Hiển thị các bài đăng có nhãn TAM GIÁO-NGŨ CHI. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TAM GIÁO-NGŨ CHI. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Hai, 8 tháng 11, 2021
SỰ TÍCH ĐỨC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
Đức Đại Thế Chí khi chưa xuất gia học đạo, thì Ngài chính là con thứ hai của vua Vô Tránh Niệm tên là Ni Ma Thái Tử.
Ngài vâng lời phụ vương khuyên bảo, phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và đại chúng trọn trong ba tháng.
Chủ Nhật, 19 tháng 9, 2021
SỰ TÍCH THẬP BÁT LA HÁN
Lời Nói Đầu
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đờicủa các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2021
Thứ Hai, 24 tháng 5, 2021
KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN
Thích Nữ Giác Liên
2635: Phật lịch 2555; dương lịch: 2011
Đã bao lần tôi về Ấn Độ và Nepal để dự lễ Phật đản. Năm nay Thánh địa Lumbini (Lâm-Tỳ-Ni) tu
sửa thêm nên thoáng mát, rộng rãi. Buổi lễ diễn ra rất long trọng, hoành tráng, có cả Tổng thống tham dự. Dân chúng kéo đến rất đông, mừng ngày Đấng cứu thế ra đời...!
Tôi có cảm giác vô cùng xúc động khi nhìn trụ đá cảm niệm Đức Phật giáng sinh. Năm 250 trước Tây lịch, Hoàng đế A-dục đã dựng trụ đá ghi rõ: Đây là nơi sinh Đức Phật Thích Ca. Nhà sử học Tây phương nói: Trụ đá này là bản khai sinh của Phật. Còn Hòa thượng Huyền Diệu cho rằng: “Trụ đá là nhân chứng biết nói - vì còn 5 dòng chữ đã khắc trên bia đá”.
Khoảng 8 giờ sáng, nghi lễ bắt đầu, các tôn giáo bạn trú xứ tại Lumbini, Tăng đoàn các nước (Nhật, Trung Quốc, Thái Lan, Sir Lanka, Đài Loan, Pháp, Đức, Áo, Nepal, Ấn Độ giáo, Miến Điện, Nepal, Việt Nam, Campuchia...) đều có mặt. Chư Tăng Ni theo nghi thức riêng của mỗi nước đều tụng kinh. Hòa thượng Huyền Diệu cùng Tăng Ni và Phật tử Việt Nam dâng hương lễ Phật. Nơi thánh địa âm vang lời cầu kinh, hòa lẫn những tiếng trống, chuông, mõ... âm vang hùng hồn, thanh âm êm dịu như ru hồn khách mộng trở về cõi tịnh, phủi sạch nợ trần ai!
Tôi nhìn trụ đá cảm nhớ ơn Đấng Từ phụ muôn đời của nhân loại: Thái tử Sĩ Đạt Ta, dòng Thích Ca oai hùng, quên đời vương giả, bỏ chốn thâm cung, gót son phong trần! 6 năm khổ hạnh rừng sâu! 49 ngày chứng quả tại cội Bồ đề. Đức Phật là người bằng xương, bằng thịt, như người bình thường... mà quá phi thường.
Cuộc đời của Đức Phật từ khi sinh ra cho đến khi đắc đạo, hành đạo và Niết Bàn... đều ở gốc cây. Ngài sinh tại Lumbini dưới tàn cây Hoa Vô ưu. Ngài thành đạo dưới cội Bồ đề. Khi Phật dạy đạo cho đồ chúng cũng ngồi dưới bóng cây và khi nhập Niết Bàn, hơi thở cuối cùng, Ngài vẫn nằm giữa hai tàn cây Sala song thọ. Sự giáng trần của Ngài hình như có sự sắp đặt thiêng liêng, khoa học khó giải thích được. Chỉ có những tâm linh hòa với tâm linh mới đạt được tâm cảnh này!
Lịch sử ghi rõ, lúc Thái tử Sĩ Đạt Ta rời hoàng cung, trốn ra khỏi thành Ca Tỳ La Vệ cũng vào lúc Công chúa Da Du Đà La sinh Thái tử La Hầu La, nhân dịp đó Ngài bỏ trốn. Nhưng trước khi đi, Ngài muốn nhìn mặt con trẻ lần cuối. Ngài vào phòng thấy Công chúa đang ngủ say, ôm lấy đầu con thơ với tư thế che chở.
Ngài không nhìn mặt con được và Ngài đi đến chuồng ngựa gọi Xa Nặc, Xa Nặc nghe tin Ngài định trốn đi, thưa rằng:
Hỏi: Trời đất nhân gian, mờ mịt quá,
Giờ đây Thái tử định đi đâu?
Đáp: Chính đời mù mịt nên ta phải
Đi để tìm ra ánh đạo mầu.
Hỏi: Ngày mai bao kẻ sầu tang tóc
Ly biệt thưa Ngài lắm khổ đau?
Đáp: Ta sẽ trở về khi thấy đạo
Giải thoát nhân gian vạn khổ sầu.
Và Ngài tiếp: Rộn rã chim muông ríu rít ca
Dường như chào đón Sĩ Đạt Ta
Xa xa lấp lánh dòng sông bạc
Xa Nặc về đi cứ mặc ta.
Và Ngài đến dòng sông Anoma cắt tóc trao đồ cho Xa Nặc. Ôi! Cao cả thay Đức Phật của chúng ta. Cương vị hoàng gia sống trong cung hoàng điện ngọc, vợ đẹp, con xinh, ngôi báu sẵn dành... thế mà ra đi tìm giải thoát, dầm mưa dãi nắng, kham nhẫn mọi cảnh ngộ, mục đích cung hiến trí tuệ cho chúng sanh. Ai đã làm được công hạnh vĩ đại này? Chỉ có đấng từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Khi Phật chứng quả, nói cùng chúng tăng: “Lúc ta còn trẻ là trang nam tử, ta cắt tóc đen, cha mẹ ta phản đối khóc đầy nước mắt, ta cũng nhất quyết xuất gia. Vì ta nhịn ăn quá lâu nên thân thể gầy yếu, ta không còn sức chịu đựng, tay chân ta như lóng tre, xương sống, xương sườn lồi ra cũng như cột của căn nhà đổ nát, đồng tử của ta nằm sâu như cái hố, thăm thẳm lung linh như độ giếng nước sâu. Da đầu ta khô héo, nhăn nheo như trái mướp đắng. Ta sờ vào da bụng và xương sống ta, hai thứ gần như dính lại.”
Nghe lời than của Phật, dù rằng trên trang sử nhưng cũng xót xa tận đáy lòng...! Tôi nước mắt long tròng! Đức Phật hành đạo quá khổ hạnh, mỗi ngày chỉ dùng vài hạt mè nuôi thân. Nhờ bát sữa của nàng Su Già Ta, Ngài có chút năng lực, tìm đến cội Bồ đề tọa thiền! 6 năm khổ hạnh, 49 ngày hành thiền. Tâm như bất động. Trong 49 ngày, Ngài ngồi thiền dưới 7 gốc cây.
Tuần thứ nhất Ngài ngồi tại cội Bồ đề. Tuần thứ 2, Ngài ngồi gần xéo cổng chính, nay làm tháp Animesh Locahn Chaitya. Tuần thứ ba, Ngài ngồi gần cội Bồ đề, có trụ đá và những đóa sen. Lúc ấy, Chư thiên nghi ngờ sự chứng quả của Phật, nên Ngài hiện thần thông, tạo thành ánh sáng rực rỡ và từ đó mọc lên 7 đóa sen. Phật đi kinh hành trên những đóa sen ấy. Tuần thứ tư, Phật an trú dưới gốc cây, nay làm đền thờ Rajagriha. Lúc đó Phật phóng hào quang ngũ sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, cam. Tuần thứ năm, nơi cổng chính bước xuống cầu thang có trụ đá đánh dấu: Đây là nơi phía Đông Phật thiền định dưới cội cây Bồ đề. Tuần thứ sáu phía Nam Đại tháp, có hồ nước lớn. Lúc ấy Phật tọa thiền trong đêm mưa bão sấm sét, mãng xà vương Mucalinda (Thần Rắn Naga) 7 đầu xuất hiện bảo vệ che mưa cho Phật và tuần thứ bảy Phật hành thiền phía Đông Nam, gần cội Bồ đề không xa, Ngài an trú cội cây Rajayatana và Phật được hai thương buôn người Miến Điện tên là Tapussa (Ba Lợi) và Bhallika (Đề Vị), đến từ Ukkhala cúng dường cháo mạch và bánh mật ong. Đức Phật dùng thực phẩm xong, nhổ tóc tặng hai vị thương buôn ấy, và hai vị xin làm đệ tử Phật. Đó là hai vị đệ tử cư sĩ quy y đầu tiên và khi hai thương nhân về nước, xây tháp bằng vàng thờ tóc Phật. Hiện giờ còn ở Miến Điện gọi là chùa Tháp Vàng.
Đức Phật chứng quả thấy rõ chúng sanh trong sáu đường, quay cuồng trong kiếp luân hồi, bánh xe luân hồi chẳng buông tha ai cả! Nỗi khổ của chúng sanh bị kéo dài vô cùng tận. Đức Phật đã thoát ra, Ngài nói: “Trong dòng sống chết vô tận ta chạy mãi không nghỉ ngơi, từ bào thai này đến bào thai khác đuổi theo người chủ ngôi nhà. Ta phát giác người rồi mái sườn đều sụp đổ. Tâm lìa tạo tác tất cả diệt trừ xong”.
Đức Phật để lại cho chúng ta kho tàng vô giá: Di sản là trí tuệ, Hạnh độ tha, gương nhẫn nhục. Ngài đã hươi gươm huệ, đoạn lìa dây ái...! Cắt đứt lưới tình, chứng quả vô sanh, thế mà còn bị oan gia trái chủ Đề Bà Đạt Đa vô tâm sát hại...! Lúc Phật tọa thiền tại núi Linh Thứu cùng Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, A Nan... Đề Bà Đạt Đa cho hai binh sĩ ám sát Phật. Lệnh truyền: Hai tên lính ấy giết Phật xong phải xuống đường cũ! Hai người lính ấy mang gươm lên núi, khi đến gần Phật, họ hôn mê bất tỉnh hồi lâu, khi tỉnh lại, sám hối Phật và trình bày kế hoạch của Đề Bà Đạt Đa.
Đức Phật an ủi hai người ấy và Phật chỉ đường tắt cho họ xuống núi. Phật khuyên hai binh sĩ đừng theo nghề cũ nữa... Riêng Đề Bà Đạt Đa dù sắp đặt kế hoạch rất chu đáo nhưng cũng bị thất bại. Ông sai binh sĩ khi lên núi giết Phật xong, phải xuống đường cũ và đã có bốn binh sĩ khác chờ giết hai tên lính kia; và bốn người sát nhân cũng phải xuống đường cũ, sẽ bị tám sát nhân khác giết bốn người đó, và tám sát nhân xuống tới chân núi cũng bị 16 người phục kích thanh toán! Âm mưu rùng rợn bị hỏng, hai binh sĩ trước trốn mất, nhờ thế mà những tên sát nhân sau bỏ trốn luôn!
Khi Phật sắp nhập Niết Bàn liền gọi Ngài A Nan đến dặn: “Ta đã già, 80 tuổi, đến hạn kỳ cuối, đời người như cỗ xe cũ chạy nhờ những sợi dây chằng chịt nâng đỡ. Sau khi ta nhập Niết Bàn, các ông hãy lấy chánh pháp làm nơi an trú. Không nên tìm nơi an trú khác.” Lời dạy của Đấng Thế tôn là lời châu ngọc, là ánh đuốc soi đường, cảm ứng hàng trăm triệu người trên thế giới. Giáo pháp của Phật dạy: Duyên sanh, từ bi, trí tuệ, bình đẳng, giải thoát và giác ngộ!
Trong phiên họp ngày 15 tháng 2 năm l999, Hội đồng Liên hiệp quốc đã ý thức ký kết công văn số (A|54| L-59) quyết định hàng năm tổ chức ngày lễ Vesak, vào tháng 5 dương lịch, là ngày trăng tròn để kỷ niệm tưởng nhớ ngày sinh, ngày thành đạo và ngày nhập diệt của Đấng cứu thế muôn đời của nhân loại.
Bạch Đức Thế tôn, giáo lý của Ngài như mặt trời rực chiếu, xoay vòng không bao giờ tắt...! Như ánh trăng thượng tuần, như Thái Sơn hùng vĩ... Ngài đã nhập Niết Bàn trên 2000 năm. Những lời Di giáo của Ngài như những dòng suối thiên nhiên cuồn cuộn chảy mãi, không cần số đếm và cũng không có chỗ gọi là tận cùng.
Hôm nay kỷ niệm đản sinh, nơi Phật giáng trần, chúng con cảm nhận công ơn Phật bằng tất cả trái tim… Ngài là vị Đạo sư cao cả, vĩ đại tuyệt vời... Ngài đã dũng mãnh bỏ lại những gì lạc thú trần gian... Oai hùng, kham nhẫn, vui chịu mọi cảnh ngộ... Ngài đã thực hành bản thân mình: Tìm đạo, Chứng đạo và Dạy đạo! Hôm nay Tăng Ni chúng con cùng Phật tử nguyện noi dấu bước chân Ngài. Sống trong chánh pháp của Ngài…!
Bạch Đức Thế Tôn, dù chúng con sinh ra khi Phật đã nhập Niết Bàn, chúng con chưa một lần đối diện với Đấng Từ phụ cao cả! Tuy thế, giáo lý Phật là thuyền bè, đưa chúng con vào thế giới vô cùng tận... Chúng con xin nguyện thể nhập vào Từ bi tâm của chư Phật...!
Nepal, ngày 16 tháng 5 năm 2011
Năm Tân Mão
Thứ Hai, 17 tháng 5, 2021
Ngũ Chi Đại Đạo Và Những Vấn Đề Liên Hệ Với Đạo Cao Đài
HUỆ NHẪN
Nói đến Ngũ Chi Đại Đạo chúng ta có thể liên tưởng đến Ngũ Chi gồm: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo. Theo giáo lý Cao Đài giáo, đây là các phẩm bậc mà người tu theo đó thăng tiến dần lên. Đề tài này xin được trình bày trong một dịp khác.
Ngũ Chi Đại Đạo cũng có nghĩa là năm chi đạo cùng họ Minh
Ngũ Chi Đại Đạo cũng có nghĩa là năm chi đạo cùng họ Minh gồm: Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý, Minh Thiện và Minh Tân. Năm chi đạo kể trên đều thờ Tam Giáo, xuất hiện trước Đạo Cao Đài một ít lâu và đều có mối liên hệ mật thiết với Đạo Thầy. Có thể nói các chi đạo họ Minh này được Ơn Trên cho xuất hiện trước, hầu tạo mặt bằng, chuẩn bị điều kiện hổ trợ tốt nhất; đến khi Đạo Cao Đài gieo xuống, nhờ đó, sẽ trưởng thành vững chắc trong điều kiện khó khăn của xã hội miền Nam Việt vào những thập niên đầu thế kỷ 20.
Sau đây chúng tôi xin lần lượt trình bày về sự xuất hiện của từng chi đạo, nói qua phép tu hành thờ phượng và mối liên hệ của mỗi chi ấy với Đạo Cao Đài.
Đọc tiếp : http://nhipcaugiaoly.googlepages.com/nguchi
CHI MINH SƯ:
Nhiều tác giả đã viết rằng Minh Sư xuất hiện tại Trung Quốc vào đầu nhà Thanh (khoảng 1620 đến 1670). Lúc ấy, các quan Võ cựu thần nhà Minh lập Thiên Địa Hội, các quan Văn lập Minh Sư, với cùng mục đích “Phản Thanh phục Minh”.
Thật ra, Đạo Minh Sư đã có từ xa xưa. Vị Tổ sư đầu tiên của Minh Sư là Đức Bồ Đề Đạt Ma (Ngài là tổ thứ 28 Thiền tông Ấn Độ, truyền Thiền tông qua Trung Quốc năm 520 và trở thành Nhứt Tổ Thiền tông Trung Quốc). Lại nữa, do nhận mình là một tông phái Phật giáo nguyên thủy nên Minh Sư lấy gốc từ Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, và chọn triều đại Vua Hoàng Đế (2697 – 2597 TTL) – thời Đức Nhiên Đăng tá thế độ đời vào Nhứt kỳ Phổ Độ – làm niên biểu. Do vậy, trong sớ văn Minh Sư hiện nay (năm 2006) ghi năm đạo thứ 4704 (năm 2002, Đạo Minh Sư kỷ niệm năm Đạo thứ 4700, nhưng tại Việt Nam không thấy tổ chức).
Theo bản “Tóm yếu lịch sử Phật Đường Nam Tông” thì, thuở Đức Phật Nhiên Đăng khai đạo là “Sơ Hội Long Hoa”, tiếp đến, mối Đạo được Phật Thích Ca làm chưởng giáo thời thứ “Nhì Hội Long Hoa”. Từ đây, Thiền tông Ấn Độ bắt đầu với Đức Ca Diếp làm Nhứt Tổ, Đức A Nan Nhị Tổ, đến Tổ 28 là Đức Bồ Đề Đạt Ma.
Ngày 21-9-520, ngài Bồ Đề Đạt Ma theo đường biển đến Quảng Đông (Trung Quốc). Truyền đạo nhiều nơi, cuối cùng ngài đến Thiếu Lâm Tự (Lạc Dương) tham thiền cửu niên diện bích và thị tịch năm 536. Các vị tổ Thiền tông kế tiếp như chúng ta đã biết:
Nhị Tổ Huệ Khả (486 – 593)
Tam Tổ Tăng Xáng ( ? - 606)
Tứ Tổ Đạo Tín (580 – 651)
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (601 – 674)
Lục Tổ Huệ Năng (638 – 713)
Từ khi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền tổ bàn cho Lục Tổ Huệ Năng, Phật giáo Thiên tông chia làm 2 phái:
o Về phía Bắc, Ngài Thần Tú truyền giáo pháp “Thật tu tiệm ngộ” ở các tỉnh : Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Bắc…, sang đến Cao Ly, Nhựt Bổn… Gọi là Bắc Tông.
o Về phía Nam, ngài Huệ Năng truyền giáo pháp “Đốn ngộ diệu tu” vùng : Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây, Vân Nam … Gọi là Nam Tông.
Đến năm 713, trước khi viên tịch, Lục Tổ có di ngôn “từ Ta liễu về sau, Phật pháp truyền thừa bị đình đốn 70 năm. Sau sẽ có 2 vị Bồ Tát, một vị xuất gia, một vị cư sĩ đồng khai mở Đại Đạo”. Như vậy, Lục Tổ không trực tiếp truyền tổ bàn.
Đúng như di ngôn Đức Lục Tổ, qua 70 năm bị đình đốn, đến năm 784, ngài Mã Công Đạo Nhứt người gốc Giang Tây học đạo với ngài Nam Nhạc, thấu triệt pháp môn thiền quán. Đồng thời ngài Nam Nhạc cùng có một đệ tử khác là vị Bạch Ngọc Cư Sĩ, Phật pháp uyên thâm. Nhị vị Mã Công và Bạch Ngọc cùng song thừa Thất Tổ, khai triển Thiền môn. Thời này khắp Trung Quốc có trên 800 Thiền viện.
Ngài Mã Công thị tịch trước. Đến khi ngài Bạch Ngọc sắp thị tịch có phó chúc truyền tổ bàn Bát Tổ lại cho ngài La Công Húy kế thừa.
Năm 955, nhằm đời vua Hiển Đức nhà Hậu Châu, xảy ra pháp nạn. Vua hạ lệnh phá hủy nhiều chùa chiền am viện, cả nước Trung Hoa có đến 3356 ngôi bị hại. Nhiều nhà sư phải sang lánh nạn nước ta (triều Ngô Xương Văn thứ 5).
Ngài Bát Tổ La Công Húy viên tịch trong nhà lao năm 956, cũng từ đó Phật Đường Nam Tông bị đình đốn đến 700 năm.
Gần cuối triều Minh, tại tỉnh Giang Tây nơi núi Lư Sơn có ngài Huỳnh Công Đức Huy lòng hằng mộ đạo. Ngài được một vị dị nhân mật truyền tâm ấn kế thừa tổ mạng thứ 9 (năm 1623). Từ đây phái Phật Đường Nam Tông phát triển trở lại. Lúc sắp quy liễu, ngài Huỳnh Công Đức Huy phó chúc tổ bàn lại cho ngài Ngô Công Tinh Lâm kế thừa tổ mạng thứ 10. Tiếp đến, ngài Ngô Công Tinh Lâm mật truyền lại cho ngài Hà Lão Huệ Minh tiếp nối tổ mạng thứ 11.
Dòng đạo tiếp nối, ngài Hà Lão Huệ Minh chọn ngài Viên Lão Thối An – là người thông minh, học rộng, lại ham thích thanh tịnh – làm tổ thứ 12. Qua đến đời tổ thứ 13, Phật Đường Nam Tông một lần nữa có 2 vị đồng chấp chưởng Tổ Bàn (song thừa) đó là nhị vị: Ngài Vương Công Huờn Hư và ngài Từ Huờn Vô. Tổ mạng thứ 14 là Y Đạo Tổ Sư. Ngài có lời mật phó cho tổ 15 là ngài Đông Sơ Tổ Sư truyền pháp đạo xuống miền Nam. Trước hết mở đạo tại Thái Lan, sau qua Việt Nam, nhằm đời Vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Theo chư vị trưởng lão Minh Sư cho biết: Mối đạo Nam Tông được dân gian gọi là Đạo Minh Sư vào thời điểm Lục tổ Huệ Năng và vị Thần Tú có sự tách biệt trong việc truyền giáo pháp Nam Tông với Bắc Tông, như nêu trên. Gọi đúng phải là phái Phật Đường Nam Tông.
Đến đây xin kể qua về mối Đạo Minh Sư ở Việt Nam.
Ngài Đông Sơ Tổ Sư lập tại Hà Tiên ngôi Quảng Tế Phật Đường. Ngôi chùa này do ông Ngô Cẩm Tuyền đứng ra xây dựng. Ông tu hành tiến lên bậc Đại Lão Sư (Ngô Đạo Chương). Năm 1905, ngài Ngô Đạo Chương về Sài Gòn tạo dựng ngôi Ngọc Hoàng Điện (Đa Kao), công việc chưa hoàn tất nhưng rồi vì lý do kinh tế phải sang nhượng đi. Một vài năm sau, bổn đạo Minh Sư tại đây lập ngôi Quang Nam Phật Đường. Ngài Thái Lão Sư Trần Đạo Minh qua Việt Nam cầm mối đạo một thời gian, sau đó trở về La Phù Sơn (Hong Kong). Thái Lão Sư Vương Đạo Thâm thay mặt ngài Trần Tây Lâm Tổ Sư điều hành mối đạo tại đây. Quang Nam Phật Đường (số 17 đường Trần Quang Khải, Quận 1) hằng năm vẫn lấy ngày giỗ Thái Lão Vương Đạo Thâm (30-4-ÂL) làm ngày kỷ niệm. Ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại 3 chi nhánh đạo Minh Sư, tạm gọi là 3 tông:
- Tông Đức Tế
: Nhánh của Đức Thái Lão Vương Đạo Thâm, có một số chùa như: Quang Nam Đường, Khánh Nam Đường (Bình Thạnh), Nam Nhã Đường (Bình Thủy – Cần Thơ); Mỹ Nam Đường (Mỹ Tho); Vận Bửu Đường (Gò Công); Nam Tôn Đường (Hội An); Hòa Nam Đường (Đà Nẵng)…
- Tông Phổ Tế
: Nhánh của Thái Lão Sư Trần Đạo Quang, có một số chùa như: Linh Quang Đường (Hóc Môn); Long Hoa Đường (Cai Lậy); Phổ Hòa Đường (Mỹ Tho)…
Linh Quang Phật Đường
(Hóc Môn)
Quan Âm Đường - làng Thâm Nhiên, tỉnh Long An
- Tông Hoằng Tế
: Nhánh của Thái Lão Sư Lâm Đạo Nguơn (thường được biết với bút danh Lâm Xương Quang). Một số chùa như Quan Âm Đường (Thâm Nhiên Long An) Quang Âm Đường (T.X Tân An); Trọng Văn Đường (Bình Điền)…
Toàn Việt Nam hiện có trên 50 ngôi chùa Minh Sư. Ngôi chùa được kể đầu tiên của mỗi tông (bên trên) là tổ đình của Tông ấy.
Chánh điện chùa Minh Sư thờ Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và chư Phật chư Tiên Tam giáo (hoặc thờ tượng, hoặc thờ bài vị tùy nghi), tụng Ngọc Hoàng Tâm Ấn, Bắc Đẩu Chơn Kinh, Địa Mẫu Chơn Kinh…
Pháp tu Minh Sư rất nghiêm mật, muốn tu tiến hành giả phải khép mình trường trai tuyệt dục. Bên phái nam có 9 bậc tu, từ thấp lên:
o Nhất thừa
, gồm Nhất – Nhị và Tam Bộ.
o Nhị thừa
, gồm bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân (chữ Minh lót giữa đạo danh); Dẫn Ân (chữ Xương); Bảo Ân (chữ Vĩnh).
o Tam Thừa
có 2 phẩm: Lão Sư (chữ Vận) và Đại Lão Sư (chữ Đạo).
Tất cả các vị Lão Sư và Đại Lão đồng công cử một vị làm chưởng môn gọi là Thái Lão Sư.
Bên nữ phái có 7 bậc, đạo danh được ban từ đầu không đổi. Phẩm cao nhất cũng có chữ Thái, nhưng pháp tu chỉ cỡ bậc Bảo Ân ở phái Nam.
Đệ tử Minh Sư mặc đạo phục màu đen.
Ghi chú:
o Quan Âm Đường ở Phú Quốc xưa, nơi Đức Ngô Văn Chiêu thọ giáo pháp Cao Đài có lẽ thuộc tông Hoằng Tế. Đại Lão Sư Nguyễn Đạo Ngưỡng (ông sinh năm 1915) hiện trụ trì Quan Âm Đường (Tân An) cho biết khi ông còn nhỏ, có lần đã ra Phú Quốc hộ tịnh cho Thái Lão Sư Lâm Đạo Nguơn (Lâm Xương Quang).
# Một số bài kinh nhật tụng của chi Minh Lý và của Cao Đài Giáo, có gốc từ kinh Minh Sư ( xin xem thêm về chi Minh Lý nơi trang 15)
CHI MINH ĐƯỜNG:
Nhiều sách cho biết tên Minh Đường là do viết gọn từ “Minh Sư Phổ Tế Phật Đường”, nhưng chưa rõ mức chính xác của các tài liệu này; chỉ biết rằng tôn chỉ, pháp tu, kinh kệ, phẩm trật của Minh Đường đều tương tự Minh Sư. Có thể nói Minh Đường là một phân nhánh của Minh Sư. Tuy vậy, các vị tu Minh Sư hiện nay hầu như không rõ sự tích và cũng không nghe nói nhiều đến chi Minh Đường.
Vĩnh Nguyên Tự (trước khi tái thiết)
Danh hiệu Minh Đường được tìm thấy trong Thánh ngôn và sử liệu do chư Tiền khai Cao Đài để lại, dùng chỉ bổn đạo Vĩnh Nguyên Tự thuở mới quy nhập Cao Đài (1926).
Một số Thánh ngôn và sử liệu điển hình như:
# Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển – Bản in 1965 -Quyển 1 – Trang 29 có đoạn :
“Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc) Samedi, 21 Aout 1926:
# Lịch, mời chư môn đệ Minh Đường của Thầy ra nghe dạy…”
(Lịch là ngài Lê Văn Lịch – Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt – chủ chùa Vĩnh Nguyên)
# Trong quyển Thánh ngôn " Niên sổ thời thiết lục" (viết tay) do ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh lưu lại có đoạn Thánh giáo ngày 16-3-1926:
“Trung, Cư, Tắc. Thầy dặn 3 con nội hạ tuần tháng 2 phải xin nghỉ một tuần lễ xuống ở tại chùa Minh Đường của Lịch mà học đạo thêm…”
# Cũng trong quyển Thánh Ngôn trên, ngày 4-3-1926 (20 tháng Giêng Bính Dần) trong buổi lập đàn đầu tiên tại Vĩnh Nguyên Tự (do nhị vị Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc phò loan), Đức Thái Lão Sư Lê Đạo Long giáng cơ báo tin cho chư môn đệ biết Ngài đã đắc vị Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Ngài khuyên bổn đạo địa phương và gia đình quy nhập Cao Đài. Xin trích một đoạn Thánh giáo trên:
“Lê Văn Tiểng… Lịch thính Ngã, Ngã thị nễ phụ, thọ mạng Cao Đài Tiên Ông viết Cao Đài Thượng Đế Giáo Đạo Nam Phương. Tiên nhựt Ngã thọ giáo Minh Đường Đại Đạo, thị chi nhứt dã nội Ngũ Chi Đại Đạo, thọ phong Trung Quốc vi Đại Lão. Ngọc Đế cảm xúc công quả thậm đa, bất lưu luân hồi tái thế, phú Thái Ất Chơn Quân độ dẫn. Thọ sắc Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn tại Tây Phương Cực Lạc…”
# Thân mẫu ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu mãn phần ngày 28-8-1926. Lúc này Đạo mới mở, chư Tiền khai chưa rõ cách làm lễ tang đạo hữu nên thiết lập đàn cơ cầu Ơn Trên chỉ dẫn. Hôm ấy, Thầy giáng dạy:
“Trung, con tức cấp xuống Cần Giuộc biểu Tương về. Và cả chư môn đệ Thầy hội lại cho đủ mặt. Phải nhớ biểu Lịch lên, nói với nó Thầy cần bốn vị chức sắc Minh Đường cầu kinh cho mẹ Hậu…”
(Trích bản Thánh giáo do chính ngài Bảo Pháp viết, lưu lại)
Bốn Thánh giáo trên, Ơn Trên đều dùng tên Minh Đường để chỉ Vĩnh Nguyên Tự.
Về gốc tích Vĩnh Nguyên Tự, căn cứ phần tiểu sử Ngài Lê Văn Tiểng (Thái Lão Sư Lê Đạo Long) (1843-1913), in trong quyển Kinh Đạo Nguyên Chánh Nghĩa; theo đó : năm 1876, Ngài Lê Văn Tiểng thọ đạo Minh Đường từ Đức Di Minh Tử Ngô Đạo Chánh. Ngài trì hành pháp đạo, tu tiến đến bậc cuối Thái Lão, Pháp danh là Lê Đạo Long. Do muốn độ nhơn sanh vào đường đạo đức, năm 1908, Ngài Lê Đạo Long dùng phương tiện riêng xây dựng nên ngôi Vĩnh Nguyên Tự và, Ngài có lời tiên tri "nơi đây là Thập nhị khai thiên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hoằng khai chánh pháp chơn truyền sau này".
Nay, Vĩnh Nguyên Tự đã là chùa Cao Đài, tên Minh Đường không còn nghe nói nữa.
Ghi chú:
# Nhiều tài liệu ghi ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt trước đó tu Minh Đường đến phẩm Chứng Ân. Nhưng, theo lời xác nhận của Đạo trưởng Bạch Lương Ngọc (trụ trì Vĩnh Nguyên Tự) (1910 - 1999) thì đạo hiệu của Đức Ngọc Lịch là Lê Xương Tịnh – chữ Xương – do đó phẩm đạo của ngài phải Dẫn Ân (trên Chứng Ân một cấp). Theo luật đạo Minh Sư (và Minh Đường), người tu phải đến cấp Dẫn Ân mới đủ quyền pháp phổ độ và phụ trách một ngôi Phật Đường.
# Ngay sau khi quy hiệp Cao Đài, Ngài Lê Văn Lịch ( lúc này chưa thọ phong Đầu Sư) thừa lịnh Đức Chí Tôn chọn các bài kinh quan trọng cho nền Đạo mới, xưng tụng Đức Thượng Đế và Tam Giáo Đạo Tổ. Đến nay, việc sưu tầm bản gốc chữ Hán các bổn kinh trên có khó khăn (đã tìm được gốc của bài Ngọc Hoàng Kinh, bài xưng tụng Tiên giáo và bài Nho giáo). Do vậy có thể suy nghĩ về các chi Minh Sư khác nhau ngay tại đất Trung Hoa.
# Có lẽ cũng cần nhắc lại thánh giáo ngày 3.2 Bính Dần (khoảng 10 ngày sau khi ngài Lê Văn Lịch quy hiệp Cao Đài), Thầy dạy :
"Lịch thính Ngã; Ngã tiền định trạch tam Đầu Sư giáo đạo. Đắc quy Ngũ Chi Đại Đạo hiệp nhứt. Nhữ thị nhứt chi. Khả năng truyền giáo. Khả giáo nhơn sanh. Khâm tai."
Tạm dịch : "Lịch nghe lời Ta dạy. Từ trước Ta đã quyết định chọn 3 người đứng vào hàng Đầu Sư (đại diện cho 3 phái Thái Thượng Ngọc -
HN); Quy hiệp Ngũ Chi Đại Đạo về Một - là Đại Đạo - Ngươi thuộc một Chi trong đó. Phải cố truyền đạo để giáo hóa nhơn sanh".
Qua Thánh giáo này, một lần nữa chúng ta được thấy Đức Chí Tôn dùng từ "Ngũ Chi Đại Đạo" để chỉ các chi đạo họ Minh.
CHI MINH LÝ
Ngài Âu Minh Chánh (1896 – 1941) (người gốc Minh Hương) tên tục là Âu Kiệt Lâm, khoảng năm 1920, muốn tìm hiểu về nhân điện (magnétisme) nên đã gởi mua tài liệu bên Pháp. Ngài nghiên cứu và học được cách chữa bệnh giúp bá tánh địa phương. Nhiều bệnh nhân trong cơn hiểm nghèo đã được trị lành. Lúc ấy, ngài đang ở nơi đường Barbier (nay là Thạch Thị Thanh, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) và cùng hợp tác với nhiều thân hữu làm từ thiện. Dần dần, chư vị phát tâm tin tưởng Thiêng liêng. Sau đó, Ngài Âu Kiệt Lâm cùng vài người khác tìm đến một vị cao tăng bên Tàu qua, đang giảng pháp tại chùa Minh Hương Phước An Hội Quán (đường Hùng Vương), học cách cầu huyền cơ hầu tiếp xúc với cõi Thiên. Do cách cầu huyền cơ đòi hỏi phải thật nghiêm cẩn nên ít thành công, chư vị chuyển sang tìm học cách cầu Đại ngọc cơ.
Tam Tông Miếu
(ngôi chùa đầu tiên - ảnh chụp 1927)
Từ khoảng 1922, Ơn Trên hướng dẫn quý ngài dần vào đường tu. Buổi đầu ấy chư Tiền khai Minh Lý Đạo gồm 6 vị:
Nguyễn Văn Miết (Minh Thiện) (1897 – 1972);
Nguyễn Văn Xưng (Minh Giáo) (1891 – 1957);
Lê Văn Ngọc (Minh Truyền) (1887 – 1965);
Võ Văn Thạnh (Minh Trực) (1895 – 1976);
Nguyễn Văn Đề (Minh Đạo) (1893 – 1961);
Âu Kiệt Lâm (Minh Chánh) (1896 – 1941)
Các vị luân phiên nhau tổ chức cúng tại nhà vào các kỳ Sóc Vọng và tạm dùng vài bài kinh Minh Sư (bài Niệm Hương, Khai Kinh, Ngọc Hoàng Kinh…) chữ Hán Việt. Một lần, chư vị có than cùng nhau rằng: “Nghĩa lý chữ Nho rất cao sâu nên lời Thần Tiên để lại trong kinh sách bấy lâu nay, người đời ít ai thông hiểu những điều mầu nhiệm. Chớ chi Ơn Trên cho kinh bằng chữ quốc âm, dầu bực nào cũng dễ hiểu và thực hành được”.
Chẳng ngờ Ơn Trên chấp nhận lời cầu xin này. Đức Thái Thượng Đạo Quân trong lần giáng cơ sau đó dạy rằng:
“Chư nhu tụng kinh chữ không thông nghĩa lý, nên ta cho kinh Nôm. Kinh này vắn tắt, cũng tiện cho chư nhu đọc”.
Đêm 27-11 Giáp Tý (23-12-1924) (thuộc tháng Bính Tý, ngày Bính Tý, giờ Mậu Tý), Minh Lý Đạo Khai Minh tại Thiên Bàn nhà Ngài Âu Minh Chánh..
Trước đó một ngày, vào 22-12-1924, nhằm ngày Đông Chí nhứt dương sơ phục, Đức Thái Thượng giáng tả bài Tặng Thiên Đế (Vì Thiên Đế Thái Cực Hoàng...) (diễn nôm từ bài “Đại La”). Nhiều bài kinh khác (gốc Minh Sư hay kinh mới) đều được chư Thiên tiếp tục ban bằng chữ quốc ngữ, thí dụ như:
* Ngày 11-1-1925, Đức Thái Thượng Đạo Tổ cho bài Thông Minh Chú (Gốc là bài "Cửu Thiên Đại La; Thân phi bạch y …" của Minh Sư).
* Ngày 21-6-1925, Đức Lý Thiết Quả cho bài kinh Thái Dương
* Từ ngày 19-4-1925 đến 21-11-1925, qua nhiều buổi đàn, Đức Đạo Tổ, Phật Nhiên Đăng, Phật Quan Âm, Đức Nam Cực Chưởng Giáo v.v.. tả bài kinh Sám Hối(còn đọc là Sấm Hối).
Sau khi bài kinh Sám Hối ban xong, Đức Văn Tuyên Vương dạy chư Minh Lý môn sanh rằng, trong khi chưa tạo dựng được nơi cúng lễ riêng, cần tạm mượn một ngôi chùa để làm chỗ tụ tập lễ bái, tu học, tụng các bài kinh Ơn Trên đã ân ban. Chư vị sau đó được vị Giáo Thọ trụ trì Linh Sơn Tự (đường Cô Giang) vui lòng cho mượn chùa làm nơi lễ bái Phật Trời, tụng kinh Sám Hối. Cũng chính do mượn chùa, các đạo hữu phải tránh các ngày Sóc Vọng – nhường cho gia chủ – nên lệ cúng hằng tháng vào các ngày 14 và 30 âm lịch còn giữ đến nay.
Từ đó, Minh Lý môn sanh quyết tâm xây ngôi chùa riêng. Nhờ ông Trần Kim Ký hiến đất vùng Bàn Cờ (lúc ấy trước chùa chỉ là một con hẻm đất, sau mới mở thành đường Cao Thắng) cùng quý bà Ba Ngỡi, Huỳnh Thị Ngôn… giúp một phần tài chánh, ngày 10-8-1926 chùa đặt viên đá đầu tiên. Chùa gác đòn dông ngày 15-9-1926 và đến cuối tháng 1-1927 việc xây dựng hoàn tất. Ngày 2-2-1927 khai buổi cúng đầu tại chùa mới. Như vậy, Minh Lý môn sanh đã mượn Linh Sơn Tự từ tháng 9-1925 đến tháng 2-1927.
Trước đó, khi chuẩn bị xây dựng, Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn ban đạo hiệu chùa là Tam Tông Miếu. Qua hai đợt trùng tu năm 1941 và 1957, Tam Tông Miếu mới có dáng như ngày nay.
Tam
: là Tam thể đồng nhứt; Tam giáo đồng nguyên.
Tông
: là thừa kế, tiếp nghiệp của Tổ truyền.
Miếu
: là tòa ngự của các Đấng Thiêng Liêng tại thế.
Chánh điện Tam Tông Miếu thờ Tam Cực: Vô Cực (Diêu Trì Kim Mẫu); Thái Cực (Ngọc Hoàng Thượng Đế); Hoàng Cực (Hồng Quân Lão Tổ). Cấp thứ nhì thờ Tam Giáo Đạo Tổ. Cấp thứ ba thờ Tứ Đại Bồ Tát. Cấp thứ tư thờ Ngũ Vị Tinh Quân cùng nhiều bàn thờ khác từ trong ra ngoài…
Năm 1972 bổn đạo Minh Lý phát triển thêm ngôi Bác Nhã Tịnh Đường ở Long Hải (chuyên để luyện tu).
Đến nay, chư Minh Lý môn sanh, với đạo phục màu đen truyền thống, tiếp tục hành đạo theo giáo lý và giáo pháp đã được truyền dạy từ xưa. Nhiều môn sanh mới đã gia nhập Minh Lý Thánh Hội, kế thừa mối đạo Tam Tông.
Ghi chú:
Buổi đầu mở đạo Cao Đài, tháng 6 năm Bính Dần (1926), Ơn Trên ban lệnh chư Tiền khai gồm quý ngài Lê Văn Trung, Lê Văn Lịch, Vương Quan Kỳ đến Minh Lý Thánh Hội thỉnh một số bài kinh. Đồng lúc ấy tại Minh Lý, Ơn Trên đã ban lệnh truyền kinh qua thánh giáo ngày 28 tháng 6 Bính Dần (6.8.1926) như sau :
"Ngã Lục Đinh Thần giáng đàn, hỉ chư nhu.
Ta vưng lịnh Đạo Tổ giáng xuống truyền cho chư nhu rõ : Chư nhu phải sắm 12 cuốn kinh Sấm Hối cho thiệt tốt, sạch, chẳng chút bợn nhơ gì hết. Sắm rồi thì phải cho đi mời Trung, Lịch, Kỳ lại nhà chư nhu, biểu chúng nó làm lễ mà thỉnh kinh ấy. Nơi bìa kinh phải đề hiệu 'Tam Tông Miếu'..."
Trước đó, vào ngày mùng 3 tháng 7 năm Ất Sửu (21.8.1925) trong một buổi hầu đàn, Ngài Minh Thiện có bạch "mỗi khi phát kinh Sấm Hối thì chúng tôi đặng phát luôn bài Khai Kinh và mấy bài kinh khác hay không". Đức Đạo Tổ hôm ấy dạy : "Phát luôn".
Quyển kinh Sấm Hối có in nhiều bài kinh, trong đó có các bài :
o Niệm Hương (Đạo gốc…)
o Khai Kinh (Biển trần khổ…)
o Kinh Sấm Hối (Cuộc danh lợi…)
o Kinh Xưng Tụng Công Đức (Hào quang chiếu…)
o Kinh Cầu Siêu (Đầu vọng bái…)
Từ đấy, các bài kinh trên chính thức đưa vào thành kinh lễ Cao Đài.
Và, có điều trước nay nhiều người cho rằng chư Tiền khai Cao Đài thỉnh kinh tại Tam Tông Miếu. Thật ra, vào năm 1926 Tam Tông Miếu chưa cất, Minh Lý Hội còn tạm nơi chùa Linh Sơn. Việc thỉnh kinh diễn ra tại bàn thờ tư gia Ngài Âu Minh Chánh.
* Ngôi nhà ngài Âu Minh Chánh (Âu Kiệt Lâm) – là địa điểm tiếp các bài kinh Minh Lý Đạo – xưa ở đường Barbier (Lý Trần Quán – Thạch Thị Thanh ngày nay) trong một ngõ nhỏ. Ngôi nhà xưa bằng gỗ, khá rộng, nay không còn. Vị trí cuộc đất hiện thuộc nhà số 78/2 Võ Thị Sáu, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
# Nhân đây, xin nói thêm về Tứ Đại Điều Quy của Đạo Cao Đài cũng có phần gốc tích từ chi đạo Minh Lý như sau : Ngày 20.10. Ất Sửu (1925), Ngài Minh Thiện thọ lệnh Ơn Trên soạn điều quy cho Minh Lý theo sách Tàu xưa. Ngài Minh Thiện ghi lại : " Tôi mới lấy bổn Tứ Đại Điều Quy của ông Thương Châu Tử (sách chữ Tàu của Phái Minh Sư) mà dịch ra Việt Ngữ theo văn xuôi để trình bề trên duyệt phê. Bữa mồng 4 tháng 11 có Đức Vạn Pháp Giáo Chủ giáng, dạy đọc cho Ngài nghe bài của tôi vừa dịch ra đó. Khi đọc qua rồi, Ngài dạy rằng : “Ngươi làm như vậy thì dùng đặng rồi, chẳng cần phải sửa ...”.
Chư Tiền khai Cao Đài khi soạn Tân Luật năm 1926 đưa Tứ Đại Điều Quy vào thành 1 chương (Chương 5)
http://sites.google.com/site/nhipcaugiaoly/nguchi_2
CHI MINH THIỆN
Từ trước năm 1915, một nhóm nhân sĩ thường họp mặt tại chùa Quan Đế, có tên là Thanh An Tư, ở thị xã Thủ Dầu Một (nay trên đường Hùng Vương) để cầu cơ thỉnh Tiên. Cách thức cầu cơ theo như Minh Sư (phò Đại ngọc cơ). Tại đây chư Thiên giáng dạy về thời cuộc và cho thuốc trị bệnh, có nhiều lời tiên tri rất linh hiển. Điều lạ là ông Nguyễn Văn Trượng làm đồng tử thường ngày không biết chữ, nhưng mỗi khi phò ngọc cơ, ông viết ra toàn chữ Nho, chữ Việt rất thông thái, càng làm cho đạo tâm quanh vùng thêm tin.
Đến khoảng năm 1915, ông Trần Hiển Vinh (1884 – 1962) được Tổ phụ truyền lại ngôi chùa này. Do chùa đã xưa cũ, trên 100 năm, nhiều chỗ hư mục nên ông cho tu sửa lại, mở rộng chánh điện ra phía trước, xây dãy nhà ngang, lót gạch toàn bộ nền chùa (phần gạch tàu cũ đem lót ngoài sân) và làm con ngựa Xích thố đặt trước cổng. Do vậy, dân gian gọi đây là chùa Ông Ngựa.
Xen lẫn những buổi hầu cơ có luận việc đời việc đạo, Thiêng Liêng thường ban ơn chữa bệnh cho bá tánh nên tên Đàn Minh Thiện có từ lúc này. Nhiều vị đạo tâm tích cực hành đạo như các ông: Trần Phát Đạt (anh ông Vinh); Lê Văn Hơn; Trần Duy Khánh; Lê Ngọc Lăng; Phan Văn Tý (1888 – 1962).
Chùa Minh Thiện thờ Đức Quan Thánh Đế Quân, tụng Minh Thánh Kinh, nhưng tại đây cũng có rất nhiều tượng chư vị Bồ Tát, Phật Tổ…
Thanh An Tự
(đàn Minh Thiện xưa)
Sau khi đồng tử Nguyễn Văn Trượng mất, cơ bút đã bế, nhưng khách hành hương vẫn tấp nập và rất thành tín.
Tiếp đến, khoảng năm 1963 – 1964, khi ông Trần Hiển Vinh qua đời. Do đã tham gia tích cực và có nhiều uy tín, ông Trương Kế An làm quản lý chùa. Ông cho thượng Thánh tượng Thiên Nhãn và dùng kinh Cao Đài cúng thường ngày. Được vài năm, do già yếu, ông giao chùa cho bổn đạo địa phương quản lý, chùa trở lại thờ Đức Quan Thánh như xưa.
Có một số sự tích liên quan giữa Minh Thiện và Cao Đài :
a. Với ngài Ngô Minh Chiêu.
Năm 1902, ngài Ngô còn trẻ (25 tuổi) chưa biết Đạo nhưng đã có tâm thành. Nghe đồn Tiên gia linh hiển, lại muốn cầu thọ cho thân mẫu, ngài Ngô lên hầu đàn Minh Thiên. Hôm ấy ngài được Ơn Trên ban 4 câu thơ:
Thủ bôi vị lễ diệt khả thông,
Trung dung hữu đạo thị tâm không.
Đắc vọng kỳ sự giả thân du,
Minh phong khả đối dữ thành công.
Đến năm 1919, do thân mẫu lâm bệnh nặng, ngài Ngô có lên Đàn Minh Thiện cầu thuốc, nhưng Ơn Trên lộ cho ngài biết cụ bà vận số đã hết. Ngày 15-11 năm ấy (24.9. Kỷ Mùi) cụ bà từ trần.
Nhờ nhiều lần hầu đàn Minh Thiện, biết rõ cách cầu cơ nên khi Thiêng Liêng dạy chư vị ở Tân An thay đổi từ chấp bút qua Đại ngọc cơ, ngài Ngô dễ dàng chấp hành.
b. Với Nhóm Hai (Nhánh Phổ Độ):
Buổi đầu thông công với các Đấng Thiêng Liêng, quý ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang dùng phương pháp xây bàn theo sách Pháp. Cũng như nhóm chấp bút của ngài Ngô, Ơn Trên đã ban lệnh cho quý ngài chuyển qua sử dụng Đại ngọc cơ cho được nghiêm túc và thông linh hơn.
Khiến sao ông Phan Văn Tý (một vị trong ban cai quản Đàn Minh Thiện) là bạn ngài Cao Quỳnh Cư, lại ở gần nhà. Ông Phán Tý đã cho mượn và hướng dẫn nhị vị Phạm Công Tắc và Cao Quỳnh Cư phò Đại ngọc cơ thuần thục. Buổi phò cơ đầu tiên của chư vị nhằm lễ Hội Yến Bàn Đào (Rằm tháng 8 Ất Sửu). Bài cầu cơ lúc ấy cũng mượn của chi Minh Thiện. (Bài: “Chốn Bồng Lai là nơi thanh tịnh. Thú triều ưa…”).
c. Với Chi Minh Tân.
Ông Lê Minh Khá là xã trưởng ở Vĩnh Hội. Do bệnh ngặt nghèo, ông lên hầu đàn Minh Thiện được Ơn Trên ban thuốc uống lành. Sau đó, Thiêng Liêng hướng dẫn ông vào đường đạo đức, lập chi Minh Tân (sẽ nói rõ hơn ở phần sau).
Như vậy có thể nói chi Minh Thiện có nhiều căn duyên trong buổi đầu khai nền tôn giáo Cao Đài.
Ngày nay, đàn Minh Thiện (Thanh An Tự) thờ Đức Quan Thánh như nếp xưa và không còn cơ bút. Hằng năm vào Rằm tháng Giêng, người Saigon lên cúng rất đông.
Ghi chú:
# Ông Trần Hiển Vinh (1884 – 1962) vợ là Đặng Thị Hường (1900 – 1948), nhị vị có một gái là Trần Ngọc Anh, cô Anh lập gia đình với ông Phan Văn Bổn, là con trai ông Phan Văn Tý (Phán Tý) (1888 – 1962) và bà Cao Thị Nhiều (1892 – 1970). Bà Trần Ngọc Anh
hiện ngụ tại cư xá Lữ Gia và kế tục quản lý Thanh An Tự.
o Về ông Trần Phát Đạt ( anh ông Vinh), bà Trần Ngọc Anh cho biết : "Ông Trần Phát Đạt (1881 - 1942) vào khoảng năm 30 tuổi, vì một vấn đề pháp lý nên đã đổi qu họ Nguyễn (Nguyễn Phát Đạt)".
Năm 1926, ông Trần Phát Đạt nhập nôn Cao Đài. Ngày 23.8. Bính Dần (1926), khi tham dự buổi họp Khai Tịch Đạo tại nhà ông Nguyễn Văn Tường (cũng là một trường hợp khác đổi họ Võ qua họ Nguyễn), Ông Trần Phát Đạt được Ơn Trên điểm vào danh sách 28 vị đứng tên Khai Tịch Đạo. Thường xuyên lui tới Thánh thất Cầu Kho, ông đã tích cực hành đạo đến cuối đời.
# Nhiều người kể lại rằng khoảng năm 1964 – 1965, khi ông Trương Kế An xây Bửu Sơn Tự ở núi Cấm, có định chở tượng “Ba ông” (hiện đặt trước chánh điện Thanh An Tự) về, nhưng không thể nào khiên đi được. Thế nhưng sau này, lúc bổn đạo Minh Thiện sửa chùa (thay cột gỗ bằng cột beton), xê dịch tượng rất dễ dàng.
CHI MINH TÂN
Trong Ngũ chi, Minh Tân được lập cuối cùng, sau các chi khác.
Nguyên khoảng năm 1917, ông Lê Minh Khá (1868 – 1946) làm xã trưởng Vĩnh Hội, đồng thời là một doanh gia buôn bán gạo và phân bón khắp Nam Trung Bắc; Ông bị bệnh nặng, thuốc thang nhiều nhưng không khỏi. Nhờ thân hữu mách bảo, ông lên đàn Minh Thiện cầu xin và được Ơn Trên ban bài thuốc uống lành bệnh.
Chùa Minh Tân (Tam Giáo Điện Minh Tân)
Đến năm 1920, lại một cơn bệnh khác, và như lần trước, ông Lê Minh Khá lên hầu đàn Minh Thiện xin thuốc. Lần này, Đức Quan Thánh Đế Quân cũng ban bài thuốc trị bệnh cho ông nhưng thêm lời khuyên lo tu hành. Năm ấy ông 52 tuổi.
Tuân lời dạy của Đức Quan Thánh, ông Lê Minh Khá lập tại tư gia, số 236 quai de la Marne (nay là Nhà Văn Hóa Quận 4) một bàn thờ chư Tiên chư Phật. Trong thời gian này, khiến sao thỉnh thoảng những vị khuất mặt lại nhập điển vào mấy em nhỏ là con cháu của ông và dạy nhiều việc linh ứng, tạo niềm tin tưởng cho cả gia đình.
Qua năm sau, 1921, ông Lê Minh Khá thọ lệnh Thiêng Liêng lập ngôi Cao Thâm Đàn tại sở vườn cao su rộng trên 100 mẫu tại xã Gia Lộc, Trảng Bàng. Lệnh cũng giao cho hai con trai ông là Lê Minh Sanh và Lê Văn Trân coi sóc. Cao Thâm Đàn thờ Tam Giáo Đạo Tổ cùng chư Tiên Phật. Nơi đây thường thiết lập đàn cơ (song đồng âm dương phò Đại ngọc cơ) trị bệnh và dạy đạo đức cho dân chúng địa phương.
Năm 1922, ông Lê Minh Khá nhận lệnh Ơn Trên lập Cao Minh Đàn tại tư gia (236 Bến Vân Đồn). Cách thức thờ phượng nơi đây nghiêm túc hơn với vòng Thái Cực, bài vị Tam Giáo Đạo Tổ và chư Phật Tiên Thần Thánh. Lúc này, sự tin tưởng Thiêng Liêng trong toàn gia đình ông Lê Minh Khá thăng tiến rõ rệt, hầu hết mọi người đều tham gia hầu lễ Ơn Trên.
Qua năm 1923, tiếp tục có chuyển biến: Ơn Trên khuyến khích ông Lê Minh Khá mua lô đất gần nhà (cạnh bên phải số 221 Bến Vân Đồn – chùa Minh Tân hiện tại), để chuyển Cao Thâm Đàn ở Trảng Bàng về đây, lập thành ngôi Cao Tân Đàn. Lúc này Cao Tân Đàn thờ đủ bài vị: Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và chư Tiên Phật. Có thêm bàn thờ Đức Lê Sơn Thánh Mẫu và Tề Thiên Đại Thánh hai bên. Sau khi xây dựng ổn định xong Cao Tân Đàn, Cao Thâm Đàn chấm dứt nhiệm vụ.
Không lâu sau đó, Ơn Trên chuyển lệnh sáp nhập hai đàn Cao Minh và Cao Tân thành Đàn Minh Tân. Đàn Minh Tân tạm đặt tại Cao Tân Đàn. Riêng Cao Minh Đàn trở lại thành nơi thờ phụng riêng của gia tộc họ Lê.
Như vậy, đến 1924 qua 1925, Đàn Minh Tân đã hình thành. Nơi đây chư Thiêng Liêng giáng điển qua cơ bút, dạy đạo cho tín hữu địa phương, thu nhận rất nhiều tín đồ vùng Khánh Hội, nhất là người nhà và số nhân công làm việc cho gia đình ông Lê Minh Khá.
Ngày 26-9-Bính Dần (1-11-1926) – tức là cận lễ Khai Minh Đại Đạo ở chùa Gò Kén – Đức Thái Thượng Đạo Quân giáng tại Minh Tân Đàn dạy:
“Còn chẳng bao lâu nữa thì Tam Giáo Đạo đã ngưng lại hết, hễ ai có duyên phần thì Thầy độ lúc này. Vậy chư nhu phải truyền bá ra. Như người nào mộ đạo thì phải cầu đạo sớm đi. Nếu muộn thì đừng trách”…
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển )
Tiếp đến, Đức Lê Sơn Thánh Mẫu dạy :
“ ... Nay Đại Đạo gần mãn, nên Sư phụ các con cậy Thầy độ phái nữ Minh Tân ... khi lập xong rồi thì thượng sớ qua Tam Kỳ Phổ Độ. Phái nam cũng vậy. Như người nào chưa nhập Tam Kỳ Phổ Độ thì phải cầu xin. Lời Thầy nói đây là lấy chánh lý mà nói, chớ chẳng phải ép uổng ai đâu ...”.
(Chữ Thầy đây chỉ Đức Lê Sơn Thánh Mẫu)
Và như vậy, vào ngày mùng 6 tháng 10 năm Bính Dần, toàn thể nam nữ tín đồ Minh Tân quy tụ về chùa cùng làm lễ minh thệ nhập môn Cao Đài Giáo. Từ đây, chùa Minh Tân trở thành một Thánh thất Đạo Cao Đài.
Cũng từ đây, ông Lê Minh Khá càng tăng tiến việc tu hành. Sau khi mua thêm khu đất cạnh bên tổng cộng 601 m2 (số 221 Bến Vân Đồn hiện nay), ông tiến hành việc xây dựng ngôi chùa khang trang hơn. Ngày 15-12-1928, nhận được giấy phép, ông Lê Minh Khá cho khởi công xây dựng ngôi Tam Giáo Điện Minh Tân; đến năm 1930 hoàn tất, khánh thành. Lúc này trên chánh điện, ngoài các bàn thờ như trước còn có thêm bàn thờ Đức Tề Thiên Đại Thánh (bên nam phái). Xây cất xong ngôi chùa mới, Minh Tân Đàn chấm dứt nhiệm vụ, các bài vị thờ đưa qua lưu giữ tại Tam Giáo Điện Minh Tân.
Ông Lê Minh Khá liễu đạo ngày Rằm tháng Giêng năm Bính Tuất (1946) thọ 79 tuổi. Mộ phần tại Linh Xuân – Thủ Đức (cạnh sân banh).
Ghi chú:
# Ông Lê Minh Khá (1868 – 1946) phối ngẫu với bà Nguyễn Ngọc Tâm (1876 – 1937), nhị vị có 5 người con là Bà Lê Ngọc Ý (1895 – 1941); ông Lê Văn Vị (1898 – 1945); Cô Lê Ngọc Trinh (1902 – 1941); ông Lê Minh Sanh (1906 – 1988); ông Lê Văn Trân (1908 – 1966). Với người vợ sau tên Huỳnh Thị Cấm có các người con là Lê Ngọc Sương, Lê thị Nữ , Lê Thị Liên và Lê Minh Chánh.
Riêng cô Lê Ngọc Trinh có tâm đạo từ nhỏ, không lập gia đình. Khoảng năm 1934, cô được Ơn Trên chọn vào trách nhiệm lập Nữ Chung Hòa Phái. Liễu đạo năm 1941, cô thọ Thiên phong Liên Hoa Tiên Nữ.
o Ông Lê Minh Khá và ngài Vương Quan Kỳ (một vị Tiền khai Đại Đạo) là thông gia với nhau (ông Lê Văn Trân và bà Vương Thanh Chi) và cùng hành đạo tích cực đến cuối đời.
o Sau khi lập thành Tam Giáo Điện Minh Tân, cách thức thờ phượng vẫn giữ nguyên như trước (lúc này đã quy nhập về Cao Đài). Chỉ thêm Thánh Tượng Thiên Nhãn phía trên cao.
Chính vì Minh Tân có thờ Đức Tề Thiên Đại Thánh, rồi đến chuyện biến “quỷ nhập tràng” tại Gò Kén, nên các bản Thánh Ngôn Hiệp Tuyển phát hành khoảng 1930 đến 1950 đều cắt bỏ ba bài Thánh giáo dạy ở Minh Tân. Gần đây mới in lại.
KẾT LUẬN
Sau khi lược qua năm chi Đạo họ Minh - mà do phải gói ghém trong một bài viết ngắn như vậy, cũng khó trình bày hết những việc cần nói - Điều chúng ta có thể tóm tắt lại là năm chi này cùng được Ơn Trên trực tiếp dạy đạo bằng phương tiện cơ bút (Đại ngọc cơ), thờ Thượng Đế và Tam Giáo Đạo Tổ, có ảnh hưởng lớn trong xã hội tại Nam Việt, nhất là tại Sài Gòn vào cận thời điểm trước khi mở Đạo Cao Đài. Năm chi này cùng họ Minh. Minh có nghĩa là sáng, (chữ Minh [
明 ] gồm 2 chữ : Nhựt [日] và Nguyệt [月Ž] ), chiếu sáng cả ngày lẫn đêm, chẳng những mình sáng mà làm cho mọi người đồng được sáng.
Vậy là trước khi Đạo Trời xuất hiện, năm chi Đạo họ Minh cùng lúc có mặt tại chỗ để soi sáng. Soi sáng hầu vẹt đi cái hắc khí của thời Hạ nguơn. Soi cho tâm hồn của nhân sanh địa phương đất Nam Việt không còn u ám. Giúp mọi người nhìn thấy được sự lộng lẫy của mối Đạo Trời sắp ban xuống, nhờ vậy, mối đạo mới lập tức có đủ điều kiện thuận lợi và phát triển mạnh mẽ.
Giờ đây nhìn lại, năm chi Đạo này có 2 chi đã quy nhập Cao Đài, ba chi kia tuy nay hành đạo với phương tu riêng của mình như trước nhưng vẫn liên hệ qua lại với mối thâm tình.
Là những người tín hữu Cao Đài và là những hậu bối đi sau, nhìn về quá khứ, chúng ta hết sức trân trọng những gì được thừa hưởng và biết ơn các bậc Tiền Khai, dù ở chi đạo nào, Minh Sư, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Đường hay Minh Tân đã góp phần vào đại cuộc chung này.
Huệ Nhẫn (7/1999)
------------------------------
PHỤ LỤC
Dưới đây là Thánh giáo của Đức Chí Tôn in trong quyển Thánh Ngôn Trích Yếu phát hành tại Linh Quang Tự (Hanh Thông Tây, Gia Định) ngày mùng 4 tháng 4 năm Ất Hợi (1935). Xin trích đoạn phần Đức Chí Tôn dạy về Ngũ Chi Đại Đạo như sau:
“NGỌC kinh vừa tiếp sớ đàn trung,
HOÀNG lịnh Thầy khen biết phục tùng;
THƯỢNG giới ban hành lời chỉ dụ,
ĐẾ truyền tô điểm đạo trung dung.
(...)
Thầy phải lập Tam Kỳ Đại Đạo,
Rước nguyên nhơn huờn đáo cựu ngôi;
Tiên Thiên phẩm vị phục hồi,
Tránh nơi bến tục, xa mồi vinh hoa.
Thầy đã xin cùng Tòa Tam Giáo,
Lập Ngũ Chi Đại Đạo độ đời;
Ngũ Chi do gốc Phật Trời,
Minh Sư, Minh Thiện, Minh Đường, Minh Tân.
Thêm Minh Lý lãnh phần truyền đạo,
Ban sám kinh khuyên bảo tu hành;
Sáu mươi năm trước chỉ rành,
Thiên thơ ghi chép Thiên Đình luật ban.
Minh Sư cùng Minh Đường một phái,
Lo chấn hưng chế cải đạo Thiền,
Đạo Thích đã thất kỳ truyền,
Vì chưng tăng chúng không chuyên tu trì.
Làm mất lý vô vi của Phật,
Bày hữu hình vật chất không kiêng;
Minh Sư thọ đặng chơn truyền.
Rèn lòng tụng niệm tinh chuyên đạo mầu.
Nhơn cuộc thế cơ cầu gay trỡ
Nên Như Lai Phật Tổ truyền ngôn;
Truyền cho Đại Thánh Tề Thiên,
Hiệp cùng Thiết Quả giáng miền Nam Bang.
Cứu nguyên nhơn khai đàng dẫn nẽo,
Truyền Thánh Ngôn luật mẹo cứu đời;
Minh Tân Thánh Huấn truyền lời,
Chuyên theo Đại học chớ dời lòng son.
Bởi thấy đời vì còn vật chất,
Nên Cái Thiên Cổ Phật giáng trần;
Lập chi Minh Thiện độ dân,
Tùng theo Phật pháp tối tân Đạo mầu.
Y tam ngũ, hồi đầu phục nhứt,
Hiệp Thiên cơ tùng luật Thiên Tào;
Vì chưng lắm cuộc phong trào,
Mấy chi sợ khó hiệp vào một nơi.
Thầy phải sửa Cơ Trời khai đạo,
Nên truyền cho Đạo Tổ giáng trần,
Lập chi Minh Lý khuyến dân,
Truyền ban kinh luật hồng ân cứu đời.
Tới năm Dần phải thời mở Đạo,
Nên Tam Kỳ Đại Đạo phát minh;
Tiên Thiên một gốc ba nhành,
Thích, Nho, Đại Đạo hiệp thành Đạo Cao.
Ba mối đạo gồm vào một chỗ,
Đặng để phương phổ độ nhơn sanh;
Tam Kỳ đạo cả dương danh,
Là nhờ tâm chí nhiệt thành nguyên nhân.
HUỆ NHẪN
Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2011
Bí ẩn về Chúa Jesus & Kinh Phúc âm
Nhiều người coi Chúa Jesus là một nhân vật tôn giáo phi thường với nhiều bí ẩn trong cuộc đời và triết thuyết giải thoát. Năm sinh của ông đã được dùng làm mốc để tính thời gian theo Tây lịch. Sự sinh thành, quá trình hoạt động tôn giáo và những lời thuyết giảng kỳ lạ của Đức Chúa đã được ghi lại khá tỉ mỉ trong bốn sách Phúc âm của Thánh kinh Tân ước. Bài này thử luận giải một số khía cạnh bí ẩn về Chúa Jesus và kinh Phúc âm.
Khái quát về bốn sách Phúc âm
Sách Phúc âm là chỗ dựa chủ yếu để tìm hiểu con người và sự nghiệp của Chúa Jesus. Hiện lưu hành bốn sách Phúc âm đã được ghi lại bởi các tác giả Matthew, Mark, Luke và John. Hai sách Phúc âm bởi Matthew và John có dung lượng lớn hơn gấp rưỡi so với hai sách Phúc âm còn lại. Có nhiều chi tiết nội dung trong các sách Phúc âm trùng lặp nhau về ý nghĩa. Các nhà nghiên cứu tin rằng, không phải tất cả những gì có trong sách Phúc âm đều từ thực tế đã diễn ra với Chúa Jesus. Nguyên nhân chính có thể là do nhầm lẫn hay hư cấu thêm để tôn vinh một nhân vật có vẻ siêu phàm đã chấp nhận hy sinh bản thân mình vì tôn giáo. Cần lưu ý là đã tồn tại nhiều sách Phúc âm do các môn đệ của Chúa Jesus ghi chép (Đức Jesus có hàng chục môn đệ, nhưng chỉ 12 môn đệ là gần gũi nhất, tạo thành Nhóm mười hai sứ đồ, trong số đó có Juda đã phản Chúa). Bốn sách Phúc âm nói trên đã được lựa chọn và soạn ra bởi Hoàng đế La Mã Constantine sau ba trăm năm kể từ lúc Đức Chúa bị sát hại.
Nội dung trong mỗi sách Phúc âm được trình bày như kể chuyện theo trình tự thời gian từ khi sinh thành Đức Chúa cho đến khi ông bị đóng đinh lên thập tự giá, rồi phục sinh và biến mất khỏi trần thế. Thường người ta cho rằng, khi xem xét các chi tiết nội dung của sách Phúc âm không nhất thiết lúc nào cũng dựa máy móc vào câu chữ cụ thể mà phải phát hiện ra ý nghĩa ẩn chứa sau ngôn từ. Điều đáng chú ý là rất nhiều chi tiết về khía cạnh tôn giáo được đưa ra trong các sách Phúc âm cũng đã có mặt trong những kinh sách cổ đại hơn như Upanishad, kinh Phật, Đạo Đức Kinh...
Theo quy ước, trong mỗi chương của sách Phúc âm các câu được gán chỉ số ở phía trên, trước chữ cái thứ nhất của câu, bắt đầu từ số 1. Khi dẫn ra một câu nào đó của sách Phúc âm thì người ta ghi tên tác giả trước, rồi đến số hiệu chương và chỉ số câu. Thí dụ, câu “Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Ta phán chẳng bao giờ qua” có chỉ số 35, chương 24 và theo tác giả Matthew, được ký hiệu bởi (Matthew, 24:35). Để chỉ nhiều câu liên tiếp cần ghi dấu “-“ giữa hai số hiệu của câu đầu và câu cuối.
Chúa Jesus là ai?
Để giải đoán con người thực của Chúa Jesus trước hết phải dựa vào nội dung của các sách Phúc âm, đồng thời phải so sánh đối chiếu với các luận điểm tôn giáo hiện có cũng như căn cứ vào các quy luật tự nhiên của thế giới hữu hình. Việc tìm hiểu những con người phi thường như Đức Chúa luôn luôn đòi hỏi một tâm trí mở nhất định để tiếp cận vấn đề.
Điều đầu tiên đáng chú ý là Chúa Jesus đã nhiều lần nói với các môn đệ và dân chúng là ông được phái đến từ Thiên quốc, nơi có Đấng Tối Cao là Thượng Đế và chính ông là Con của Ngài. Với câu hỏi của mọi người: Thiên quốc ở đâu và thể hiện như thế nào, Đức Chúa đã giải đáp: “Thiên quốc không thể hiện cho người ta quan sát. Không ai có thể nói Thiên quốc ở đây hoặc ở kia vì Thiên quốc ở trong các ngươi” (Luke, 17:20-21). Theo thuyết tâm linh, Thiên quốc đã được Đức Chúa nói đến ứng với tầng Trời tối cao mà với ngôn ngữ hiện đại về các vũ trụ song song, đó chính là chiều thực tại gồm dạng năng lượng tinh tế nhất của toàn thể sự tồn tại (cái Một). Bởi vậy, mỗi người có thể cảm nhận Thiên quốc thông qua hệ thống luân xa của mình, tựa như máy thu hình cảm ứng năng lượng điện từ cao tần từ môi trường sóng hiện hữu trong cùng không gian với chúng ta.
lớp năng lượng (vật chất) tinh khiết nhất liên kết mọi sự vật của vũ trụ thành một thể thống nhất (cái Một). Chúa Jesus đã nhân cách hoá Cái đó như là Cha, Chúa Cha hay Thiên Phụ, trong khi nó cũng đã được Lão Tử gọi một cách trìu mến là Mẹ thiên hạ.-Vấn đề tiếp theo mà người ta quan tâm là về Thượng Đế. Chúa Jesus còn gọi Ngài là Cha, Chúa Cha hoặc Thiên Phụ. Điều bí ẩn này đã được nói đến khá cụ thể trong các sách Phúc âm: “...Không có ai toàn thiện ngoại trừ Thượng Đế (Luke, 18:19); “Trước khi sáng tạo Vũ trụ đã có Đạo thể. Đạo thể ở cùng Thượng Đế và Đạo thể là Thượng Đế. Ngay từ ban đầu Ngài đã hiện hữu bên cạnh Thượng Đế. Tất cả đều được Ngài sáng tạo. Không gì hiện hữu mà không do Ngài” (John, 1:1-3). Rõ ràng, Thượng Đế được nói tới trong sách Phúc âm cũng giống như Đạo trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử, hoặc Cái đó trong Upanishad hay Niết bàn (Cái không) trong kinh Phật. Theo thuyết tâm linh, đó chính là đại dương tâm thức hay tâm thức vũ trụ
Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu mối quan hệ giữa Chúa Jesus và Thượng Đế. Đức Chúa đã cho biết: “Cha Ta đã ban mọi sự cho Ta. Không ai biết Con ngoại trừ Cha và không ai biết Cha ngoại trừ Con và những người mà Ta muốn bày tỏ cho họ” (Matthew, 11:27); “...Các ngươi xuất thân từ trần thế, còn Ta từ thượng giới; các ngươi từ thế gian này mà ra, còn Ta thì không phải từ thế gian này” (John, 8:23); “...Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha” (John, 10:38); “Nếu các ngươi đã biết rõ Ta thì các ngươi cũng sẽ biết rõ Thiên Phụ Ta... (John, 14:7); “Ta từ Chúa Cha xuống trần gian, rồi sẽ rời trần gian về với Chúa Cha” (John, 16:28) v.v...
Có thể nhận thấy rằng, những gì mà Chúa Jesus đã nói đến trên đây quả là cực kỳ khó hiểu theo cách nghĩ thông thường. Tuy nhiên, sự bí ẩn sẽ được hé mở nếu xuất phát từ thuyết tâm linh về chứng ngộ. Trước hết có thể phán đoán rằng, Đức Chúa là một người đã thấu hiểu và hoà nhập với Đạo hoặc bản thể của Vũ trụ, tức là đã chứng ngộ tâm linh hay trở thành một vị Phật. Trong trường hợp đó một cá nhân sẽ thường sử dụng cách nói ẩn dụ để chỉ trạng thái phật và hoàn toàn sáng tỏ rằng, mọi sự khổ đau mà con người cảm nhận trong cuộc sống chỉ là tương đối, là hậu quả của vô hiểu biết tâm linh (vô minh) mà nguyên nhân là do sự phóng chiếu của tâm trí. Bởi vậy, mọi phương sách làm cho con người vượt lên trên tâm trí hay triệt tiêu bản ngã đều được sử dụng cho mục đích giải thoát. Một vị Phật coi điều đó là sự tự do tối thượng – tự do khỏi chính mình.
Với độ tuổi trên dưới mười ngàn năm, Upanishad cũng đã ghi lại một chi tiết đáng được quan tâm. Có một đệ tử sau khi chứng ngộ tâm linh (thành Phật) đã thốt lên: “Ta chính là Thượng Đế. Ta phi thân thể, phi gắn bó và phi giới tính. Ta tuyệt đối tĩnh lặng, vô hạn, toàn bộ và cổ đại. Ta là phi tác nhân, không thay đổi và nhận biết thuần khiết. Ta là thiên thần vĩnh cửu...”.
Giả định về sự chứng ngộ tâm linh (thành Phật) của Chúa Jesus càng được củng cố thêm bởi một số dữ kiện sau đây. Khi mới mười hai tuổi, một lần Jesus đã theo bố mẹ đến Jesusalem dự lễ Vượt qua. Cậu bé đã trốn bố mẹ và ở lại trong đền thờ cùng với các giáo sư Do thái giáo để nghe họ thuyết giảng. Gặp lại bố mẹ sau ba ngày, Jesus đã thưa: “Bố mẹ tìm kiếm con làm gì? Bố mẹ không biết là con phải ở trong nhà Cha con sao?” (Luke, 2:49). Có tài liệu còn cho biết, Jesus đã là một thành viên quan trọng được điểm đạo bởi một nhóm tôn giáo bí truyền tên là Essenes. Trước khi Jesus chứng ngộ, nhóm Essenes đã cử John the Baptist tới khu vực dọc sông Jordan, liên tục trong hơn hai mươi năm chuyên tâm vào việc rửa tội cho mọi người và luôn luôn đưa ra giáo huấn rằng: “... Đấng khác sẽ đến sau Ta, vĩ đại hơn Ta, Ta không đáng xách dép cho Ngài...” (Matthew, 3:11). Vào độ tuổi ba mươi, Jesus đã xuất hiện và tìm gặp John the Baptist. Sau khi rửa tội cho Jesus ít lâu, John the Baptist đã bị bắt và bị sát hại. Ngay sau đó, Chúa Jesus đã thay thế người tiền trạm của mình với vai trò chủ yếu là truyền giảng Phúc âm trong dân chúng về Thiên quốc.
Giáo lý giải thoát
Theo Chúa Jesus, sự giải thoát con người đồng nghĩa với việc vào Thiên quốc: “Đừng chạy theo miếng ăn, thức uống, cũng đừng lo âu. Vì tất cả dân chúng trên thế giới đều theo đuổi những thứ đó, và Thiên Phụ biết các con cần những thứ ấy rồi. Trái lại, hãy tìm kiếm Thiên quốc... Hỡi bầy chiên nhỏ bé, đừng sợ vì Chúa Cha vui lòng ban Thiên quốc cho các con” (Luke, 12:29-32).
Các nhà tôn giáo thường dựa vào hai con đường chính để đi đến chứng ngộ tâm linh là nhận biết (thiền) và tình yêu (sùng kính Thượng Đế). Chúa Jesus đã đi theo con đường thứ hai thể hiện qua hai điều răn lớn nhất sau đây: “Phải hết lòng, hết linh hồn, hết lý trí, hết sức kính yêu Chúa là Thượng Đế ngươi. Hãy thương yêu người khác như chính mình” (Mark, 12:30-31). Cũng từ đó mà Đức Chúa còn đưa ra một lời dạy nổi tiếng khác có vẻ rất nghịch lý: “...Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ bức hại các con” (Matthew, 5:44).
Giáo lý giải thoát của Chúa Jesus gồm các điểm chính sau đây:
1- Có đức tin tuyệt đối vào Thượng Đế mà gián tiếp là tin vào chính Đức Chúa (suy ra từ điều răn thứ nhất ở trên). Theo lối ẩn dụ, vị Phật là một người mắt sáng, còn các môn đệ là những kẻ mù. Bởi vậy, người thầy tôn giáo phải đích thực là người đã chứng ngộ tâm linh, nếu không sẽ rất nguy hiểm: “...Nếu người mù dẫn người mù thì cả hai sẽ rơi xuống hố” (Matthew, 15:14).
2- Tránh những điều tham, sân, si: “... Đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng trộm cắp, đừng làm chứng dối. Hãy hiếu kính cha mẹ và yêu thương người lân cận như chính mình” (Matthew, 19:18-19).
Chúa Jesus đã thấu hiểu nguồn gốc của mọi điều bất thiện là do nội tâm: “Tất cả những việc xấu xa này đều xuất phát từ bên trong và làm ô uế con người” (Mark, 7:23); “Khốn cho các ngươi... những kẻ đạo đức giả! Các ngươi rửa bên ngoài chén đĩa mà bên trong đầy tham tàn trụy lạc” (Matthew, 23:25). Và Đức Chúa khuyên mỗi người trước hết hãy nhận biết chính mình: “Tại sao ngươi thấy cái dằm trong mắt anh em mà không nhận ra cây xà nhà trong mắt mình?” (Matthew, 7:3).
3- Chấp nhận cuộc sống phi sở hữu và phi bản ngã: “...Nếu ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả những gì mình có thì không thể nào làm môn đệ Ta” (Luke, 14:33); “...Nếu ai muốn theo làm môn đệ Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta” (Mark, 8:34); “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Thiên quốc” (Mark, 10:25).
Theo thuyết tôn giáo, điều kiện cần và đủ để một cá nhân chứng ngộ tâm linh là vượt lên trên tâm trí hay triệt tiêu bản ngã. Trong trường hợp đó, sự nhận biết của con người sẽ trở nên trong sáng tựa như tấm gương, có khả năng phản chiếu trung thực cả bản thân và mọi sự vật xung quanh. Các vị Phật biết rõ rằng, khi ai đó vượt lên trên tâm trí mình thì ngay lập tức bản ngã biến mất vì thực chất nó là cái bóng của tâm trí. Bởi vậy, bất kỳ người nào sau thời điểm chứng ngộ cũng sẽ cảm thấy mình hoàn toàn mới, hồn nhiên như con trẻ và tinh khiết như vừa được tái sinh. Chúa Jesus đã nói đến điều này khá cụ thể: “...Nếu các con không thay đổi và trở nên giống như trẻ thơ thì các con không thể vào Thiên quốc được” (Matthew, 18:3); “...Hãy để trẻ thơ đến cùng Ta, đừng ngăn cấm chúng vì Thiên quốc thuộc về những người như vậy... Ai không tiếp nhận Thiên quốc như trẻ thơ thì không cách nào vào đó được” (Luke, 18:16-17); “...Nếu một người chẳng sinh ra lần nữa thì không thể thấy Thiên quốc” (John, 3:3).
Một trong những phương sách đã được Chúa Jesus thường xuyên sử dụng để thuyết giảng về giáo lý giải thoát là kể chuyện ngụ ngôn: “Lý do Ta kể chuyện ngụ ngôn vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà chẳng nghe, chẳng hiểu” (Matthew, 13:13). Chuyện ngụ ngôn Người gieo giống thường được nói đến đầu tiên. Chúa Jesus ví việc truyền đạo tựa như sự gieo hạt giống; các hạt giống có thể rơi lên đường mòn, nơi đá sỏi, nơi gai góc hoặc nơi đất tốt cũng tựa như việc truyền đạo có thể gặp phải bốn hạng người với tâm trí: khép kín, không ổn định, nặng về vật chất hoặc thành tâm thiện ý. Và chỉ hạng người sau cùng mới có thể đạt tới sự ra hoa kết quả giải thoát. Đức Chúa đã khẳng định: “Ai nghe lời Ta dạy và làm theo sẽ giống như người khôn ngoan xây nhà mình trên nền bằng đá” (Matthew, 7: 24).
Vì sao Chúa Jesus bị sát hại?
Theo các sách Phúc âm, quan toàn quyền La Mã là Poncius Filate đã phán quyết đóng đinh Chúa Jesus lên thập tự giá khi ông ở độ tuổi 33. Việc Đức Chúa bị sát hại ẩn chứa một vài nguyên nhân đáng chú ý.
Trước hết, các vị Phật có minh triết toả sáng như ngọn đèn và họ mong muốn truyền trao cho mọi người: “Không ai thắp đèn rồi đem giấu trong thùng hay để dưới giường, mà đặt trên giá để ai bước vào cũng thấy ánh sáng” (Luke, 8:16). Đó chính là lòng từ bi lớn nhất của người đã chứng ngộ tâm linh. Tuy vậy, việc vị Phật thuyết giảng về trạng thái phi bản ngã hay giải thoát là một vấn đề cực kỳ khó khăn, đặc biệt là trong thời đại hàng ngàn năm trước đây. Chúa Jesus cũng đã nhận biết điều đó: “...Con cái trần gian mưu mô hơn con cái Thiên quốc trong việc xử thế” (Luke, 16:8). Đức Chúa đã sử dụng cách nói thẳng và nhân cách hoá một cách táo bạo để phổ biến kinh nghiệm tâm linh của mình. Nhưng điều này đã làm cho dân chúng không thể hiểu nổi, còn giới cầm quyền đã ngờ vực và quy kết cho Đức Chúa phạm tội phỉ báng Thượng Đế và theo sau có thể nảy sinh tư tưởng chính trị phản kháng. Một số đạo sư cũng đã bị sát hại với lý do tương tự.
Các huyền thoại
Xung quanh Chúa Jesus đã tồn tại khá nhiều huyền thoại. Nguyên nhân chủ yếu có thể là do các môn đệ và dân chúng đương thời đã có sự tưởng tượng phong phú về Thượng Đế và người con của Ngài. Sau đây sẽ đề cập cụ thể hơn.
Huyền thoại Giáng sinh - Theo sách Phúc âm, Chúa Jesus đã được thụ thai bởi quyền phép Đức Thánh Linh trước khi mẹ là bà Mary và bố là ông Joseph tổ chức lễ kết hôn và về ở với nhau. Đức Chúa đã được sinh thành một cách trinh trắng.
Huyền thoại Phục sinh - Sau khi bị giết bởi đóng đinh lên thập tự giá, Đức Chúa đã được một đệ tử (không thuộc Nhóm 12 sứ đồ) bọc lót bằng tấm vải gai và an táng vào ngôi mộ được đục trong đá. Đến ngày thứ ba, thân thể Chúa Jesus đã được một năng lực siêu nhiên biến đổi để trở thành một thiên thần. Tiếp đó, Đức Jesus đã hiện hình cho nhiều người trông thấy, giao nhiệm vụ truyền giảng Phúc âm cho Nhóm mười một sứ đồ (Juda, kẻ phản Chúa, đã tự kết liễu đời mình) và thăng lên Trời.
Các huyền thoại khác - Chúa Jesus dường như đã có khả năng chữa được bách bệnh, kể cả việc làm cho người chết sống lại. Ngoài ra, người ta cũng đã nói đến khả năng phi thường của Đức Chúa có thể khiến cho cơn bão dừng lại, đi trên mặt nước, hoá bánh ít thành nhiều, biến nước lã thành rượu...
Lưu ý rằng, về mặt tôn giáo không nhất thiết cần đến các huyền thoại Giáng sinh và Phục sinh vì thân thể của một vị Phật cũng phải được sinh thành và từ trần như một người bình thường. Huyền thoại về chữa bệnh có thể có một phần sự thật; nguồn năng lượng tâm thần ở người đã chứng ngộ tâm linh thường rất mạnh và tinh khiết, nên có thể sử dụng nó để chữa trị cho những người đau yếu. Các huyền thoại khác có ý nghĩa tôn vinh Đức Chúa, một trong những nhân vật tôn giáo vĩ đại trong lịch sử nhân loại.
Những câu nói bí ẩn
Trong sách Phúc âm tồn tại nhiều câu nói của Chúa Jesus có vẻ phi lý hoặc rất khó hiểu dưới góc độ những kiến thức khoa học đã biết. Dưới đây sẽ xét vài thí dụ điển hình và cách lý giải chúng xuất phát từ thuyết tôn giáo về chứng ngộ.
“...Trước khi Abraham ra đời, Ta vẫn hiện hữu” (John, 8:58) – điều phi lý là ở chỗ Abraham đã sống trước Chúa Jesus hàng ngàn năm; Đức Jesus đã dùng danh xưng Ta để chỉ bản thể vũ trụ hay Đạo vốn tồn tại vĩnh hằng.
“Người nào ăn thân xác Ta và uống máu huyết Ta thì ở trong Ta và chính Ta ở trong người ấy” (John, 6:56) – ý nghĩa của viêc ăn và uống những gì thuộc Đức Chúa là thấu hiểu và hoà nhập với Đạo, tức là trở thành vị Phật.
“Ta đến để phân rẽ, làm cho con trai nghịch với cha, con gái nghịch với mẹ và nàng dâu cùng bà già. Kẻ thù của người ta chính là người nhà mình” (Matthew, 10:35-36) – Chúa Jesus đã đề cập đến một tình huống trái ngược thường xảy ra giữa hai hạng người trong cùng một gia đình: số người này ham muốn vật chất, còn số người kia khao khát giải thoát tâm linh...
Trần Văn
Bí ẩn về Lão Tử và Đạo Đức Kinh
Lão Tử là một nhân vật cổ đại đầy bí ẩn của Trung Quốc đã và đang được nhiều người tìm hiểu và nghiên cứu. Bài này giới thiệu một cách tiếp cận để tìm hiểu Lão Tử và tác phẩm Đạo Đức Kinh của ông.
Một số nguồn tư liệu cho biết, Lão Tử ra đời cách thời đại chúng ta trên dưới 25 thế kỷ. Xung quanh họ tên của ông có nhiều ý kiến. Có một truyền thuyết nói rằng, Lão Tử khi mới sinh ra đã minh triết như người già, không ai biết họ tên thực của ông là gì, từ “Lão Tử” chỉ có nghĩa là “lão già”.
Lão Tử là người đã chứng ngộ tâm linh?
Dựa vào đặc điểm nội dung của tác phẩm Đạo Đức Kinh người ta khẳng định rằng, Lão Tử là một người đã chứng ngộ tâm linh, tức là ông đã vượt lên trên tâm trí hay triệt tiêu bản ngã (trở thành vị Phật). Điều đáng chú ý là vị Phật này với tâm trí riêng đồng nhất với tâm trí vũ trụ đã bày tỏ bí quyết chấp nhận cuộc sống một cách toàn bộ như nó vốn thế. Bởi vậy, Lão Tử đã có những quan niệm đa dạng về đời sống cá nhân và xã hội khác biệt người thường.
Thế giới quan của một vị Phật
Theo thuyết tâm linh, toàn thể sự tồn tại (cái Một) thể hiện như một Đại sinh thể có trí tuệ với thân vật lý, tâm trí và tâm thức ở quy mô vũ trụ. Khi một người có tâm trí cá nhân đồng nhất với tâm trí vũ trụ thì người đó cảm nhận cái Một như chính mình. Con người đạt đến trạng thái này sẽ có nội tâm tĩnh lặng tuyệt đối, luôn “trôi” theo luồng chảy cuộc sống một cách tỉnh thức (nhận biết, chứng kiến, quan sát) và triệt tiêu hoàn toàn bản ngã “tham, sân, si” của mình. Nội tâm của vị Phật luôn được duy trì ở trạng thái “không” là kết quả của sự cân bằng âm dương.
Vị Phật với tâm trí vũ trụ nhìn nhận các hiện tượng tự nhiên cũng giống như các sự vật trong xã hội con người. Quan niệm của họ có vẻ rất dị thường. Một số vị Phật trong quá khứ đã cho biết những khía cạnh sau đây:
- Người đã chứng ngộ tâm linh hay nói nhiều đến “chân lý” nhằm chỉ trạng thái biểu hiện của sự vật như nó vốn là. Chúng ta có thể đã biết các chân lý tương đối trong cuộc sống thường ngày như màu sắc, âm thanh, ánh sáng, tình yêu, niềm vui, nỗi buồn v.v... Các vị Phật còn biết được chân lý tối thượng – trạng thái hoà đồng với cái Một. Kinh nghiệm cho thấy rằng, chân lý thực sự chỉ có thể được biết đến khi con người ở trong im lặng và dường như tan biến vào sự vật tương ứng.
- Dưới con mắt của một vị Phật, mỗi sinh linh hiện hữu trong vũ trụ đều là phần không thể tách rời của cái Một. Như vậy, sự phân tách cá thể này với cá thể khác (con người và động vật) là trái với chân lý tối thượng.
- Ngôn ngữ cơ bản của các vị Phật là “im lặng”. Vì sao vậy? Theo thuyết tâm linh, mỗi cá nhân có thể trở nên đồng nhất với cái Một chỉ khi ở trong trạng thái im lặng tuyệt đối. Đó là sự chứng nghiệm tối thượng mà con người có thể trải qua. Một người đã chứng ngộ tâm linh cảm nhận trực tiếp các sự vật xung quanh mình mà không có sự diễn giải của tâm trí thông qua ngôn ngữ nhị nguyên (thường sử dụng các khái niệm tương phản). Các vị Phật dễ dàng “trò chuyện” với nhau bằng kênh im lặng vì tâm trí của họ cùng đồng nhất với tâm trí vũ trụ. Thậm chí, một số vị Phật sau khi chứng ngộ tâm linh nhiều năm đã gặp khó khăn trong việc sử dụng ngôn ngữ lời nói để thuyết giáo trước các đệ tử.
- Vị Phật hiểu rất rõ điều sau đây: không thể dùng ngôn ngữ của tâm trí để mô tả chân lý tối thượng một cách trực tiếp và đúng đắn. Bởi vậy, mọi sự diễn giải bằng lời về chân lý tối thượng đều mang tính ẩn dụ, tương tự hoặc gần đúng.
Hầu hết những điều nêu ra trên đây ít nhiều đã được thể hiện trong nội dung của tác phẩm Đạo Đức Kinh.
Nguồn gốc của Đạo Đức Kinh
Đạo Đức Kinh là tác phẩm duy nhất của Lão Tử. Nó bao gồm trên 5000 chữ tượng hình, được chia thành 81 chương. Cách kết cấu và sắp đặt các chương có vẻ thiếu mạch lạc. Đạo Đức Kinh có dạng như một tập cách ngôn bằng thơ tự do hoặc văn xuôi có nhạc điệu. Một số nội dung của tác phẩm có thể đã được thêm vào bởi những người hậu thế.
Truyền thống của các vị Phật cho thấy rằng, người chứng ngộ tâm linh xưa nay luôn từ chối viết lại những điều bản chất mà họ biết. Lão Tử cũng nằm trong số đó. Tồn tại truyền thuyết sau đây nói về nguồn gốc ra đời Đạo Đức Kinh:
Lão Tử đã sống trong im lặng liên tục nhiều năm. Ông bao giờ cũng tránh việc nói về chân lý tối thượng mà mình đã đạt tới và bao giờ cũng bác bỏ ý kiến ghi chép lại những điều minh triết cho các thế hệ sau. Vào độ tuổi chín mươi, ông rời bỏ các đệ tử của mình để đi lên dãy núi Himalaya sống quảng đời còn lại. Khi Lão Tử đi qua biên giới, một lính gác vốn là đệ tử của ông đã bắt giữ ông và ra điều kiện: “Chừng nào thầy chưa viết xong một cuốn sách thì con sẽ không để cho thầy vượt qua biên giới”. Lão Tử không còn cách lựa chọn nào khác, nên ông đã phải cấp tốc viết Đạo Đức Kinh trong thời gian rất ngắn là ba ngày.
Các khái niệm kỳ lạ trong Đạo Đức KinhTrong tác phẩm Đạo Đức Kinh đã đưa ra các khái niệm khó hiểu mà ý nghĩa của chúng được diễn giải cụ thể theo thuyết tâm linh. Cần lưu ý rằng, các từ được nói tới có thể có nghĩa khác nhau tuỳ theo văn cảnh. Sau đây là một số đáng chú ý.
Đạo – Nghĩa chính của từ này đã được Lão Tử dùng để chỉ nguyên lý tuyệt đối hay bản thể của vũ trụ: “...Sinh trước Trời đất/ .../ Có thể là Mẹ thiên hạ/ Ta không biết tên/ Gọi đó là Đạo... ” (chương 25, bản dịch của Thu Giang Nguyễn Duy Cần). Theo Lão Tử, đó là nguyên thuỷ của cái Một vô giới hạn, không sinh không diệt, không tăng không giảm, trống rỗng, trong suốt, im lặng, thụ động, chi phối mọi sự vật, phi nhân tính... Theo thuyết tâm linh, đó là đại dương tâm thức hay tâm thức vũ trụ lớp năng lượng thuần khiết có ý thức liên kết mọi sự vật của vũ trụ thành một thể thống nhất (cái Một). Con người biết Đạo chỉ sau khi trở thành vị Phật, tức là chứng ngộ tâm linh hay vượt lên trên tâm trí. Một hình ảnh tượng trưng của Đạo là không gian trống rỗng.
Từ “đạo” còn được Lão Tử sử dụng để chỉ cái thống nhất của một sự vật (chẳng hạn như ngày đêm, thở vào thở ra, mưa nắng, yêu ghét, vui buồn...), chỉ cách thức hành xử của thế giới tự nhiên và con người v.v...
Đức – Từ này xuất hiện trong Đạo Đức Kinh ít hơn rất nhiều so với từ Đạo. Ngoài nghĩa thông thường, từ Đức đã được sử dụng để chỉ nguyên lý tương đối hay quy luật hữu hình của cái Một: “Dáng của Đức lớn/ Theo cùng với Đạo/...” (chương 21). Nhờ có Đức mà mọi sự vật của vũ trụ đã được hình thành và tiến hoá một cách mạnh mẽ. Đáng chú ý là qua tâm trí, con người cảm nhận thế giới sự vật một cách rời rạc.
Vô vi, hữu vi – Do các vị Phật đã vượt lên trên tâm trí cá nhân, nên các hoạt động của họ diễn ra một cách trực giác (không bị ảnh hưởng bởi quá khứ và tương lai). Trong trường hợp đó, về bản chất chỉ có việc làm chứ không có tác nhân tham gia, tựa như xảy ra hiện tượng thiên nhiên. Sự hoạt động với trạng thái “không” của nội tâm con người như vậy chính là “vô vi” (có làm mà dường như không có người làm). Bởi vậy, vô vi không có nghĩa là không làm gì, nó có nghĩa là làm một cách phi bản ngã. Xét rộng hơn, mọi việc làm vô vi đều diễn ra một cách tự nhiên, mềm dẻo, khôn khéo, hài hoà với cái Một. Suy ra, “hữu vi” được dùng để chỉ sự hoạt động phi tự nhiên, cứng nhắc, thô thiển, thái quá mà một cá nhân đầy đủ bản ngã có thể tiến hành.
Vô danh, hữu danh – Dưới con mắt của vị Phật thì mọi sự vật đều là vô danh vì chúng gắn kết hữu cơ với nhau trong cái Một. Ngoài ra, vô danh còn có nghĩa “không thiên vị” trước mọi sự vật. Việc gọi tên (hữu danh) bất kỳ cái gì sẽ kéo theo sự phân tách nó với cái tổng thể.
Bất ngôn – Nó có nghĩa chính là “im lặng”. Xét rộng hơn, bất ngôn còn ám chỉ tính hành động thay lời nói.
Thánh nhân – Nghĩa chính của từ này đã được Lão Tử sử dụng để chỉ một cá nhân đã chứng ngộ tâm linh (vị Phật) và chấp nhận sự hoạt động trong cuộc sống đời thường, kể cả ở tầng lớp cai trị. Điều này trái với quan niệm của hầu hết các vị Phật đã thể hiện là xa lánh lối sống đại chúng. Ngoài ra, cũng có thể coi Thánh nhân là ai đó đã thấu hiểu những điều minh triết về thiên nhiên và con người do các vị Phật truyền lại.
Luật âm dương và Đạo Đức Kinh
Lão Tử đã thấu hiểu quy luật âm dương trong thế giới hữu hình: “... Trong vạn vật không vật nào mà không cõng Âm và bồng Dương... “ (chương 42). Một vị Phật dễ dàng nhận biết được rằng, mọi sự vật tồn tại trong mối quan hệ với các yếu tố tương phản là phần bù của nhau, chứ không phải đối kháng hoặc triệt tiêu lẫn nhau. Các biểu hiện thái quá (cực âm hoặc cực dương) sẽ nhanh chóng chuyển sang cực đối diện; sự ổn định của sự vật chỉ có thể đạt được bằng cách quân bình âm dương. Các hiện tượng và phương sách quân bình âm dương đã được Lão Tử nói đến khá nhiều: “... Có với không cùng sinh/ Khó với dễ cùng thành/ Cao và thấp cùng chiều/ Giọng và tiếng cùng hoạ/ Trước và sau cùng theo... ” (chương 2); “... Gió lốc không thổi suốt một buổi mai/ Mưa rào không mưa suốt một ngày trường...” (chương 23); “... Muốn ngồi trên dân/ Hẳn lấy lời mà hạ mình/ Muốn đứng trước dân/ Hẳn lấy mình để ra sau... ” (chương 66).
Khái quát về nội dung của Đạo Đức Kinh
Có thể nói, Đạo Đức Kinh là tác phẩm trình bày nhãn quan của một vị Phật về các vấn đề tự nhiên, chính trị – xã hội và đời sống con người. Sau đây sẽ xem xét khái quát một số điểm đáng chú ý.
Quá trình hình thành vũ trụ: Lão Tử coi bản thể vũ trụ là Đạo, mọi thứ hữu hình và vô hình của sự tồn tại đều phát sinh từ đó: “Đạo sinh ra một/ Một sinh ra hai/ Hai sinh ra ba/ Ba sinh ra vạn vật... ” (chương 42). Có hai cách chú giải đoạn trích này.
Cách chú giải thứ nhất - trước hết, một môi trường khí trung tính (Thái cực) đã phát sinh từ Đạo; tiếp đến, Thái cực được phân thành Âm và Dương đồng thời; ngay lập tức, quy luật âm dương bắt đầu vận hành cùng 2 yếu tố Âm và Dương tham gia vào quá trình kiến tạo và tiến hoá của mọi sự vật.
Cách chú giải thứ hai - trước hết môi trường khí vô hình hay yếu tố Âm đã phát sinh từ Đạo; tiếp đến, một phần của Âm biến thành Dương; ngay lập tức, quy luật âm dương vận hành cùng hai yếu tố Âm và Dương tham gia vào quá trình kiến tạo và tiến hoá của mọi sự vật. Rõ ràng, cách chú giải này có vẻ hợp lý hơn và không đòi hỏi đưa vào khái niệm Thái cực.
Như vậy, theo cả hai cách chú giải thì quy luật âm dương đóng vai trò động lực để tạo ra vạn vật và tương đồng với khái niệm Đức mà Lão Tử đã sử dụng. Điều thú vị là từ cách chú giải thứ hai đã làm nảy sinh ý tưởng về cái được gọi là quy tắc “Âm có trước Dương” chỗ dựa để giải đoán một số câu hỏi hóc búa. Thí dụ, giống cái hay giống đực có trước? Quả trứng hay con gà có trước? Thực vật hay động vật có trước? Theo quy tắc đó có thể trả lời: giống cái có trước giống đực; quả trứng có trước con gà; thực vật có trước động vật (?).
Vấn đề Thượng Đế: Nếu coi Thượng Đế là một Đấng tối cao có nhân tính và năng lực siêu phàm tạo ra tất cả vạn vật thì trong Đạo Đức Kinh không có đối tượng nào dạng đó. Tuy nhiên, có thể nói Lão Tử là một nhà duy tâm và đồng thời là nhà duy vật vĩ đại nhất vì chính ông đã hoà nhập và thấu hiểu Thượng Đế theo nghĩa bản thể của cái Một, tức là Đạo. Không chỉ Lão Tử, nhiều vị Phật khác cũng đã hoà nhập và thấu hiểu Thượng Đế như vậy. Vì luôn giữ thái độ im lặng trước điều đó nên người ta lầm tưởng họ phủ nhận Thượng Đế nói chung. Chính các vị Phật đã đưa ra câu mật chú “Ta là Thượng Đế”.
Một số nhà nghiên cứu tin rằng, nhiều điểm triết thuyết về toàn bộ sự tồn tại (cái Một) và bản thể của nó (Đạo hay Thượng Đế) mà Lão Tử cũng như các vị Phật đã nói tới có ý nghĩa đặc biệt và ít phụ thuộc vào thời gian.
Vấn đề chứng ngộ tâm linh: Lão Tử gọi sự chứng ngộ tâm linh (đạt đến quả vị Phật) là đắc Đạo. Ông cũng đã chỉ rõ những nét cơ bản để tu luyện nhằm hướng tới thành đạt quả vị này:
“... Thường không tư dục mới nhận được chỗ huyền diệu của Đạo/ Thường bị tư dục nên chỉ thấy chỗ chia lìa của Đạo... ” (chương 1);
“Theo học, càng ngày càng thêm/ Theo Đạo, càng ngày càng bớt/ Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi/ Không làm mà không gì là không làm... ” (chương 48).
Theo thuyết tâm linh, điều kiện cần và đủ để một người trở thành vị Phật là vượt lên trên tâm trí cá nhân, tức là triệt tiêu tư dục (bản ngã). Lão Tử cũng đã mô tả một số tính cách dị thường và khả năng phi phàm của một vị Phật:
“Người đời vui vẻ/... Riêng ta im lặng/ Chẳng dấu vết chi/ Như trẻ sơ sinh/ Chưa biết tươi cười/... Người đời sáng chói/ Riêng ta mịt mờ... “ (chương 20);
“Không ra khỏi cửa/ Mà biết việc thiên hạ/ Không nhìn ngoài cửa/ Mà biết đạo Trời/... Không thấy mà hiểu/ Không làm mà nên” (chương 47).
Phép xử thế: Với Lão Tử, nền tảng của phép xử thế mọi việc trong đời sống mỗi người và toàn xã hội nên dựa theo Đạo, cái Một và quy luật âm dương. Thánh nhân là người có thể dễ dàng thực hiện được điều đó. Sau đây là một số phương sách xử thế mà Lão Tử đã đề cập đến:
- Mỗi người trước hết phải làm chủ được bản thân và điều đó là rất khó: “Biết người là trí/ Biết mình là sáng/ Thắng người là có sức/ Thắng mình là mạnh/ Biết đủ là giàu... ” (chương 33).
- Duy trì sự vật một cách tự nhiên, khi cần tác động bằng việc làm thì thực hiện một cách vô vi và kịp thời: “... Để cho vạn vật nên mà không cản/ Tạo ra mà không chiếm đoạt/ Làm mà không cậy công...” (chương 2); “... Ngăn ngừa khi chưa hiện/ Sửa trị khi chưa loạn... ” (chương 64).
- Nên thu phục lòng người bằng bất ngôn hay hành động khôn khéo: “...Cảm hoá người mà không tổn thương/ Kéo cho ngay mà không sửa dạy/ Rọi ánh sáng mà không chói loà” (chương 58).
- Nên áp dụng các thủ pháp âm dương để giải quyết vấn đề: “... Xem lớn như bé/ Coi nhiều như ít/ Lấy đức báo oán/ Làm việc khó, bắt đầu nơi dễ/ Làm việc lớn, bắt đầu nơi bé... ” (chương 63).
- Không nên tạo ra những gì thái quá trong xã hội để tránh sự chuyển đổi bất lợi sang cực đối diện.
Phép dưỡng sinh: Người ta thường nói tới một điều giống nhau giữa các vị Phật và đứa trẻ sơ sinh là ở họ luôn giữ được trạng thái thuần khiết của tâm trí và hoà nhập với cái Một. Đôi khi họ vô sự trước loài vật nguy hiểm: “Kẻ mà Đức dày/ Giống như con đỏ/ Độc trùng không cắn/ Thú dữ không ăn... ” (chương 55).
Cần lưu ý rằng, Lão Tử không đề xuất phép dưỡng sinh nào đặc biệt, các vị Phật đều có trạng thái nội tâm giống như đứa trẻ. Họ vẫn có thể bị đau yếu và bệnh tật thông thường, kể cả các bệnh nan y. Tuy nhiên, các vị Phật đã thấu hiểu sự trường sinh bất tử theo nghĩa bản thân họ đồng nhất với Đạo.
Tóm lại, có thể coi Đạo Đức Kinh là “học thuyết” của một vị Phật về thế giới tự nhiên và con người. Giả định về sự chứng ngộ tâm linh của Lão Tử cho phép tiếp cận tác phẩm của ông một cách dễ dàng và có hệ thống. Khi đó, hầu hết các luận điểm mà Lão Tử đã đề cập đến đều xuất phát từ nhãn quan của một vị Phật trên quy mô cái Một với bản thể là Đạo và bị tác động bởi quy luật âm dương. Điều này có lẽ là chìa khoá để khám phá Đạo Đức Kinh sâu hơn.
Trần Văn
Theo KNTL
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.
10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS) Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides