Đại Đạo tạo con đò cứu khổ, Hướng đạo cần tự độ, độ tha. Năm chi bảy phái hiệp hòa, Trương cờ Đại Đạo xây tòa vạn linh.

LỜI GIAO CẢM

LỜI GIAO CẢM
(Kích vào hình ảnh để xem tiếp lời giao cảm)
  Xin chân thành cảm ơn quý huynh, tỷ, đệ, muội và quý độc giả đã ghé thăm NGÔI NHÀ ĐẠI ĐẠO

Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2011

SỰ THÔNG-CÔNG GIỮA CON NGƯỜI VỚI THẾ-GIỚI SIÊU-LINH & HIỆN-TƯỢNG CƠ-BÚT


DÃ TRUNG TỬ sưu tập



TIỂU-DẪN



Cao-Đài giáo được khai-nguyên là do Thượng-Đế dùng cơ-bút làm trung-gian thâu-nhận đệ-tử và tiếp-xúc với họ để truyền-bá giáo-lý, giáo-luật và đạo-pháp xuống thế-gian. Đến nay nền Đạo đã phát-triển hơn hai phần ba thế-kỷ, có hơn năm triệu tín-đồ trên toàn thế-giới. Qua cơ bút Thượng-Đế đã ban cho nhân-loại một Thiên-Đạo Công-bình Giải-thoát, một Thế-Đạo Nhơn-nghĩa Đại-đồng :



- Về Thiên-Đạo thì Thượng-Đế đã phổ-độ rộng-rãi từ Thiên-tử đến Thứ-dân không phân-biệt sang hèn màu da sắc tóc, ban cho một đường hướng tu-hành để chế-ngự thất tình lục-dục, lập công bồi đức, hầu đạt một cuộc đời thân tâm an-lạc, như sống trong một thiên-đường ngay tại thế-gian, chứ không cần đợi sang bên kia cỏi tử, mà còn thoát đọa luân-hồi trở về hợp nhất với Thượng-Đế.



- Về Thế-Đạo thì Thượng-Đế đã khuyến dạy nhơn-sanh dùng Nhân, Nghĩa để chung sống với nhau một cách hoà-bình, không còn kỳ-thị Tôn-giáo, phân-biệt chủng-tộc, hận-thù giai-cấp, chia rẻ giàu nghèo. Thượng-Đế không chủ-trương sang bằng tài-sản mà chủ-trương sang bằng tham-vọng của con người, để họ tự biết xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo, hầu nâng-đở lẫn nhau tiến-hóa đồng đều trên cả hai phương-diện vật-chất lẫn tinh-thần, làm cho xã-hội loài người đạt đến Chân Thiện Mỹ, tạo ra một thế-giới huynh-đệ Đại-đồng. 



Đây là một tôn-giáo do Thượng-Đế trực-tiếp sáng-lập có một nền triết-học cậân-đại, một giáo-lý vừa huyền-linh vừa khoa-học, vì những tôn-chỉ mục đích cao-thượng và tốt lành nêu trên, mà đang được các triết-gia và học-giả trên thế-giới đang quan-tâm nghiên-cứu, có nhiều Viện Đại-học trên thế-giới đã đem khoa Cao-Đài giáo vào chương-trình giảng-dạy, có nhiều sinh-viên cao-học đang nghiên-cứu Cao-đài-giáo để bảo-vệ luận-án Tiến-sĩ của mình. 



Nhưng cũng có một số người nhân-danh một thứ đạo-lý cực- đoan đã cho Cao-Đài là một tôn-giáo xuất-phát từ cơ-bút là một hiện-tượng mê-tín dị-đoan cần phải bài-trừ. 



Vì cơ-bút là một phương-tiện đón nhận những thông-tin từ thế-giới siêu linh, đã có sẵn từ nghìn xưa, không phải của Cao-Đài sáng chế ra, để độc-quyền sử-dụng mê-hoặc chúng-sanh, như có người đã từng xuyên-tạc. Nên để tìm hiểu đâu là “lẽ thật” chúng tôi cố-gắng sưu-tập một số dữ-kiện liên-quan đến hiện-tượng cơ bút trên khắp thế-giới tuy không đầy đủ, nhưng cũng tạm để chúng ta cùng nhau tìm hiểu một số dữ-kiện liên-quan đến hiện-tượng nầy. Mục-đích không phải là chứng-minh cơ-bút là hoàn-toàn chân-thật mà khuyến-khích việc sử-dụng một cách bừa-bãi, hoặc là cho cơ-bút là giả-dối, hoàn-toàn mê-tín dị-đoan, mà bài-bác tất-cả những gì liên-quan đến nó, nhưng để giúp chúng ta nhận chân được giới-hạn giữa chánh và tà, giữa mê và giác, để chứng-minh rằng Cao-Đài giáo xuất-phát từ cơ-bút là một điều chân-thật, là một chánh-giáo. Chứ không phải như một số luậân-điệu đã xuyên-tạc cho đây là một tôn-giáo mê-tín dị-đoan. 



TÍN-NIỆM TIÊN-QUYẾT



Muốn nghiên-cứu về hiện-tượng cơ-bút một cách chính-xác chúng ta cần phải nhận chân những tín-niệm sau đây :



- Thượng-Đế là một Đấng Tự-hửu và Hằng-hửu đã tạo dựng nên vũ-trụ và vạn-hửu chúng-sanh, trong đó có con người.

- Con người được Thượng-Đế tạo-dựng có ba phần Tinh, Khí, Thần tức là thân-xác, tình-cảm và tư-tưởng. Ngôn-ngữ của Cao-Đài giáo gọi là Phàm-thân, Pháp-thân và Linh-thân. Khi chết Phàm-thân tan-rả, sẽ tan biến trở lại vật-chất. Pháp-thân và Linh-thân khi thoát xác sẽ trở về cỏi hư-linh và tồn-tại ở đó, đời sống con người hiện-hửu ở ba cỏi : Hạ-giới, Trung-giới và Thượng-giới. Những điều con người đã học hỏi trong kiếp đương sanh, vẫn tồn-tại trải dài ở cỏi trần đến bên kia cỏi tử, vì khi thân xác chết đi, thì tình-cảm và tư-tưởng vẫn lưu giữ trong Pháp-thân và Linh-thân, làm thành sự hiểu biết của kiếp lai-sinh, còn đối với người đã đắc Đạo thoát ra khỏi vòng luân-hồi sinh-tử, thì tình-cảm và tư-tưởng nầy vẫn tồn-tại trong sinh-hoạt của người đó ở cỏi thượng-giới, Phật-giáo gọi là Niết-bàn, Thiên-Chúa-giáo gọi là Thiên-đường, Cao-Đài-giáo gọi là cỏi Thiêng-liêng hằng sống. 

- Sự tương-quan giữa Thượng-Đế và Chúng-sanh, thì Thượng-Đế là ngọn đuốc, còn Chúng-sanh là những tia lửa lớn nhỏ khác nhau, chiếc-xuất từ Ngài, cả hai đồng-phẩm chứ không đồng lượng.

- Theo khoa-học, thì con người là một khối năng-lượng sinh-học, dưới nhiều dạng khác nhau, đó là năng-lượng trong vật-chất và năng-lượng trong tinh-thần. Theo định-luật bảo-toàn năng-lượng của Lavoisier thì trong quá-trình chuyển-hoá, năng-lượng không tự sinh ra, mà cũng không tự mất đi, chỉ chuyển hoá từ thể nay sang thể khác, hoặc nhập vào trạng-thái nầy hay trạng-thái khác. Khi thân-thể chết đi, năng-lượng trong nguyên-tử vật-chất sẽ tái-tạo lại dưới một hình-thể mới. Năng-lượng tinh-thần sẽ thoát xác và phản-phấùt nơi cỏi siêu-linh. Nên hiệân-tượng cơ bút là một phương-tiện tiếp-xúc với khối năng-lượng nầy. 



Chúng ta cũng có thể kết-luận Thượng-Đế là một khối năng-lượng khổng-lồ, còn mỗi chúng-sanh là một phần năng-lượng nhỏ thua, được chiết-xuất ra từ Thượng-Đế. Nên con người vẫn trường-tồn, bất tiêu, bất diệt. Do đó mà Cao-đài-giáo có những phép tu-luyện để đón nhận nguồn năng-lượng bao-la của Thượng-Đế bổ-sung cho mình, vì Ngài là Đấng Đại Từ-phụ với tình thương-yêu bao-la. Thượng-Đế luôn luôn ban rải năng-lượng xuống trần-gian để hổ-trợ cho con cái cuả Ngài là chúng ta, nên Ngài đã khẳng-định rằng: “Các con là Thầy, Thầy là các con” (TNHT/Q1/ trang 30/ Giòng 31)



Trên đây là những tín-niệm tiên-quyết để cùng nhau tìm hiểu các vấn-đề liên quan đến đề-tài nầy. Còn nếu ai đã có định-kiến cho rằng chẳng có Thượng-Đế nào cả, mà Thượng-Đế do ảo-tưởng của con ngừơi tạo ra. Còn vũ-trụ hình-thành là do sự kết-hợp ngẫu-nhiên của vật-chất, linh-hồn từ vật-chất mà có. Con người do loài khỉ đẻ ra, rồi vì nhu-cầu của thân-xác mà truyền-chủng, lại qua quá-trình phân-hoá hai chân trước thành hai tay để hái lượm, thay cho miệng khỏi phải đớp, ngoạm, tha mồi, nhờ đó mà nảo phát-triển và nhờ lao-động mà có văn-minh tiến-bộ. Những người đã tin như vậy thì không thể cùng nhau tìm hiểu vấn-đề nầy, vì “đạo bất đồng, bất tương vi mưu”.



SỰ TIẾP-XÚC VỚI THẾ-GIỚI VÔ-HÌNH



Hiện-tượng tiếp-xúc với những chơn-hồn bên kia thế-giới vô-hình bằng các phương-tiện đồng-cốt, cơ-bút là một việc làm rất xa xưa, khắp nơi trên thế-giới đều có, ở cả trong các nền văn-hoá khác nhau, và trình-độ kiến-thức cũng khác nhau, từ các bậc trí-thức, các giáo-sư tiến-sĩ đến kẻ bình-dân, đều tin dùng, bởi vì kết-quả của chúng dường như đủ để làm cho con người tin theo. Có những trường-hợp tiêu-biểu đã được chứng-nghiệm rõ-ràng sau đây :



- Vào khoản năm Kỷ-mùi (1920) Ông Ngô-Văn-Chiêu dùng cơ-bút theo cách Cầu Tiên ở Đông-phương để cầu thuốc chữa bệnh cho thân-mẫu và sau đó tiếp-xúc với Đức Cao-Dài Tiên-Ông và thọ phép tu-luyện.

- Vào khoản năm Giáp-tý (1925) các Ông Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công-Tắc và Cao-Hoài-Sang dùng phương-pháp xây bàn theo Thông-linh-học của Tây-phương để tiếp-xúc với các chơn-linh cỏi vô-hình xướng hoạ thi-thơ, và do đó Thượng Đế đã thâu nhận ba Ông làm đệ-tử truyền bá Đạo Cao Đài xuống thế gian bằng phương-tiện nầy.

- Vào năm Ất-sửu (1926) Thượng-Đế giáng cơ khuyên hai nhóm Cao-Đài của Các Ông Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công-Tắc và Cao-Hoài-Sang phối-hợp với nhóm Cao-Đài của Ông Ngô-Văn-Chiêu để phổ-truyền quảng-bá Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ.

- Rồi từ đó trở đi Thượng-Đế cũng dùng Đồng-tử thông qua trung-gian Cơ-bút thâu nhận đệ-tử và truyền-đạo, gọi là cơ-bút phổ-độ để khai-sáng phát-triển Cao-Đài-giáo. Trong đó có ban-bố Pháp-Chánh-Truyền, duyệt xét Tân-luật, tấn-phong giáo-phẩm, tổ-chức cơ-cấu Hành-pháp Đạo (Cửu-Trùng-Đài) Cơ-quan Tư-pháp Đạo (Hiệp-Thiên-Đài) để thông công với Cơ-quan Lập-Pháp Vô-vi (Bát-Quái-Đài). Cùng thành-lập tổ-chức, điều-hành các cơ-cấu hửu-vi của nền Đạo từ trung-ương đến địa phương trên toàn thế-giới. 



Trong những ngày nền Đạo còn phôi-thai chưa có nơi đặt cơ-sở thờ-tự thì Thượng-Đế đã giáng-cơ hướng-dẫn các vị tiền-bối của Đạo đến liên-lạc với Hòa Thượng Như-Nhãn mượn chùa Từ-lâm-tự, Gò-kén, Tây-ninh làm nơi thờ-phụng, và thiết-lễ khai Đạo tại đây vào ngày 15 tháng 10 Bính-dần (19-11-1926), đồng thời Thượng-Đế cũng thâu nhận Hòa-thượng Như-Nhãn làm đệ-tử và tấn-phong Ông làm Thái Chưỡng-Pháp. Sau đó ba tháng thì Hòa Thượng Như Nhãn đòi lại chùa một cách khẩn-cấp. 



Trong lúc còn đương phân-vân chưa biết phải dời đi đâu, thì Đức Lý Giáo-Tông đã giáng cơ chỉ bảo Hội-Thánh tìm đến mua một khu rừng hoang của một Pháp-kiều làm nghiệp-chủ tại làng Long-thành Tây-ninh, để di-chuyển toàn-bộ cơ-sở đầu tiên của nền Đạo từ chùa Từ-lâm-tự về nơi đây. Khu rừng đó ngày nay đã trở thành châu-thành Thánh-địa của Tòa Thành Tây-ninh. Thậm chí Đức Lý Giáo-Tông còn dạy đến giá-cả mua đất :

“ Người Lang-sa đòi hai mươi ngàn, Lão dặn trả giá mười bảy, mười tám ngàn thì mua đặng”.

Đức Lý-Giáo-Tông còn dạy thêm rằng : 

“Đất nay còn rẽ, đất chung quanh Thánh-địa ngày sau hoá vàng. Chư hiền-hửu lo lập, ngày sau rất quý báu”.



Đến ngày nay thì quả ứng-nghiệm như vậy, ngay bây giờ nơi đây đã trở thành khu đô-thị trù-phú, nhà cửa lầu đài san-sát nhau, giá đất tại ngoại ô Thánh-địa một mét vuông đã hơn bạc triệu .



- Ngay ngôi Đền Thánh khởi công vào ngày 1 tháng 11 Bính-tý (1936) cũng đã được Đức Chí-Tôn và Đức Lý Giáo-Tông giáng cơ chỉ dạy họa-đồ xây-dựng và chọn nơi đặt nền móng, mỗi chi-tiết đều được sự hướng-dẫn bằng cơ-bút cho đến ngày hoàn-thành, không có Kiến-trúc-sư, không có chuyên-viên xây-dựng lành nghề, sự xây cất và đốc-công chỉ toàn là Thầy và Thợ “tay ngang” của bổn Đạo đảm-trách. Về trình-độ kỷ-thuật kiến-trúc lúc bấy giờ tuy còn hạn-chế, chưa có máy-móc tân-tiến, chỉ thực-hiện bằng tay chân, nhưng đã xây-dựng một Đền Thánh nguy-nga tráng-lệ bằng bê-tông cốt sắt và ngay cả hệ-thống ánh sáng bằng đường dây điện chôn ngầm, cũng đã hiện-đại hoàn-hảo, đến mức mà trình-độ các Kiến-trúc-sư đầu ngành xây-dựng ngày nay cũng không thể chê chỗ nào được. 



Như vậy cơ-bút quả là một phương-tiện đón nhận những thông-tin chỉ-thị của Thần Tiên một cách chính-xác.



- Trường-hợp Nữ Đồng-tử Sarah Barthel ở Pháp : Trong khi Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc thoát xác quy Thiên vào lúc 13 giờ 30 phút (giờ Cam-pu-chia) ngày 17-05-1959 tại Thánh-thất Tuol-Svay-Prey, Nam-vang (Cam-pu-chia), sự kiện nầy cũng không có sự thông-báo bằng phương-tiện truyền-thông trên thế-giới. Thế mà cũng vào ngày giờ nầy tại Paris (Pháp) Nữ Đồng-tử Sarah Barthel ở tại số nhà 20 đường Albert-Paris 10è đã thông-công nhìn thấy những Thiên-thần cầm lọng vàng và các Đấng Thiêng-liêng mặc áo ba màu vàng xanh đỏ và áo trắng, đến đón tiếp Đức Ngài. Và nghe tiếng nói trong không trung về sự Liễu-Đạo của Đức Hộ-pháp. Bà còn nói thêm rằng : Cũng vào ngày giờ nầy tất cả những người trong Đại Cơ-quan Đồng-tử trên thế giới đều được nhận thấy hiện-tượng và nghe những tiếng nói nầy. (Sự kiện nầy đã được tường-thuật và đăng-tải rõ-ràng trên Báo Le Lien số 4 Juin 1959 trang 30).



Trường-hợp của Giáo-sư Tiến-sĩ Nguyễn-Hoàng-Phương (Giảng-sư Đại-học Tổng-hợp Hà-nội) Ông đã chấp bút viết nên bộ sách dày trên một nghìn trang nhan-đề: “Octonion Cơ-sở Phổ-quát của Khoa-học Đông Tây thống-nhất” đây là Công-trình Khoa-học lớn, kết-hợp Dịch-học phương Đông và Toán-học phương Tây. Công-trình nầy được các Nhà Báo, Nhà Văn, các bậc trí-thức học-giả, các Giáo-sư Tiến-sĩ trong nước và trên thế-giới đánh giá cao. . . Ông cũng không ngần-ngại gởi tặng bộ sách nầy cho Bộ Chính-trị Đảng Cọng-sản Việt-nam. Thủ-tướng và Phó Thủ-tướng Chính-phủ. Ủy-ban Unesco Việt-nam và Quốc-tế. Tài-liệu nầy cũng được báo-cáo trong Hội-thảo Quốc-tế Việt-nam-học tại Hà-nội. Ông cũng còn gởi tặng cho các Bộ Ngành, cùng các Cơ-sở Văn-hoá, Giáo-dục, Khoa-học, Xã-hội. Các Cơ-sở Tôn-giáo, nơi nào cũng nhiệt-liệt hoan-nghinh. 



Như vậy thì cầu-cơ chấp-bút đâu phải là mê-tín.

Trên đây chỉ nêu lên một số trường-hợp trong Đạo và ngoài Đời để dẫn-chứng cho việc sử-dụng đồng-tử và cơ bút trong nhiều lãnh-vực khác nhau. Nếu sưu-tập hết các trường hợp linh-ứng về thông-công giữa con người với các chơn-hồn ở cỏi Thiêng-liêng-hằng-sống trên khắp thế-giới, thì phải bằng nhiều pho sách dày mới ghi hết. Nên chỉ ghi lại mấy trường-hợp đã có sự ứng-nghiệm rõ ràng nêu trên, cũng tạm đủ cho chúng ta nhận thấyï tại sao hiện-tượng thông-công với cỏi hư-linh bằng đồng-tử và cơ-bút lại đủ sức làm cho người ta tin-tưởng như vậy.



Nhưng đây lại là một vấn-đề tế-nhị, mang nhiều màu sắc huyền-bí, không phải một hiẹân-tượng cụ-thể, nếu không trải-nghiệâm, hoặc không chịu khó quan-tâm tìm hiểu một cách đa-phương đa-diện để biết đâu là giới-hạn của sự ứng-dụng hiẹân-tượng nầy, thì không dễ gì hiểu được và cũng khó phân-biệt đâu là huyền linh, và khoa-học cùng mê-tín dị-đoan. Nên nhiều người chỉ dùng một nhãn-quan thiển-cận nhìn một cách hời-hợt và phiến-diện, thì không thể nào tránh khỏi những lập-luận hồ-đồ cho đây là hiện-tương hoàn-toàn mê-tín dị-đoan.



CHÂN-LÝ VÔ-ĐỐI VÀ TƯƠNG-ĐỐI



Theo quan-niệm thông-thường của quần-chúng trước các vấn-đề mới lạ, dù đó là chân-lý vô-đối, thì thái-độ của nhân-loại thường chia ra ba hạng người tiêu-biểu, một hạng tin theo, một hạng lưng-chừng, một hạng chống đối. Trường-hợp những con người chống-đối đó thiển-cận mà lại có quyền-lực, thì chân-lý mới mẻ dù có hay đến đâu cũng bị họ tiêu-diệt không nương tay, vì họ cũng nhân-danh chân-lý, dù chân-lý đó chỉ có tính-chất tương-đối, đôi khi còn thiển-cận và lỗi thời, nhưng họ cố bám víu vào để độc-quyền thao-túng, hầu có lý-do tiêu-diệt cái chân-lý vô-đối mà họ cho là có nguy-cơ cho quyền-lực của họ. 



Như trường-hợp Galilée (1564-1642) đã dùng kính thiên-văn để quan-sát bầu trời và đã phát-minh rằng quả đất tròn, và quay chung quanh mặt trời, nhưng có những người ở đầu thế-kỷ XVII nhận-thức qua cái nhìn thiển-cận của đôi mắt, chưa có óc suy-luận theo khoa-học, họ vẫn tin-tưởng vào cái nhìn của họ, là mặt đất bằng-phẳng đứng yên, trong lúc mặt trời di-chuyển, sáng mọc ở đằng đông, chiều lặn theo đằng tây. Cho nên đối với họ thì Galilée sai lầm, dù là do cái nhìn thiển-cận của một thứ giác-quan mù-quáng, của thời bán khai đã khiến họ tin như vậy là đúng, thạâm-chí họ không dám nhìn vào ông kính thiên-văn lúc bấy giờ, để khỏi phải ảnh-hưởng đến điều họ đã tin, vì đối với họ đó là chân-lý bất-biến.



Như vậy tuy Galilée ngày xưa được Thượng-Đế tác-động trên tinh-thần của Ông, để dìu-dắt nhân-loại nhận-chân được hình-thể đích-thực của vũ-trụ. Đó là một bước tiến trong đời sống trí-tuệ nhân-loại, thế nhưng vẫn có những phần-tử cường-quyền lúc bấy-giờ đã từ-chối sự phát-minh mới-mẻ nầy, và họ còn quan-niệm rằng chồng đối lại nhận-định của Galilée là một hành-vi đạo-đức, bảo-vệ chân-lý mà giác-quan và con mắt họ đã nhận-định như vậy. Thậm-chí họ cho rằng “Ống Kính Thiên-văn là một phát-minh ma-quỷ, Galilée chính là tay sai của ma quỷ” nên cường-quyền lúc bấy-giờ đã tra-tấn ông rất dã-man, và định đem tội tử-hình để áp-dụng cho ông. Vì không chịu nỗi cực hình, nên ông phải quỳ gối trước sức mạnh của bạo-lực, để tỏ vẻ sự hối-hận, mặc dù đó chỉ là dấu-hiệu bên ngoài của ông, chứ trong thâm-tâm ông vẫn tin-tưởng vào sự quan-sát các thiên-thể của ông bằng kính thiên-văn. Mặc dù sức mạnh của cường-quyền lúc bấy giờ đã trấn-áp được Galilée, nhưng cũng vẫn không ngăn-cản được chân-lý vô-đối lưu-hành. . . 



Cũng tương-tự như vậy, cơ-bút là phương-tiện của con người phàm-trần tiếp-xúc với các chơn-hồn ở cảnh-giới siêu-linh, không rõ có từ bao-giờ, có lẽ có từ khi văn-minh tinh-thần con người được phát-triển, nên ngày nay Thượng-Đế cũng dùng nó làm phương-tiện tiếp-xúc với đệ-tử tại trần-gian để mở Đạo. Cũng vì vậy mà Cao-Đài giáo đã phát-triển một cách nhanh-chóng và được nhiều thành-phần từ người trí-thức cho đến giới bình-dân đều tín-ngưỡng mạnh-mẽ, và thực-chất triết-thuyết Cao-Đài cũng đã điều-chỉnh những vấn-đề xã-hội thiết-thực, gây ấn-tượng mạnh-mẽ trong khối đông-đảo tín-đồ, đã mang lại cho họ những lợi lạc cả thân tâm, mà không ai có thể chối cải được. Như vậy cơ-bút chỉ là cái máy điện-thoại di-đọâng để đón nhận thông-tin, tự nó không mê-tín hay chánh-tín gì cả, mê hay chánh là tuỳ nơi người sử-dụng nó mà thôi. Cũng như xe cộ là phương-tiện giao-thông, có từ nghìn xưa. Còn xe cộ đâm chết người, hoặc người dùng xe cộ đi cướp của giết người, thì không ăn-nhập gi với xe cộ cả. Những người có tinh-thần khoa-học tiến-bộ, không thể quy-nạp một cách mù-quáng là xe cộ gây ra chết người, rồi vịn vào lý-do đó để cấm dùng xe cộ, cũng như cơ-bút là phương-tiện cho những người quang-minh chánh-đại tiếp-nhận những Chân-lý từ cỏi Thiêng-liêng, hướng-dẫn chúng sanh quay về nẻo thiện, góp phần cho thế-giới thanh-bình, càn-khôn an-tịnh, mà cũng là phương-tiện của những người vô lương-tâm, không đạo-đức liên-hệ với ma quỷ, để mê-hoặc chúng-sanh mưu lợi-ích cho mình. Nên cần phải hướng-dẫn nhơn-sanh hiểu rõ để phân-biệt đâu là chánh tà, chân giả.



CÁC PHƯƠNG-THỨC THÔNG-CÔNG VỚI CỎI HƯ-LINH



Trên thế-giới từ xưa đến nay có nhiều phương-thức thông công với cỏi hư-linh khác nhau. Sau đây chỉ nêu lên những phương-thức thông- dụng hiện nay .



THÔNG-CÔNG BẰNG CƠ-BÚT



Phương-thức thông-công với cỏi hư-linh bằng cơ-bút là một hình-thức sơ-đẳng đơn-giản dễ thực-hiện nhất.

Thông-công bắng cơ-bút có các hình-thức thực-hiện sau đây : 



Cầu cơ : Phương-thức nầy thông-dụng ở phương Đông, rất lâu đời, các người tu Tiên theo Lão-giáo hay dùng để liên-lạc với Tiên-giới. Họ dùng một miếng gổ thường đẻo theo hình trái tim nên mới có tên là “con cơ”. Khi thông-công thì một hoặc hai đồng-tử ngồi đặt tay lên con cơ, tịnh tâm một hồi lâu, khi chơn-linh vô hình giáng nhập thì con cơ di-động viết thành chữ, hoặc di-động trên bản viết 24 chữ cái ABC… rồi ráp lại thành chữ, người hầu đàn tiếp-xúc trò chuyện với chơn-linh vô-hình có thể hỏi bằng ngôn-ngữ còn chơn-linh đáp bằng cách chỉ từng chữ ABC… rồi ráp thành vần. Hình-thức con cơ cũng có thể đẻo thành hình con chim, hoặc một hình gì tuỳ ý. 



- Cũng có loại Ngọc cơ tức là đan một cái lồng bằng tre, cột trên miệng giỏ tre một cần gổ, đầu chạm hình con chim loan có gắn một cây cọ để viết, cách nầy có thể viết thẳng thành chữ, khỏi phải chỉ từng chử ABC rồi ráp vần lại, như vậy sẽ nhanh hơn. Khi cầu bằng ngọc cơ thì một hoặc hai đồng-tử cầm miệng giỏ tre, tịnh-tâm một hồi lâu, khi chơn-linh nhập thì cơ di-động viết thành chữ. Nên cách nầy gọi đồng-tử là người Phò-loan. Phương-thức dùng ngọc cơ nầy theo nhiều trải-nghiệm cho biết các Đấng Thiêng-Liêng thích tiếp-xúc hơn là các loại cơ khác, Ngài Ngô-Văn-Chiêu đã tiếp-xúc với các Tiên-ông, và Thượng-Đế bằng phương-thức nầy.



Chấp bút : Trường-hợp nầy người đồng-tử cầm bút ngồi tịnh-tâm, khi chơn-linh giáng-nhập đồng-tử viết ra lời. Trường-hợp nầy có hai cách giáng-thủ và giáng-tâm. Giáng thủ là xem như chơn-linh nhập vào tay và cây bút để đồng-tử viết ra lời. Giáng-tâm là đồng-tử giao-cảm với tư-tưởng của chơn-linh giáng-đàn vào trong tâm mình rồi viết ra.



- Xây bàn : Phương-thức nầy do phái Thông-linh-học ở Tây phương du-nhập vào Việt-nam, vào khoản thập niên 1920, các công-chức Tây học hay dùng tiếp-xúc với các chơn-linh vô-hình. Có hai cách thực-hiện khác nhau :

Quay bàn : Dùng một bàn độc mặt tròn, mặt bàn được quay trên trụ một chân, trên mặt bàn có vẽ một mũi tên, bên ngoài bàn tròn có đặt một bản đối diện với mũi tên, viết những mẫu tự ABC. . . (chữ quốc-ngữ) hay các nét chấm phảy (chữ Hán). Khi xây bàn thì một hoặc nhiều Đồng-tử ngồi đặt hai bàn tay úp lên mặt bàn, tịnh tâm, khi chơn-linh nhập thì bàn xoay mũi tên chỉ vào mẫu-tự, hoặc các nét chấm phảy rồi kết thành chữ.

Gỏ bàn : Khi cầu thì dùng một bàn gổ 4 chân, kê hai chân đối nhau cao hơn vài phân để tạo đôï nghiêng chênh-lệch cho hai chân còn lại, một hai hoặc ba đồng-tử ngồi đối diện, đặt tay lên bàn. Tịnh-tâm một lúc, khi chơn-linh nhập, thì bàn gổ động-đậy nâng chân lên và gỏ xuống có thành nhịp một, hai, ba … tuỳ theo quy-ước, tỷ như bàn gỏ nhịp một cái là chữ A, hai nhịp là chữ B… rồi ráp lại thành vần. Lúc bấy giờ các Ngài Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công-Tắc, Cao-Hoài-Sang đã dùng phương-thức nầy tiếp xúc với các Chơn-linh vô-hình và Thượng-Đế. 



Tại sao cái bàn hoặc con cơ là một vật thể vô tri-giác mà cử-động được ? Theo khoa-học thì tư-tưởng nó cũng có sức nâng nổi đồ vật hửu-hình, còn gọi là thần-lực, nên thần-lực cũng là một dạng năng-lượng, mà tính-chất của năng-lượng khi chuyển-hoá có thể nhập vào một vật thể nào đó, khiến nó trở thành sống động. Nên khi cầu cơ hoặc xây bàn thì cái cơ hay cái bàn tuy là vật thể vô-tri bất-động, nhưng đã tiếp nhận hai nguồn năng-lượng, một từ đồng-tử, một nguồn năng-lượng trong không-trung là các chơn-hồn nhập vào, nên nó trở nên một vật thể di-động. Cũng giống như sự di-động của quả lắc trong khoa Cảm-xạ-học, chịu sự tác-động của hai trường năng-lượng một của con người phát ra từ nảo, một trường năng-lượng phát ra từ đối-tượng con người muốn tìm kiếm, khiến con lắc di-động hướng về phía đối-tượng. Do đó khi cầu cơ nếu đồng-tử tịnh-tâm hoàn-toàn, thì cơ viết ra theo tư-tưởng của chơn-linh nhập-đàn. Nên khi cầu cơ thì đông-tử và người hầu-đàn phải thật tịnh-tâm, thì đàn cơ sẽ không bị nhiễu-loạn bởi tư-tưởng của những người hiện-diện, như vậy bài viết ra mới hoàn-toàn là lời lẽ của chơn-linh giáng cơ. Có đôi khi muốn tránh sự tác-động của đồng-tử để bài cơ trung-thực, họ bịt mắt của đồng-tử không cho nhìn thấy những ô chữ họ chỉ, hoặc chữ đã viết ra.



CÁCH-THỨC TỔ-CHỨC MỘT ĐÀN CƠ



Muốn tổ-chức một Đàn cơ cầu Tiên phải chọn nơi thanh-tịnh, tinh-khiết và tôn-nghiêm, ban đêm càng tốt. Nhân-vật hầu đàn và đồng-tử phải tắm gội sạch sẽ, người hầu đàn phải có lòng thành kỉnh, đồng-tử phải giữ tâm thanh-tịnh tránh mọi tạp-niệm. Thành-phần gồm có : 



-Một Chứng-đàn người có đạo-đức uy-tín, đứng ra điều-khiển tổng-quát buổi cầu Tiên.

-Một Pháp-đàn hay Pháp-sư điều khiển đồng-tử. 

-Một hoặc hai đồng-tử, trường hợp xây bàn có thể ba bốn người.

-Một thị độc hay độc-giả để đọc chữ.

-Một người điển-ký hay từ-hàn để ghi chép. 

-Một số người hầu đàn không bắt buộc cũng không hạn chế.



THÔNG-CÔNG TRỰC-TIẾP BẰNG ĐỒNG-TỬ



Ngoài phương-thức cơ-bút ra còn có nhiều phương-thức thông-công khác mà ngày nay các nhà khoa-học gọi là các “hiện-tượng ngoại-cảm”. Đó là Đồng-tử trực-tiếp với chơn-linh vô-hình bằng nhiều cách, không qua trung-gian cơ bút :

Thông-công bằng tâm : Người đồng-tử dùng tâm để giao-cảm với chơn-linh cỏi vô-hình qua tư-tưởng, rồi nói hoặc viết lại. Còn gọi là hình-thức giáng tâm. 

Thông-công bằng tai nghe : Người đồng-tử có thể dùng tai để nghe tiếng nói của chơn-linh vô-hình, rồi nói hoặc viết lại.

Thông-công bằng mắt : Người đồng-tử có thể thấy chơn-linh vô-hình bằng mắt, và trao đổi với chơn-linh vô-hình bằng tư-tưởng hay lời nói.



Các trường-hợp thông-công nầy do năng-khiếu thiên-phú đặc-biệt của đồng-tử, hoặc do tu-luyện mà đạt được. Các hình-thức nầy có hai trạng-thái : đồng-tử mê hoàn-toàn, xem như chơn-linh đồng-tử xuất khỏi xác, nhường hoàn-toàn thể-xác cho chơn-linh nhập-thể, còn một trường-hợp đồng-tử vẫn tỉnh-táo, chỉ giao-cảm tiếp-nhận tư-tưởng của chơn-linh vô-hình rồi truyền-đạt lại mà thôi. 



Các Đồng-tử theo loại nầy thường thường chỉ tiếp-xúc với một chơn-linh nào đó, xem như đồng-tử riêng do chơn linh đó chọn lựa để nhập xác mà thôi, chứ không tiếp-xúc nhiều như kiểu cầu-cơ. Lối thông-công nầy Đồng-tử cũng không cần phải biết chữ. Có nhiều người muốn xuyên-tạc cho cơ-bút là sự giả-dối, do tư-tưởng con người viết ra, nên họ cho rằng người không biết chữ thì không thể làm đồng-tử được. Nhưng trong thực-tế nhiều đồng-tử không biết chữ, đã ngồi xác đồng khi chơn-linh nhập xác, họ đã đọc hoặc viết nên chữ, thậm chí có khi còn nói tiếng, hoặc nói theo giọng của chơn linh nhập xác, hay còn biết ăn trầu, hoặc hút thuốc theo sở thích của chơn-linh nhập xác lúc sinh tiền, mặc dù người đồng-tử trong lúc bình-thường không dùng được những thứ nầy.



Hiện nay trong nhân-gian trên khắp thế-giới đang sử-dụng, cơ-bút, đồng-tử, theo nhiều phương-thức khác nhau, và nhiều mục-đích khác nhau, như cầu tài-lợi, nhờ các vong linh chỉ hướng làm ăn hoặc mách các con số trúng thưởng trong các kỳ xổ số, cầu người thân đã lìa trần chỉ nơi chôn cất của cải, hoặc những điều riêng tư lúc chết chưa kịp cho con cháu biết, hoặc chỉ hài cốt bị thất-lạc, người đau ốm cầu xin chửa bệnh, hoặc hỏi về tương-lai, vận-mệnh của người còn sống v.v… Đó là các mục-đích sử-dụng đồng-bóng, cơ-bút chung chung của những người phàm-trần hiện nay. Nhìn chung mức-độ linh-ứng cũng không giống nhau, có trường-hợp đúng, cũng có nhiều trường-hợp sai. Chỉ có một số ít tín-đồ của nhiều tôn-giáo dùng cơ-bút để học đạo hoặc tiếp-nhận những thông-tin từ thế-giới thần-linh mà thôi. 



Trên đây là sơ-lược các phương-thức của người phàm-trần tiếp-xúc với các chơn-hồn trong cỏi hư-linh từ xưa đến nay trong nhân-gian. Còn mức-độ chính-xác tới đâu, linh hoặc không linh, chánh-tín hay mê-tín là do trình độ đạo-đức, năng-khiếu hoặc sự điêu-luyện của đồng-tử, cùng cơ-duyên và sự tín-thành của người sử-dụng… 



Chúng ta cũng nên biết rằng sinh-hoạt các chơn-hồn ở cỏi hư-linh cũng đủ trình-độ thứ bậc giống như nơi phàm trần, cũng có chia ra Thần, Thánh, Tiên, Phật; cũng có phân ra Yêu, Quái, Ma, Quỹ. Trình-độ nào thì liên-hệ tiếp-xúc trình độ đó do quy-luật đồng thanh tương-ứng, đồng khí tương-cầu. Nên nếu người có lương-tâm mến đạo-đức thì được tiếp-xúc với Thần Thánh, còn người gian-ác ham danh-lợi thì tiếp-xúc với ma quỹ, đó cũng là lẽ đương nhiên.



NHỮNG QUY-LUẬT SỬ DỤNG CƠ-BÚT TRONG ĐẠO CAO-ĐÀI



Vấn-đề sử-dụng cơ-bút trong cửa Đạo Cao Đài, không phải là một việc làm tuỳ-tiện như kiểu thực-hiện cơ bút ngoài nhân-gian, mà có những quy-luật khá đặc-biệt, tương-đối khắc-khe như sau :



- Những nhân-vật có trách-nhiệâm làm Đồng-tử sử-dụng cơ-bút truyền-giáo là những người được Đức Chí-Tôn trực-tiếp tuyển-chọn từ khi khai Đạo, các vị này sau nầy đều là chức-sắc Đại Thiên-phong cao-cấp trong Hiệp-Thiên-Đài đó là Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh và Thập Nhị Thời-Quân và Thập Nhị Bảo-quân.

- Về sau khi ngưng cơ bút phổ-độ, Đức Chí Tôn đã quy-định sự thông công thuộc trách-nhiệm Hiệp-Thiên-Đài. Thường là để Thiêng-Liêng giải-quyết các vấn-đề quan-trọng có tính chất quyết-định của Đạo, tỷ như trường-hợp liên-quan đến thiết-lập và thi-hành luật pháp như sau:

“ . . .Như hai đàng không thuận, thì chúng nó phải dâng lên cho Hộ-Pháp đến Hiệp-Thiên-Đài cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại…” (Trích Pháp-chánh-truyền chú-giải).

Như vậy thì các Đồng tử chính thức phải là các chức-sắc Đại Thiên phong của Hiệp-Thiên-Đài tương đương với Thập-nhị Thời-quân trở lên. 

- Nơi thực-hiện đàn cơ phải tổ-chức trước Bửu-điện thờ Chí-Tôn, ngày nay phải được thực hiện tại Cung Đạo Đền Thánh Trung-ương tại Thánh-địa Tây Ninh.

- Khi sinh-tiền, Đức Hộ-Pháp cũng có cho phép một số chức -sắc cấp dưới tập thông-công bằng cơ bút, nhưng chỉ để cho cá-nhân của minh học Đạo mà thôi, không được phổ-biến cho người khác.

Còn về nguyên-tắc chung về thực-hiện và sử-dung cơ bút như thế nào, xin trích-lục nguyên bài Thánh giáo Đức Chí-Tôn đã dạy về cơ-bút như sau : 



“Ngọc-Hoàng Thương-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam-Phương 

Thủ cơ – Chấp bút 

Thủ cơ hay là chấp bút phải để cho Thần, Tâm tịnh mới xuất chơn-thần ra khỏi phách, đặng đến hầu Thầy nghe dạy.

Khi chấp thủ thì tay tuân theo Chơn-Thần nói lại mà viết ra mường-tượng như con đặt-để, con hiểu đặng vậy.

Chơn-Thần là gì ? 

Là nhị xác thân (Périsprit), là xác-thân thiêng-liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu. 



Cái Chơn-Thần ấy của các Thánh Tiên Phật là huyền-diệu vô cùng, bất tiêu, bất diệt. Bậc chân-tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du thiên ngoại. Cái Chơn-Thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy.



Như chấp cơ mà mê, thì Chơn-Thần ra trọn vẹn khỏi xác, Thầy mới dạy nó viết chữ chi đó, nó đồ theo, Thầy nói tên chữ, xác nó cầm cơ viết ra; người đọc trật chữ, nó nghe đặng, không chịu, Thầy buộc viết lại và rầy kẻ đọc trật ấy.



Còn chấp bút, khi Thầy đến làm cho Thần con bất-định một lát, cho Thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết, ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt, mới thấu đáo Càn khôn, tinh thông van-vật đặng..



Trước khi thủ cơ hay chấp bút, thì phải thay y-phục cho sạch-sẽ, trang-hoàng, tắm gội cho tinh-khiết, rồi mới đặng đến trước bửu-điện mà hành-sự; chớ nên thiếu sót mà thất lễ. Nếu chấp cơ thì phải để ý thanh-bạch không đặng tưởng đến việc phàm . Tay chấp cơ cũng phải xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh-thần tinh-tấn mà xuất ngoại xác thân đến hầu dạy việc. Phải có một chơn-linh tinh-tấn mới mầu nhiệm huyền-diệu , phải trường trai mới đặng linh-hồn tinh-tấn; phải tập-tành chí Thánh,Tiên, Phật, mới phò cơ dạy đạo cho cả chúng-sanh. Kẻ phò cơ chấp bút cũng như tướng soái của Thầy để truyền đạo cho thiên-hạ. Các con đừng tưởng việc cơ bút là việc tầm thường. Còn việc truyền thần lấy điển-quang, thì ai ai cũng có điển trong mình, nó tiếp điển ngoài rồi rồi thần của nó viết ra, có khi trúng có khi trật.

Vậy khi nào chấp cơ thì phải đợi linh Thầy rồi sẽ thi-hành. 

(Thánh-giáo ngày 03/ 01/1926. Trích TNHT/ Q1/ trang 6-7).



Theo bài Thánh-giáo trích-dẫn trên đây thì việc sử-dụng cơ-bút trong cửa Đạo Cao-Đài đòi hỏi nhiều điều-kiện khá đặc-biệt sau đây:



- Đồng tử phải là người có tinh-thần đạo-hạnh trong sáng, phải tinh-tấn chí Thánh, tâm-thần phải thanh-tịnh. 

- Chơn-thần của đồng-tử phải xuất được ra ngoại xác thân, điều nầy có được là do thiên-phú, hoặc do thiền-định tịnh-luyện đến độ tinh-tấn, rồi nhờ các đấng Thiêng-liêng khai mở khiếu huyền-quang nơi nê-huờn cung (mỏ-ác) thì chơn-thần (nhị xác-thân) mới xuất ra được để tiếp-xúc với các Đấng Thiêng-Liêng.(Theo Thiêng-Liêng Hằng Sống).



- Nên khi mới khai đạo các đồng-tử đều do Đức Chí-Tôn chọn lựa. Đó là những tướng soái của Thầy truyền đạo xuống thế-gian. Nên về sau các đồng-tử nầy đều là chức-sắc Đại Thiên-phong của Hiệp-Thiên-Đài đó là Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh và Thập Nhị Thời-Quân. Ngày nay các chức-sắc Đại Thiên-phong của Hiệp-Thiên-Đài đã quy-thiên chưa được Đức Chí-Tôn tấn-phong thay thế, nên vị-thế các đồng-tử chính-thức của nền Đạo còn đang để trống.



- Địa-điểm thiết-lập đàn-cơ luôn đặt trước bửu-điện thờ Đức Chí-Tôn, là nơi hoàn-toàn thanh-tịnh, tinh-khiết. Ngày nay là tại Cung Đạo Toà Thánh Tây-ninh. 



MỘT SỐ DIỄN-TIẾN LIÊN-QUAN ĐẾN CƠ BÚT TRONG ĐẠO CAO-ĐÀI.



Trong buổi đầu khai Đạo Đức Chí-Tôn đã dùng cơ bút để truyền đạo thâu nhận đệ tử, gọi là cơ bút phổ-độ, nhưng đến khi Đạo đã hình-thành có đông-đảo tín-đồ, có Hội-Thánh có đủ cơ-cấu Hành-chánh và Pháp chánh tức là đã đủ hai quyền Hành-pháp và Tư-pháp, thì Đức Chí-Tôn đã ngưng cơ bút phổ-độ. Vào ngày 01 tháng 06 năm 1927 (Đinh-mão) Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng :



“Còn cuối kỳ tháng sáu đây thì Thầy phải ngưng hết cơ bút truyền Đạo, các con sẽ lấy hết chí-thành đã ung-đúc bấy lâu mà lần-hồi lập cho hoàn-toàn mối Đạo” (TNHT/ Q1/ trang 103 / giòng 23-26). 

Trước khi ngưng cơ, Thầy đã cho lịnh dùng cơ bút thế nào…”

Do đó từ đây công việc phổ-độ và giáo-hoá chúng-sanh Đức Chí-Tôn giao lại cho Hội-Thánh, Đức Chí-Tôn cũng đã dạy rằng : 

“T…,T.., C…, Từ đây nên liệu chừng nhau mà điều-đình gánh Đạo, điều nào theo Tân-luật, do Thánh-ý, hiệp lòng chư đạo-hửu, bổ-ích cho nền Đạo thì các con nên thung-dung liệu nhau mà thi-hành, chẳng cần phải đợi cầu hỏi (TNHT/Q1/trang 103).



Như vậy cơ bút không còn dùng để truyền đạo, mà chỉ dùng cho những trường-hợp đặc-biệt của Đạo như Phong Thánh và cầu xin Chí-Tôn cùng các Đấng Thiêng-liêng giải-quyết các vấn-đề cực-kỳ quan-trọng mà Hội-Thánh không quyết-định được mà thôi. 

Sư tam

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.

  • Đức Giáo Tông Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 14-3 Quý Hợi
  • 10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
  • Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS)
  • Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides