nào đó (some colour) của chân lý, một đặc trực nào đó (some character) của chân lý. Chân lý là duy nhất nhưng biểu lộ của nó lại đa dạng. Do đó không có một hệ thống nhận thức nào có thể mô tả nó đầy đủ. Chỉ có sự bổ sung của các dạng nhận thức khác nhau mới mô tả chân lý một cách phong phú hơn, nhưng không bao giờ lột tả đầy đủ. Giống như phải dùng nhiều loại bản đồ khác nhau để mô tả thế giới – bản đồ hành chính, bản đồ địa hình, bản đồ địa chất, bản đồ kinh tế, bản đò sắc tộc, bản đồ ngôn ngữ. Thế giới là sự chồng chất của vô số bản đồ mà mỗi bản đồ là một đặc trưng của thế giới. Khoa học là một bản đồ mô tả vũ trụ bằng ngôn ngữ khoa học. Nghệ thuật là một bản đồ mô tả thế giới bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Không có cái nào là cái cầu cho cái nào cả.
3
Vâng, không có cái nào là cái cầu cho cái nào cả.
Nghệ thuật không thể là cai cầu để nối giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Không thể là cầu nối giữa hai bờ sông. Không thể là cầu nối giữa hai đỉnh núi. Không thể là cái cầu. Nhưng nó là sự nối tiếp giữa chủ quan và khách quan, giữa cái logic và cái phi logic, giữa bên ngoài và bên trong, giữa hôm nay và ngày mai.
Nghệ thuật ngợi ca và tôn vinh tình yêu. Nghệ thuật làm bùng nổ thế giới của tình yêu. Nghệ thuật phục vụ tình yêu. Khoa học, Triết học phục vụ cuộc sống. Do đó Nghệ thuật sinh động hơn, sâu xắc hơn là Khoa học, Triết học. Tầm nhìn của Nghệ sĩ hàm chứa nhiều hơn tri thức khoa học có thể hàm chứa, mặc dầu cách thức của Nghệ thuật là hoàn toàn khác với cách thức của Khoa học và Triết học. Nó hoàn toàn khác nhau. Khoa học mang tính khách quan bởi vì nó là ngoại vi. Nghệ thuật không thể tuyệt đối khách quan được; một nửa khách quan, một nửa chủ quan. Vì đơn giản nó không thể độc lập với người quan sát được.
Khoa học cố gắng để người quan sát tuyệt đối độc lập với đối tượng quan sát. Nhà Khoa học phải không đi vào trong của đối tượng, phải không tham gia, phải trung lập, không là người tham gia, mà là khán giả. Nhà Khoa học phải không được đem bản thân mình vào trong sự vật và sự kiện. Đó là cái nhìn Khoa học. Đó là cái nhìn Triết học.
Khi nhà khoa học nhìn vào hoa ông ấy cố gắng chỉ là người quan sát. Ông ấy đơn giản theo dõi, đo đạc và khảo sát. Ông ấy ghi chép về điều ông ấy thấy. Ông ấy không đem mơ của mình vào, không đem tầm nhìn của mình vào việc quan sát. Ông ấy khách quan và từ bỏ các cảm xúc. Ông ấy phân tích và kết luận. Ông ấy phải hoàn toàn độc lập. Nghệ sỹ có nhiều tự do hơn. Nhà thơ có nhiều tự do hơn. Hoạ sĩ có nhiều tự do hơn. Họ đi sâu hơn vào trong đối tượng hoa. Họ tham gia vào bí ẩn của nó, họ không tách rời; trong vài khoảnh khắc họ trở thành một với nó. Người nghệ sỹ đắm chìm trong mùi hương của nó. Hoạ sỹ đắm chìm trong sắc màu của nó. Có những khoảnh khắc mà nhà thơ nhảy múa cùng hoa, đu đưa trong gió, nhịp nhàng trong mưa, đong đưa trong ánh mặt trời. Người nghệ sỹ, hoạ sỹ, nhà thơ,… họ đã trở thành hoa, đó chính là khi người quan sát là vật được quan sát. Có những khoảnh khắc họ không chỉ nhìn vào hoa mà nhìn qua hoa, trở thành đôi mắt của hoa. Một cách tự nhiên, họ chìm sâu hơn nhà Khoa học.
Nghệ thuật siêu thực là một trào lưu văn học và nghệ thuật ở thế kỷ 20, bắt đầu ở Paris và được nhà thơ người Pháp André Breton viết tuyên ngôn vào năm 1924. Trong Hiến chương Siêu thực, ông ấy tuyên bố rằng: “cách quy hai trạng thái, mơ mộng và thực tế, dường như rất trái ngược nhau, thành một thực tại tuyệt đối, một siêu thực tại”. Ông ta đã coi rằng, Siêu thực là sự kết hợp thế giới thực tế thông thường và thế giới thực tại của giấc mơ. Nhiều nhà thơ, nhiều hoạ sỹ và nhiều nghệ sỹ, họ cũng đã coi như vậy. Họ đã coi rằng, Siêu thực được tư duy sai khiến, không chịu bất cứ sự kiểm soát nào của lý trí, được miễn trừ khỏi mọi quan ngại liên quan tới thẩm mỹ và đạo đức. Một số khác, lại coi rằng, Siêu thực là chấp nhận các thông điệp từ vô thức chui vào ý thức,… Các Học giả tuyên bố vậy!
Nhưng, những Con người Nghệ sỹ, và Nghệ thuật Siêu thực nói riêng, Nghệ thuật nói chung họ đã chạm vào cái bên trong, họ đã vượt qua cái ngoài vi, họ đã vượt qua cái thế giới vật chất thông thường. Họ đã vượt qua cả cái mà họ tưởng là bên trong, tâm lý hay phân tâm học, để đi vào sâu thẳm của tĩnh lặng, đi vào chiều của Tâm linh, đi vào Bên Trong.
Đó là điều, mà thơ ca, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc,… chúng gần với Thực Tại hơn. Bởi vì chúng sẵn sàng để tham gia; chúng bước qua giới hạn của khách quan; chúng bước qua giới hạn của logic; chúng bước qua giới hạn của ngoại vi. Nghệ thuật hàm chứa một nửa khách quan, một nửa logic, một nửa ngoại vi; Nghệ thuật còn hàm chứa cả một nửa chủ quan, cả một nửa phi logic, cả một nửa Bên Trong.
4
Khoa học và Triết học cố gắng hiểu Cuộc sống, nó là cho Hôm nay, không thể vươn tới Ngày mai. Ngày mai tôi nói tới, không phải là tương lai của Thời gian. Ngày mai tôi nói tới, không phải là năm 2990, không phải là một ngàn năm sau. Không phải điều đó. Bởi vì Cuộc sống là phân mảnh, là một bộ phận. Cuộc sống chỉ là một phần của bí ẩn toàn bộ của Thực Tại. Cuộc sống là hữu hạn, nhất thời. Khoảnh khắc này nó có đó, khoảng khắc tiếp nó mất rồi. Nó là làn gió thoảng, tới rồi đi… nó không tồn tại lâu. Do đó Khoa học và Triết học tưởng như biết nhiều, nhưng chỉ là chu vi, chỉ là bề mặt. Chỉ là cuộc đời của một con người, khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già đi, bệnh tật và chết. Nhưng cái chết nó không biết. Sau cái chết nó không biết. Nó chỉ biết về đại dương chỉ qua các con sóng và nó chưa bao giờ chìm sâu vào trong đó, và không biết cái vô hạn của đại dương. Cho nên Khoa học và Triết học nếu có tuyên bố rằng nó biết chân lí, thì điều đó là không đúng. Nó chỉ biết chân lí bộ phận, và tuyên bố cái bộ phận như cái toàn thể là một trong những điều ngớ ngẩn của cách tiếp cận khoa học. Điều nó biết là đúng, nhưng điều đó không phải là chân lí toàn thể.
Tôn giáo là tìm hiểu cả về cái chết, cả về sau cái chết. Đó là cái Ngày mai mà tôi nói tới. Sống và Chết, Hôm nay và Ngay mai,… là Thực Tại, là Toàn bộ.
Tôn giáo là tìm hiểu cả về cái chết. Cái chết chứa tất cả: cái chết chứa cuộc sống, cái chết chứa tình yêu, và cái gì đó còn hơn thế mà cả cuộc sống không chứa được nó mà tình yêu cũng không thể chứa được. Cái chết là việc tích luỹ của tất cả, là cao trào, là đỉnh cao nhất. Cuộc sống là cơ sở, cái chết là đỉnh cao, tình yêu nằm đâu đó ở giữa.
Tôn giáo dựa trên việc tìm kiếm vào cái chết, và hiểu cái chết là hiểu tất cả. Kinh nghiệm cái chết là kinh nghiệm tất cả, bởi vì trong kinh nghiệm về cái chết, con người không chỉ kinh nghiệm cuộc sống ở chỗ cao nhất của nó, tình yêu ở chỗ sâu nhất của nó. Trong việc kinh nghiệm cái chết con người đi vào trong điều thiêng liêng. Cái chết là cánh cửa đi tới điều thiêng liêng. Cái chết là tên của cánh cửa của ngôi đền của Thượng đế, là cánh cửa tới Niết bàn.
Nghệ thuật vì Tình yêu. Nghệ thuật làm bùng nổ thế giới của tình yêu. Tình yêu là khoảng giữa của Sống và Chết. Tình yêu chứa cuộc sống. Tình yêu bí ẩn hơn cuộc sống. Nghệ thuật là khoảng giữa, giữa của Sống và Chết, giữa của Hôm nay và Ngay mai. Vì trong Tình yêu đã có cả chết. Con người còn chưa sẵn sàng chết, người đó không thể biết yêu được; mặc dầu bằng việc chết người đó trở nên sống động hơn. Chính là qua cái chết mà tình yêu phục sinh bản thân nó, và lặp đi lặp lại. Chính là bằng việc biến mất mà nó xuất hiện đi xuất hiện lại. Nghệ thuật tham gia vào quá trình đó. Nghệ thuật nối Hôm nay và Ngày mai.
Xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những Tác giả và Dịch giả của các bài viết, bài nói mà chúng tôi đã sử dụng để làm tư liệu và cảm xúc để viết bài này; xin chân thành hồi hướng công đức nhỏ bé của mình tới Quý vi. Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Chứng minh sư Bồ Tát Ma ha tát
(https://tincaytinhyeu.wordpress.com/2013/05/10/ton-giao-nghe-thuat-triet-hoc-va-khoa-hoc/)
Thứ Sáu, 21 tháng 5, 2021
Sắc Không – Không Sắc
LỜI NÓI ĐẦU
Sắc Không – Không Sắc,
ví như đường bay điểm nhắm, trực diện tiến vào lạc cảnh tiêu dao, giải phóng những
tồi-tệ u-mê của kiếp trần đọa lạc, san bằng chướng ngại tham sân trong vô lượng
đã gieo mầm hệ lụy buồn vui sướng khổ của kiếp trần nhơn sinh.
Hãy nỗ lực phấn đấu không trì huỡn chẳng đợi chờ, phải đứng dậy mà đi rồi
sẽ đến, đến với “Tướng Không và Tướng Sắc”, mỗi tự thân ép mình buông xả những cố chấp
hẹp hòi, để nhẹ mình tung cánh bay đi vượt khoảng tầng không, bằng vô vi lẽ thiệt.
Buông bỏ đi, sẽ nhận được sự đền bù trong tiêu dao an lạc, của đại ngàn bao la
bát ngát của Có Không – Không Có, vì “một phút giác xé toạc màn tâm mê”, bởi niết
bàn cực lạc không lìa sanh tử khổ đau.
Nên Tướng Không – Tướng Sắc là nguồn Đạo mạch, vận động ở Có Không –
Không Có, không cầu kỳ đâu xa mà ở tại nơi lòng, như lời Đức Chí Tôn dạy:
“Có Không là
luật chí công
Có Không cũng tại nơi lòng các con”
Thân ái kính chào!
THÁI ĐẦU SƯ
Thái Long Nhựt
I.
LỜI DẪN NHẬP:
Thầy dạy:
“Chẳng hiểu chữ: Sắc Không – Không Sắc
Chẳng thông câu: Không Có – Có Không”
Sắc Không Không Sắc là hai từ
ngữ đối lập nhau, ám thị và phản ánh qua quá trình vận động từ vũ trụ không
gian, đến vạn vật muôn loài, có nguồn gốc phát sinh đến rốt kết trong vô vi.
Vô vi là sự khởi đầu, là Lý
phát nguyên của vạn sự vật, để hình thành âm thinh sắc tướng, trong hiện thực
cuộc đời, bằng mắt thấy tai nghe và ý thức định đoán. Sắc Không, tuy hai mà một,
là nhị nguyên trong nhứt nguyên, như lời Phật dạy: “Sắc thị Không, Không thị Sắc” có là không, không là có, vừa chấp nhận
vừa phủ nhận, theo qui trình sinh diệt tự nhiên của lý sắc không, nó thâm trầm
vời vợi như bóng râm, ấm mát để mầm sống sanh sôi nảy nở, và cũng ạt ào sôi động
thành vạn hữu theo Lý thường hằng thường chuyển (tiệm biến).
Nên Sắc chẳng phải, tồn tại
vĩnh hằng không hoại diệt; Không chẳng phải, vĩnh viễn miên trường không sinh
hóa, mà nó luôn biến động đổi thay như lời Đức Chí Tôn dạy: “Có mà Không mới thật rằng Không”.
Nên Sắc trong Không là Tướng
Không, là tướng vô hình, khó diện kiến toàn cuộc, phải dùng cái thấy không bị
thấy của Phật, mới thẩm thấu chơn tướng, vì nó thuộc diện tinh thần như lời Đức
Chí Tôn:
“Chữ Không là luật của Trời
Sắc là thể sắc mỗi ngày đổi thay
Không không mà có mỗi ngày
Trừng răn thưởng phạt đọa đày xiết bao”
II.
ĐỊNH NGHĨA:
SẮC:
là cảnh vật sắc màu, là vi là có, là hiện hữu do tai nghe mắt thấy, tay sờ nóng
lạnh, mùi vị mặn lạt thơm tho, buồn vui lo lắng xuyến xao. Nên Sắc là những sự vật, do sáu căn nhận được sáu trần, tạo
ra sắc tướng âm thinh, là Tướng Sắc (Có).
KHÔNG: là bao la trùm phủ, là vô là không, lặng
lẽ im lìm, là khoảng Trời mênh mông, chẳng tiếng tăm hơi hướng sắc màu (Không không lặng lẽ như tờ) gọi là Tướng
Không (Không).
Trong cái không không lồng lộng
cao cao ấy, không thể dùng lục thức giới hạn, nhận biết lẽ không sự có.
Bởi Sắc Không – Không Sắc đã thấy biết như vậy mà không phải vậy. Nó tự biến
chuyển theo chu kỳ sinh diệt tự nhiên của chính nó, vừa có đó cũng là không đó,
theo luật vô thường, không định quyết tuyệt đối thuần nhất Có hay Không Có (nếu
có là do sở đắc của bản ngã riêng tư). Nên cái Không, không phải là Có,
mà là Có; cái Có, không phải là Không, mà là Không.
Tướng Không – Tướng Sắc là
qui luật sinh diệt phản phục âm dương, vãng lai không có (Sắc Không Không Sắc nan chiêm) bởi trong bản chất có không, đều tiềm
ẩn “diệu tướng tinh thần” là tâm giác ngộ vô thường (bồ đề tâm), như lời Đức
Chí Tôn:
“Tướng Không Tướng Sắc chẳng đồng
Tướng là diệu tướng ẩn trong tinh thần”
Nên Sắc Không là đầu mối của
mọi sự vận động không không có có. Không Không, không phải trống rỗng chẳng có
gì, mà là hàm ẩn cái Tướng Không. Tướng Không là lực hấp vô hình, phát sinh ra
những Tướng Sắc trong không, như Thái Cực sinh bởi Vô Cực.
III.
TƯỚNG KHÔNG TƯỚNG SẮC:
1.
Cái Tướng của Không: không lời gọi chẳng tiếng kêu, nhưng thâm trầm như cánh gió làm chiếc
lá lung lay mặt hồ gờn gợn, là tiếng vọng không lời, là sự bắt đầu trong nhỏ nhặt
u vi (Không kêu nên gọi không lời; Mà
trong thấy rõ gọi lời u vi), là cái tinh tủy ở bên trong Có Không, là nguồn
Đạo mạch.
Cụ thể như Đạo vô hình, vô
thinh vô xú không không, nhưng có ra Thể Tướng dạy Đạo (Địch không lỗ có duyên mới biết; Đờn không dây vô phước khó nghe)
nên gọi là Tướng Không (Không không có có
có chi đâu; Có đó rồi không thật rất mầu) nên Không Có là vô vi, là cội nguồn
sinh ra vạn vật, là Lý Đạo Trời. Nên cần suy xét truy biện, đến tận cùng cái Lý
của Tướng Không, để nhận Tướng Sắc hiển-hiện ra ngoài.
2.
Cái Tướng của Sắc:
Là hình sắc lộ diện bề ngoài,
do ngũ quan – lục thức cảm nhận, qua thế giới sắc màu hiện hữu trong cuộc sống
đời thường, do mắt thấy tai nghe, trong động ngôn thị thính, như đền đài lăng
miếu, kinh sách phụng cúng,…như Phật dùng ngón tay chỉ trăng (Trăng là Tướng Sắc,
sự sáng là Tướng Không). Thầy dạy:
“Đã biết Đạo không hình là Đạo
Thể ra hình dạy Đạo con người”
Nên Tướng Không – Tướng Sắc,
là cái lý trong Có Không (là Lý tự nhiên) mọi sự việc phải như vậy, không như vậy
là không phải Đạo thường (như gừng cay muối mặn). Đạo là Lý tự nhiên, nên phải
biết tự nhiên trong động tịnh, điềm đạm trong vô vi, loại bỏ cái Ta cố chấp, để
lần về thể tướng của Sắc Không (Có mà Không,
Không mà có) như lời Đức Chí Tôn: “Có
Không cũng tại nơi lòng các con”.
Tướng Không – Tướng Sắc cùng
một nguyên lý phát sinh, nhưng không đồng vì một đàng chủ về tinh thần (Không),
một đàng chủ về vật chất (Có). Như Lưỡng Nghi trong Thái Cực (Dịch Kinh). Hai
hình thái Có Không biến động, được cụ thể ở không gian vũ trụ vạn vật và tâm
linh tín ngưỡng tu hành.
IV. SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CÓ
KHÔNG KHÔNG CÓ:
1.
Không gian vũ trụ:
Bao cuộc biến thiên đổi dời
dâu bể, ở thượng tầng không gian vủ trụ, đều do không không có có như: chuyển gầm
sấm sét, thời tiết nắng mưa, ngày tháng ngắn dài,…tự diễn biến và cũng tự chuyển
hóa, như lời Đức Chí Tôn dạy:
-
“Trời bình tịnh thoạt còn nổi gió
Trăng làu làu lại trổ mòi mưa”
-
“Xuân sang Hạ ngày dài đêm ngắn
Thu về Đông ngày ngắn đêm dài”
2.
Hạ tầng thế sự con người: bởi mất còn theo hai lẽ tử sanh, không có như: nghèo
giàu thay đổi, an biến đổi dời, nhân quả đeo đai trong vòng nhân quả, đầy vơi
tiêu trưởng, như lời Đức Chí Tôn dạy:
-
“Phần sanh tử nghèo giàu thay đổi
Đó là do phước tội cân trừ”
-
“An an biến biến đổi dời
…………………………….
Nhớ câu Thiện ác đáo đầu”
-
“Hễ làm thì chịu không sai
Chớ kêu oan ức rằng ai hại mình”
Nên Sắc Không – Không Sắc là hiện thể cho quá trình
qua lại vãng lai của Tướng Không – Tướng Sắc, tuy lặng lẽ mà sôi động, im lìm
mà dời đổi, theo cái nhiếp của Có Không, như lời Đức Chí Tôn:
“Không không lặng lẽ như tờ
Không tầm mà đặng cậy nhờ nơi trong”
3.
Tâm linh tín ngưỡng tu hành:
Tâm linh là thế giới vô hình
(Không), lấy vô vi làm gốc cho mọi hình thái biến động của vật thể, từ vô hình
đến hữu hình, lúc có lúc không, làm chủ vạn hữu theo luật mất còn – thăng giáng
– vãng lai (Dịch Học) (Chổ qua lại ngưng kết của âm dương) (Không Có).
Nên đối với giới tu hành, cần trí tri đến tận cùng của
tâm, lý Sắc Không – Không Sắc, xóa bỏ san bằng những định kiến cố hữu, để vong
thân với chính mình, tạo ra khoảng trống nơi lòng, gieo mầm vô ngã, ra đi rồi
trở về theo lý Có Không như lời Đức Mẹ dạy:
“Có đi thì phải có về
Đó là căn bản đâu hề có sai”
V.
PHƯƠNG PHÁP TU CHỈNH:
Phật ngôn có câu: “Đã vượt thoát khỏi xích xiềng cương tỏa, hãy
nhẹ mình cất cánh bay đi”.
Giới tu hành là người đã tự
nguyện để hoàn thiện vai trò, tự khắc bản thân ban đầu, bằng qui pháp luật lệ,
để hạn chế rời bỏ những tham vọng do Tam Nghiệp gây nên và từng bước nổ lực đi
lên, tu cầu giải thoát. Trước tiên phải đạt được 3 mục tiêu trước mắt, chủ yếu
chơn tu cầu giải thoát, từ tư tưởng đến lời nói và hành động như:
-
Tư tưởng phải trong sạch và thanh cao.
-
Lời nói ôn hòa thân thiện chân tình.
-
Hành động đúng với tư tưởng và lời nói.
Ngoài ra cần có đủ sức mạnh tinh thần, bản lĩnh về trí tuệ, để
khắc phục đối kháng lại những hẹp hòi cố hữu từ quá khứ kết động, làm cản ngại
bước hồi cư quay về với Tướng Không trong Không Có – Có Không.
Hãy để lòng im lặng như Trời khuya canh vắng, như khách độc
hành lặng lẽ mà đi, “đi không có chỗ để về”, không buồn phiền không lo liệu chẳng
câu chấp.
Đừng phân biệt đối đãi, qua thị phi đắc thất, vui giận ghét hờn,…theo
nhị nguyên lưỡng cực, như lời Đức Chí Tôn:
“Tâm không vui giận ghét hờn
Là tâm lý hiệp thành nhơn huệ
từ”
Hãy buông xả mở rộng tâm hồn, trong bao dung thứ tha, để nhận
được cái Tướng Không, trong Không Có – Có Không, một cách tự nhiên, không tầm
mà gặp như lời Đức Chí Tôn:
“Không không lặng lẽ như tờ
Không tầm mà gặp cậy nhờ nơi Không”
VI.
TÓM YẾU:
Không Có – Có Không là hai từ
ngữ để gọi tên, để định vị cho một bản chất của các pháp hữu vi, biểu thị trạng
thái biến dịch, cùng thông phản phục trong vạn hữu con người.
Sắc Không – Không Sắc khác
nhau về hình sắc, nhưng bản tánh vẫn không hai, chỉ là một lý tánh là tánh thật
thiệt, là Tướng Không, như lời Đức Chí Tôn:
“Tướng vô hình trong không mà thấy
Chỗ thấy nầy là thấy Tướng Không”
Nên
Không, không phải Không, là Sắc; Sắc không phải Sắc, là Không, như lời Phật dạy:
“Không tức thị Sắc; Sắc tức thị Không”.
Tướng
Không là cái không tưởng, nó không có cũng không không, là diệu tướng ở trong
tinh thần, là Chơn Lý, là Đạo, là xích tử chi tâm. Cái Tướng Không ấy được kết
luận qua lời Phật:
“Cái không tưởng của các pháp nó chẳng sinh
chẳng diệt, chẳng bẩn chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm. Bởi vậy, trong cái
không ấy không có Sắc Thọ Tưởng Hành Thức (ngũ uẩn) không có Nhản Nhỉ Tỷ Thiệt
Thân Ý (lục căn) không Sắc Thinh Hương Vị Xúc Pháp (trần) không nhản giới - ý
thức giới,…không có gì là sở đắc”
nó là diệu tướng là Tướng Không, như lời Đức Chí Tôn:
“Tướng Không Tướng Sắc chẳng đồng
Tướng là diệu tướng ẩn trong tinh thần”
Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.
10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS) Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides