Anh hùng Ngô Tùng
Châu và đạo Cao Đài
(Bài thuyết đạo của Ngài Sĩ Tải Đặng Ngọc Dương tại Lăng Miếu Ngô Tùng Châu
ngày 25/5/Canh Tuất-1970).
Kính thưa…
Trước
cảnh núi sông hùng vĩ, dưới vòm trời quang đãng bao la, với ngọn gió đông nam
man mác, sự hịên diện đông đảo của quí vị quan khách và bà con đồng bào đồng
đạo trong khung cảnh thế nầy, cũng nói lên được mối cảm tình và sự quan tâm sâu
sát của quí vị đối với vị anh hùng dân tộc Ngô Tùng Châu và Tỉnh Đạo Cao Đài
Bình Định chúng tôi.
Hôm nay, nhân ngày đặt viên đá đầu tiên xây cất Lăng Miếu Ngài Ngô Tùng Châu và cũng là ngày lễ kỷ niệm sự tuẫn tiết của Ngài tại thành Qui Nhơn gần 200 năm về trước. Thay mặt Tỉnh Đạo Cao Đài Bình Định, chúng tôi xin có đôi lời tưởng niệm công đức của Ngài để quí vị có mặt hôm nay, ghi lại mấy dòng lịch sử của một vị Tiền Bối đầy nghĩa cảm quyết liệt. Đồng thời, quí vị cũng sẽ thấy sự liên hệ thế nào mà Tỉnh Đạo Cao Đài chúng tôi lại đứng ra xây cất Lăng Miếu của Ngài, thiết tưởng đây là một vinh dự lớn.
Kính thưa quí vị,
Lần giở lại trang lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, chúng ta không làm sao
khỏi ngậm ngùi vì đất nước đang trải qua một thời kỳ tao loạn cực kỳ đen tối mà
sự tranh chấp không phải giữa ngoại xâm và dân tộc, mà chính là những người
cùng huyết thống. Cái cảnh nồi da xáo thịt lúc bấy giờ đã làm cho dân tình điên
đảo, nhân tâm điêu đứng, không làm sao kể xiết!
Nhưng tất cả những gì xảy ra trên mặt đất nầy, dù bé nhỏ đến đâu cũng không
phải tự nhiên mà có. Huống nữa, vận nước khi thạnh lúc suy cũng không phải do
con người làm ra. Vả chăng, trên đời nầy, không phải muôn việc đều phó thác cho
Trời mà cũng một phần do bàn tay nhân sự nữa.”Có Trời mà cũng có Ta” là
vậy! Cho nên, hễ có một triều đại thì thịnh, thì có những bậc trung cang nghĩa
khí ra đời, mà triều đại suy, thì nảy ra những loạn thần tặc tử.
Người dân VN không tôn trọng cá nhân hay triều đại mà chỉ ca ngợi những thành
quả của đạo đức muôn đời. Chả thế mà khi bờ cõi nước nhà bị phân tranh bởi sông
Gianh, ngoài Bắc đang
gặp loạn kiêu
binh của triều Lê mạt vận, thì ở trong Nam sau khi Chúa Nguyễn Vũ Vương mất,
Trương Phúc Loan chuyên quyền, thì lại có bàn tay của nhà Nguyễn Tây Sơn xây
dựng cho đất nước nầy một giang sơn thống nhất, một bờ cõi hùng vĩ, khiến cho
ngoại bang dù lớn lao gấp mấy như Tàu có muôn vạn hùng binh cũng phải khiếp sợ.
Nhưng đến khi cơ nghiệp nhà Tây Sơn bắt đầu suy sụp do bàn tay tham lam của
Thái Sư Bùi Đắc Tuyên đời vua Cảnh Thịnh, thì phải có sự phục hồi chấn
chỉnh sau đó do sức quật khởi của triều đại Nguyễn Phúc Anh.
Điều nầy còn ghi rõ nơi mảnh đất Bình Định nầy. Bên kia là đền Ba Vua (Tây
Sơn), bên nầy là lăng Ngài Võ, Ngô. Tuy khi sống là một kẻ thù, mà lúc thác lại
được tôn sùng trên cùng một mảnh đất. Ay mới lạ lùng mà thanh cao thy! Hùng
tráng thay! Cái đạo lý của Đông phương, không phải tôn thờ cá nhân, mà tôn thờ
đạo nghĩa là vậy!
Kính thưa quí vị,
Trong một bối cảnh lịch sử vô cùng bi đát mà chính ta không phân minh như thế,
tại thôn Thái Thuận , xã Cát Tài, quận Phù Cát, tỉnh Bình Định (tức là nơi
nầy), đã ghi danh một bậc hào hùng. Đó là Ngài Ngô Tùng Châu. Ngài xuât thân từ
hàng Nho sĩ, Ngài đã hiểu được nhân tâm và am tường thời cuộc lúc bấy giờ nên
đã theo phò Chúa Nguyễn Phúc Anh ngay từ buổi đầu bôn tẩu mưu việc phục quốc
cho đến khi Nguyễn Vương thu phục Gia Định thành vào năm 1789, miền Nam nước
Việt còn hoang tàn sau bao năm giặc giã. Ngài đựơc cử trong số 12 vị quan văn
như: Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định… vào chức Điều Trấn Quân , để đôn đốc việc
canh tác và thu hoạch hoa màu. Cho nên, cuộc chiến trở thành ác liệt. Những
trận giặc mùa đã làm cho mọi người dân cảm thấy cần phải có một cuộc thay đổi
về nếp sống cho thuận lẽ Trời, nhất là những xáo trộn ở triều đình Cảnh Thịnh
đã làm cho nhân dân vô cùng ta oán!
Sau bao lần cùng NguyễnVương mưuđồ đại nghiệp, chẳng quản nhọc nhằn lao khổ.
Đầu năm 1901, Ngài được cử làm Hiệp Trấn phụ lực với quan Hậu Bị Quân Võ Tánh
trấn thủ thành Qui Nhơn. Tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng cùng
đoàn quân tinh nhuệ đã vây hãm thành nầy gần 3 năm trường đến lúc cạn lương
thực.
Tướng sĩ dưới quyền của 2 Ngài đã hết sức cố thủ,
nhưng Nguyễn Vương mưu sự giải
vây, thì Ngài cùng Võ Tướng Quân trả lời là binh tinh nhuệ Tây Sơn đang ở quanh
Qui Nhơn hết cả. Phú Xuân ăt bỏ trống và khuyên Nguyễn Vương gấp ra chinh phục
kinh thành.
Anh dũng thay! Khí phách thay! Mà cũng mưu lược thay! Những bậc chiến sĩ mưu đồ
đại cuộc cứu quốc, người ở Biên Hoà, người quê Bình Định, nhưng hai miền đất
Nam Trung như kết liên anh khí với nhau, nên quyết cùng nhau thọ tử để cho đại
cuộc thành hình.
Kính thưa quí vị,
Quí vị cứ tưởng cảnh ba quân tướng sĩ đang bị kiệt quệ, đói khát, nhôn nhao, lo
sợ, trong một phạm vi, một bờ thành hạn hẹp, có kẻ đã xiêu lòng trước lời kêu
gọi đầu hàng của đối phương, nhưng 2 vị chủ tướng vẫn một mực kiên trì. Thế rồi
hai Ngài bàn tính với nhau, khi quan Trấn Thủ hỏi quan Hiệp Trấn về mưu lược,
Ngài Ngô chỉ vào chén độc dược mà nói rằng: “Kế của tôi đó”. Và
Ngài Võ lại cho dựng lên một lầu Bát Giác bằng rơm khô, để rồi kết cuộc là sự
toàn thắng của Đại nghĩa. Một Ngài đã dùng chén thuốc độc để giữ tròn khí tiết,
thì một Ngài sau đó đã dùng ngọn lửa hồng nơi lầu Bát Giác để làm rạng chí
trung kiên.
Người dân Bình Định từ đó lại lưu truyền trong dân gian câu ca dao: “Ngó
lên hòn tháp Cánh Tiên,
Cảm thương ông Hậu thủ thiềng (thành) ba năm”.
là do sự kiện nầy.
Bức thư tuyệt mạng của hai Ngài lời lẽ rất thống thiết. “Phận
ta làm chủ tướng, đành liều chết dưới cờ, còn các tướng sĩ không có tội gì nên
đừng sát hại”, đã cứu được đại quân trong tình thế như rắn mất đầu.
Tấm gương khẳng khái của 2 Ngài khiến cho đối phương cảm kích. Cho nên, tướng
Trần Quang Diệu đã cho tẩn liệm và an táng hai Ngài theo hàng Tướng quân. Các
tướng sĩ còn lại an toàn tánh mạng. Lịch sử đến đây đã mở ra một trang sáng
chói của đạo đức muôn đời của dân tộc VN. Một đàng vì đại cuộc hy sinh để mưu
dựng cơ đồ cho Tổ Quốc, một đàng vì tình đồng loại, vì nghĩa trung liệt mà đã tương
kính nhau không gây cảnh tương tàn ác độc phi nhân nghĩa như xã hội ngày nay.
Hai bên đối phương đã tranh nhau một định mệnh.
Cái chết của hai Ngài đã bao hàm một ý nghĩa sâu xa của tinh thần trách nhiệm
và tình nghĩa đồng bào! Cụ Phạm Quỳnh, một học giả nổi tiếng hồi đầu thế kỷ
nầy, đã viết về sự tuẫn tiết đầy nghĩa khí và trung cang của hai Ngài như sau:
–“Cô thành đương nhật nghị nhiên, vị quốc tận trung, võ tướng văn thần
tranh nhất tư;
– Cổ mộc tà dương kiến thử, linh nhơn khí cảm, linh tư di lũng tự thiên thu.”
Tạm dịch: “Nghĩ chuyện thành côi ngày ấy, vì nước trọn
trung, văn võ tranh nhau tròn một thác; Thấy cảnh cây già nắng xế, khiến lòng
bỗng nhớ, miếu mồ còn lại với nghìn thu”.
Đặng Đức Siêu, một quan văn, soạn văn tế cho vua Gia Long,
đã viết hồi năm 1801:
“Chén
tân khổ nhắp ngon mùi chính khí,
Ngọn quang minh hun mát tấm trung cang”.
Nhưng càng rõ rệt hơn nữa là câu
liễn của vua Gia Long nơi Đền thờ Song Trung ở An Nhơn hiện giờ vẫn còn:
“Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ,
Trung thần bất nhị, nhị trung thần ”.
Khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, Ngài Ngô Tùng Châu được truy tặng là Tán
Trị Công Thần Đặc Tiến, Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Trụ Quốc Thái Sư, tước Châu
Quận Công, thuỵ là Trung Ý. Đến đời vua Minh Mạng 1831, gia phong Ngài là Tá
Vận Công Thần, Hiệp Tá Đại Học Sĩ, Thiếu Sư, Ninh Hoà Quận Công, đổi thuỵ là
Trung Mẫn.
Kính thưa quí vị,
Cái chết của Ngài Ngô là cái sống bất diệt của đạo nghĩa, nên anh linh của Ngài
còn hiển hách mãi về sau. Ngài đã hộ trì cho công cuộc phục hưng tôn giáo đạo
nghĩa trên mảnh đất nầy mà những sự kiện tâm linh nơi Đạo Cao Đài đã ghi rõ
rệt.
Nguyên từ năm 1939, một đàn cơ của Đạo Cao Đài tại Toà Thánh Châu Minh thuộc
Phái Đạo Tiên Thiên, Đức Thượng Đế Giáo Chủ Đạo Cao Đài đã sắc lệnh vị Thần Ngô
Tùng Châu hộ trì cho một đệ tử của Phái Đạo Tiên Thiên còn rất trẻ tuổi là Anh
Lớn Bảo Cơ Quân Huỳnh Thanh của Hội Thánh chúng tôi ngày nay, để đem mối Đạo về
truyền bá đầu tiên nơi địa hạt Phù Cát nầy. Tuy dưới thời kỳ đô hộ Pháp, đạo dụ
số 10 của vua Bảo Đại đã ban hành: “Cao Đài thư tịch bất đắc truyền bá
Trung Kỳ”. Nhưng với sự âm phò mặc trợ linh thiêng của Ngài nên tất
cả mọi khó khăn trong việc đi lại và truyền đạo của Anh Lớn Huỳnh Thanh đều qua
khỏi, nên chỉ trong vòng 2 năm là số người theo Đạo ở khắp các phủ huyện trong
tỉnh Bình Định đã lên đến mấy ngàn người, nhiều tư gia đã biến thành Thánh Thất
theo lối “cải gia vi tự”.
Bài cơ Ngài Ngô Tùng Châu về giáng đầu tiên , chúng tôi đã
liên lạc với gia đình và hiện còn nhớ rõ những lời Ngài dặn cho gia tộc và con
cháu trong đó. Khi giáng cơ, Ngài xưng là Việt Nam Đại Thần Ngô Tùng Châu, bài
thi như vầy:
Việt quốc
vong tràn trải mấy thu
Nam giang nước chảy biến giòng chu.
Đại đồng ngoảnh lạihồn trơ lảng
Thần tượng màng chi khách bạt chu.
Ngô rụng tuồng phơi buồn ứa luỵ
Tùng còi cành đượm ánh sương mù.
Châu đi châu lại như hồn mộng,
Giáng thế lời ta khuyến bạn tu.
Kính thưa quí vị,
Cao Đài giáo chúng tôi là một tổ chức cứu độ bằng mọi pháp môn phương tiện, để
thực hiện chủ trương dung hoà Kim Cổ Đông Tây, tâm vật bình hành, nhất là phục
hưng đạo đức cổ truyền của dân tộc, phát huy cổ xuý tinh thần ái quốc ái quần
trong mọi tầng lớp để đào tạo những con người mới, hầu góp phần xây dựng
nước Việt nam độc lập hùng cường trong thế giới thanh bình đạo đức. Trong lúc
hai làn sóng văn minh khoa học vật chất của Tây phương và đạo học tâm linh của
Đông phương đang ồ ạt tiến vào Việt Nam và nạn chiến tranh tàn khốc đã đưa dân
tộc chúng ta đến một khúc quanh lịch sử, không những quê hương bị điêu tàn, mà
tinh thần dân tộc gần như sụp đổ.
Cũng như các tôn giáo đoàn thể khác, đạo Cao Đài chúng tôi vẫn cố gắng đem hết
tâm lực để cùng nhau trước tiên xây dựng lại nếp sống tinh thần đạo nghĩa,
chồng hoà vợ thuận, con phải hiếu, cha phải từ, công dân phải trung thành với
Tổ Quốc. Rủi gặp cơn biến cố lâm nguy, con người biết hy sinh vì đạo nghĩa,
không đem lòng tham dục, không tham sống, không sợ chết, không phản bội quốc
gia dân tộc. Ong cha chúng ta đã để lại những di sản tinh thần quí giá, có lẽ
nào chúng ta không bảo vệ hay phát huy ngày thêm rạng rỡ, để làm nòng cốt cho
công cuộc phục hưng xứ sở, kiến thiết quê hương cho được? Vì vậy, bổn đạo Cao
Đài chúng tôi nơi đây hôm nay được cùng chư quí vị làm một việc có ý nghĩa
trong muôn ngàn công tác khác, để làm tròn sứ mạng cứu nước độ đời.
Cho dù, khách bàng quang có cho là dị đoan mê tín hay viện cớ nầy cớ nọ để
xuyên tạc một sự thật đã xảy ra đi nữa, thì những viên đá đầu tiên đã đặt nền
móng cho đền thờ Ngài hôm nay do những chứng nhân của sự kiện hiển hách thuộc
về Ngài và sự dự chứng của đông đủ quí vị quan khách cũng như đồng bào đồng đạo
tại địa phương nầy. Điều đó, chứng tỏ rằng công đức của Ngài đã rất được lâu
dài, cho dù từ ấy đến nay, trải 70 năm qua mà danh vẫn còn thế hệ sau ghi tạc.
Kính thưa quí vị,
Nhân đây, chúng tôi cũng xin được mạn phép dài dòng để sơ lược về duyên do mà
con cháu Zngài Ngô tại đây đã đến với Tỉnh Đạo Cao Đài chúng tôi cho quí vị
được tường lãm.
Trong lúc đầu giữ đạo và truyền đạo tại tỉnh nhà, hằng năm, trong dịp tân xuân,
chúng tôi đều có đến chiêm ngưỡng nơi Lăng Mộ Ngài nơi địa phương nầy, cũng như
Lăng Mộ Ngài Võ Tánh ở An Nhơn vậy!
Thế rồi, nếu chúng tôi nhớ không lầm thì trong số đạo hữu của chúng tôi, có một
vài người trong Ngô tộc được biết về sự linh thiêng hiển hách của Ngài qua các
đàn cơ dạy Đạo, nên đến bây giờ còn lại người cháu duy nhấtcủa đời thứ 7 là cụ
Ngô Tùng Du, người đã gần 80 tuổi, vì tuổi già sức yếu, nên không thể đảm đương
được chu toàn sự nghiệp của tiền nhân, trong lúc Lăng Miếu bị đổ nát. Vả lại,
nhìn chung trong họ cũng chẳng cònai có đủ khả năng, cụ Du bèn trực tiếp với
anh em Cao Đài ở địa phương qua môi giới của người được tin cậy là anh Nguyễn
Cấn, một Chức sắc của Tỉnh Đạo Cao Đài ở Chánh Danh để xin thương lượng cúng
hiến số ruộng tự điền ấy cho Tỉnh Đạo Cao Đài chúng tôi.
Trước tấm lòng thành kính tha thiết của cụ Du, qua một ý kiến thư đề ngày
01/01/1969 gởi cho Tỉnh Đạo Bình Định. Chúng tôi thiết nghĩ: với một vị anh
hùng tiết liệt của dân tộc, đồng thời là một vị Thần linh từng hộ trì cho công
cuộc truyền đạo ở địa phương nên chúng tôi không dám chối từ. Và sau khi hội
nghị chung Ban Tỉnh Đạo chúng tôi bèn chấp thuận nguyện vọng của cụ Du với
trách nhiệm: Xây dựng Lăng Miếu và lo hương hoả cho cố Anh hùng Ngô Tùng Châu
cùng cố Phu nhân vào ngày 25/5 và 24/6 Am lịch hằng năm, qua các văn kiện chính
thức của Hội Đồng Gia Tộc Họ Ngô lập ngày 02/6/1969 và án lệnh của Toà Sơ Thẩm
Bình Định tuyên ngày 11/ 7/ 1969 đã được trước bạ tại Đà Nẵng ngày 21/8/1969
cho Tỉnh Đạo Cao Đài Bình Định chúng tôi trọn quyền cải danh lập bộ với số
ruộng của Ngài Ngô Tùng Châu lưu hạ gồm có 8 mẫu toạ lạc tại xã Cát Tài và xã
Cát Minh, quận Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ngoài ra còn có trích 2 mẫu để bán lấy
tiền trước bạ ruộng kia, nếu không được miễn thuế và làm kinh phí cho công cuộc
xây cất Lăng Miếu mới nầy.
Thế là từ đây và mãi mãi về sau, cái di sản về sự nghiệp của cố Anh hùng Ngô
Tùng Châu, Tỉnh Đạo Cao Đài chúng tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về hương
hoả cũng như các ngày lễ kỷ niệm. Nhìn qua một số ruộng lưu hạ của Ngài chắc có
lẽ không khỏi có một vài ý niệm khách quan cho rằng chúng tôi nhận lấy sự
nghiệp của Ngài sẽ là nguồn lợi cho Tỉnh Đạo?
Thành thật mà nói, chúng tôi không dám nghĩ là được hay bị nhận cái sự nghiệp
to tát nầy, nhưng chúng tôi quả quyết rằng vì nghĩa vụ đối với một vị
công thần đã có công hộ trì cho cơ đạo nên chúng tôi phải có bổn phận kiến
thiết Lăng Miếu để phụng tự và mở mang những cơ sở xã hội từ thiện, như trường
học, thư viện, cô nhi viện, dưỡng lão đường… Trong phạm vi khả năng hoa lợi, để
Ngài được chứng kiến di sản của Ngài được sử dụng trong công cuộc xây dựng đạo
nghĩa chung cho con cháu Tiên Rồng. Nhờ vậy,an nhàn trên Thiên vị, Ngài sẽ nở
những nụ cười hoan hỉ. Chúng tôi xin hứa với Ngài, nhất quyết chúng tôi không
đem tài sản của Ngài vào bất cứ công việc gì không có tính cách lợi chúng ích
đạo.
Sự dự định của chúng tôi là thế, nhưng việc làm của chúng tôi trong bước
đầu bởi chưa được sự cảm thông chung nên còn gặp đôi khó khăn trắc trở. Lăng mộ
cũ của Ngài thì ở nơi mất an ninh, hơn nữa lạigần rừng núi, thiếu vẻ quang
chiêm, thành thử chúng tôi phải tìm nơi khác để có đủ cả hai phương tiện ấy.
Mặc dầu ông Xã Trưởng Cát Tài rất có nhiều thiện chí đối với vị Anh hùng dân
tộc nầy, nhưng chúng tôi phải vất vả nhiều trong việc tìm đất công để xây cất
không thành. Mãi đến ngày 25/4/1970 Tỉnh Đạo chúng tôi mới mua đựơc khoảnh đất
nầy của ông Cố ông Ao mà đến hôm nay mới cử hành đặt đá được, không kịp sự dự
định ban đầu của chúng tôi là sẽ khánh thành trong ngày lễ kỷ niệm nầy.
Đó là tất cả nguyên nhân thực hiện công tác xây cất của Tỉnh Đạo Cao Đài Bình
Định chúng tôi vậy!
Kính thưa quí vị,
Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, chúng tôi xin trích đọc một đàn cơ của
Ngài Ngô Tùng Châu mới giáng dạy tại Thánh Thất Kim Quang Minh Đài vào tối hôm
qua:
Tiếp
điển-Thi:
Việt bang nào
phải có ba kỳ
Nam Bắc Trung phần do Pháp ly.
Công nghĩa hy sinh vì Tổ Quốc
Thần trung tuẫn tiết lúc lâm nguy.
Ngô thân bất độ hà thân độ
Tùng đạo tùng thiên chánh pháp qui.
Châu thỉ phục hoàn đời mạt kiếp
Giáng phân lý sự rõ tường tri.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Giờ nầy Lão vâng lệnh Thiên sắc giáng đàn để đôi lời đàm đạo cùng chư Thiên
Mạng trong việc hành đạo, sau cũng để đôi lời với các cháu.
Những dĩ vãng chứng minh huyền linh của Đạo Trời vì thế, từ ngày Khai Đạo, các
bậc công thần văn võ các triều vua cùng qui phục dưới chân Thầy, để lo bồi công
lập đức, lãnh Thánh sắc giúp phần hữu hình trên đường hành đạo.
Vì vậy, ý Lão không muốn cho thân tộc của Lão hưởng phần tế tự vì câu:
– Lưu hữu dư bất tận chi công, dĩ hoàn tạo hoá.
– Lưu hữu dư bất tận chi lộc, dĩ hoàn triều đình.
– Lưu hữu dư bất tận chi tài, dĩ hoàn bá tánh.
– Lưu hữu dư bất tận chi phúc, dĩ hoàn tử tôn.
Vì ý nghĩa của 4 câu lưu ấy mà ý Lão không muốn cho một cháu nào hưởng phần vật
chất của triều đình ban cấp tế tự Lăng Miếu của Lão.
Bởi câu: “Thế sự vạn bang đô thị giả,
Nhơn gian đạo đức quả vi chơn”.
Lão muốn để phúc đức cho con cháu mà thôi! Vậy cháu Ngô Tùng Du là phần hiện
tại trong trưởng tộc, cháu nghe lời Lão Tổ nhắn với các cháu nam, nữ, lão, ấu,
rán hồi đầu hướng thiện qui vào Đại Đạo để được Đại Ân Xá Kỳ Ba. Các cháu nên
tin rằng: Phần Thiêng Liêng các Đấng Vô Hình còn phải tu công lập đức, để được
tiến bộ trên đường đạo đức tăng phẩm vị Thiêng Liêng thay, huống chi các cháu
hiện mang phàm thể xác, một kiếp đời sống có là bao! Danh lợi mà chi? Tiền của
mà chi? Chết chỉ nắm hai bàn tay trắng. Chỉ có đem theo tội hay phước mà
thôi! Nay ông cũng được tăng phần phẩm vị, nhưng
ngày kia sẽ rõ. Hiện giờ các cháu cũng chẳng cần biết mà
chi. Chỉ gắng lo kêu gọi nhau, nhắc nhở nhau trên đường tu học lập công thì Tổ
được vui lòng lắm vậy !
Thi: Ngô Tùng Du cháu rán tin ông
Lời dạy đơn sơ gắng nhớ lòng
Lập chí lập tâm chơn chánh nghĩa
Theo Thầy lập Đạo hưởng ân hồng.
Sau đây Lãocũng để lời tri ân t6ám lòng nhiệt thành tâm đạo của Chư Thiên sắc
đã hết tâm thành lo việc kiến thiết Lăng Miếu của Lão. Điều nầy Lão ghi ân.
Song Lão để đôi lời hãy tuỳ tiện mà tạo tác, không nên làm quá sức bởi sự hữu
hình hữu hoại Lão không thích. Mong sao chư Thiên sắc tạo Lăng Miếu rồi thì tuỳ
phương tiện tạo cơ sở từ thiện, lợi ích chung cho Đạo, cho nhơn sanh là Lão
đồng ý tán thành và chúc tụng. Chớ tạo đồ sộ mà làm chi, “cung kỉnh bất như
phụng mạng”.
Lão cũng để lời cầu chúc các vị quan khách ngày trí thạch sắp đến được thành
công, có Lão chứng minh. Nhưng Lão mong sao mỗi mỗi rán lập công, trung cang
nghĩa khí chánh chơn phụng sự cho dân cho nước, hầu đem lại cảnh trật tự thái
hoà cho dân tộc, cho nhân quần. Đó là mỹ ý của Lão hằng mong muốn.
Lão chẳng muốn có sự nguy nga, vì phần tư lợi tư kỷ thì không bao giờ được như
ý. Bởi Đạo là lẽ chung. Phải làm lợi ích chung. Vì tư riêng mới sinh ra lòng
gian trá, đua tranh nghịch lẫn nhau. Ý Lão chỉ mong muốn có bấy nhiêu thôi!
Trong hàng Thiên sắc cứ y đồ án, mà y theo ngày đã định khởi công. Phần hữu
hình có chư hiền, phần vô vi có Lão hỗ trợ trong ngoài các Thánh Đường thuộc
Tỉnh nhà nầy đây vậy !
Thi: Lời thật nói ra đáng nhớ ghi
Đừng mong lời dạy qúa cao kỳ
Thiên cơ đã rõ từ xưa dạy
Nay rán hành y rán kịp kỳ.
x
Bài: Được hân hạnh làm dân đất Việt,
Giống Tiên Rồng rõ biết việc xưa
Tinh thần truyền thống có thừa
Anh hùng bất khuất hơn thua chẳng màng.
Quyết bảo vệ giang san một dãy
Nước Việt Nam hiện tại còn đây
Được hàng Thánh sự hiệp vầy
Công trình hiển hách đến ngày tương lai.
Nay được Đức Cao Đài Thượng Đế
Nơi Thánh địa chẳng trễ thời kỳ
Cứu đời trong lúc loạn ly
Phải tường Đạo pháp của Thầy mới an.
Đất linh kiệt vẻ vang tốt đẹp
Sanh anh tài liên tiếp xưa nay
Để lo bảo vệ giống nòi
Non sông gấm vóc đến ngày bình thanh.
Phần vô vi điển lành hộ trợ
Chư Thiêng Liêng giúp đỡ mọi Hiền
Hữu hình Thiên sắc cần nên
Lo toan mọi việc vững bền thành công.
Bởi thời kỳ Hoa Long đại hội
Cơ tuyển chọn gạo cội trên sàng
Phân phàm chọn Thánh rõ ràng
Ai người trung liệt trung cang danh đề.
Giòng lịch sử lời phê linh diệu
Trên bốn ngàn năm
chịu thăng trầm.
Ngày nay còn phải gia tăng
Nhiều điều khổ khó mới rằng đáng trang.
Công oanh liệt chiến tràng đắc thắng
Được vẻ vang mới đặng lộc trời
Lộc trời ban thưởng cho người
Nhờ người vẹn giữ rạng ngời nhứt tâm.
Chữ nhứt tâm cao thâm huyền bí
Bực anh hùng Chí Sĩ Đạo Trời
Nếu ai đắc nhứt nên người
Nếu tu đắc nhứt về Trời khó chi.
Chư Thiên sắc trí tri cách vật
Đã tâm thành ý thật từ lâu
Tu thân đã được trọn câu
Tề gia hành đạo, ngỏ hầu hưởng chung.
Sư trị quốc tương phùng nhờ đó
Chữ nhứt tâm gắn bó Đạo Trời
Mới bình thiên hạ kịp thời
Thượng nguơn Thánh đức nơi nơi thanh bình.
Lời Lão Tổ đinh ninh ghi nhớ
Trong họ Ngô khá sợ khá tu
Chớ nên lơ lảng phận tu
Lập tâm chánh nghĩa thiên thu sử đề.
Lão hứa lời lệnh phê đã dạy
Hộ điển lành cả thảy tỉnh nhà
Ai người hành đạo gần xa
Dù gặp khổ khó tưởng mà Lão đây.
Lão sẽ đến cứu nguy mọi việc
Vì sứ mệnh chí quyết độ đời.
Độ đời thoát khỏi nạn tai
Non sông Tổ Quốc mới rày bình an.
Lão giã từ ân ban nam nữ
Cùng tinh tấn trọn chữ nhứt tân
Ngày đêm tưởng niệm tu thân
Cho cơ đạo được hoá hoằng khắp nơi.
Lão xin giã từ – Thăng.
Xin trân trọng cám ơn và kính chào toàn thể đồng bào đồng
đạo.
Đặng Ngọc Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét