Đại Đạo tạo con đò cứu khổ, Hướng đạo cần tự độ, độ tha. Năm chi bảy phái hiệp hòa, Trương cờ Đại Đạo xây tòa vạn linh.

LỜI GIAO CẢM

LỜI GIAO CẢM
(Kích vào hình ảnh để xem tiếp lời giao cảm)
  Xin chân thành cảm ơn quý huynh, tỷ, đệ, muội và quý độc giả đã ghé thăm NGÔI NHÀ ĐẠI ĐẠO
Hiển thị các bài đăng có nhãn SỰ NGHIỆP TRUNG HƯNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SỰ NGHIỆP TRUNG HƯNG. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 3 tháng 5, 2021

BỬU CHƯƠNG PHÁP ĐẠO


(Sự Nghiệp Trung Hưng / Phạm Văn Liêm)


Khi đạo trưởng Thanh Long Lương Vĩnh Thuật (Tổng Đại Diện Ngoại Giao) quy thiên, Tòa Tổng Đại Diện được thu gọn lại là Văn Phòng Liên Giao Hội Thánh, do đạo trưởng Bạch Hổ Trần Quang Châu đảm trách, Thượng Giáo Hữu Ngô Thanh Khuyến làm phụ tá.
Trong hai năm 1983-1984, tiếp nối con đường khai sinh cơ thông của Hội Thánh, bổn đạo miền Trung vào các khu khẩn hoang lập ấp ở Buôn Mê Thuột, Võ Đắc, Võ Xu, Mê Pu, Long Khánh, Dầu Giây, Bảo Chánh, Định Quán, La Ngà, Gia Lai, Kon Tum; tuy nhiên, bổn đạo không ổn định được về chỗ ở và tín ngưỡng. Được lệnh Hội Thánh, Văn Phòng Liên Giao lập phái đoàn đến từng nơi ấy thăm viếng bổn đạo, chăm sóc về mặt tín ngưỡng, tu học cho thích nghi hoàn cảnh bấy giờ.
Tại Hội Thánh (Trung Hưng Bửu Tòa), nhân sự quá thiếu thốn vì bị áp lực kinh tế, tuổi tác và hoàn cảnh, làm cho người chăm lo Giáo Hội càng ít đi. Hội Thánh tưởng như sắp bước vào chỗ tiêu trầm. Nhưng nhờ chính sách đổi mới, các hướng đạo hiệp tâm lo trùng tu, xây dựng các thánh sở. Hội Thánh lập thánh thất Trung Hội ở thị xã Pleiku (tỉnh Gia Lai) năm 1986-1987. Những năm sau thành lập thêm thánh thất Trung Bảo ở Bảo Chánh (xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai), Trung Đắc ở Võ Đắc (thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận), Trung Thạnh ở xã Mê Pu (huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận).
Giai đoạn nầy Đức Chí Tôn ban ơn khai cơ thành đạo phục hồi sứ mạng. Tại Huyền Quan Đàn, ngày 14-10 Đinh Mão (04-12-1987), Đức Cao Đài Giáo Chủ dạy:
Đây đánh dấu một giai đoạn trung hưng giáo pháp, bước đạo được thành hình là ngày toàn đạo tiếp thu thánh truyền luyện tu tánh mạng. Nhưng nay các con là người đi trước, phải chứng lấy đạo quả tại tiền. Có đủ oai đức thần thông, đạt qua quá khứ, thấu hiểu vị lai mầu nhiệm, thông cơ, thì mới chuộc lại pháp quyền sứ mạng trung hưng. Vì vậy giai đoạn nầy là giai đoạn thành đạo. Bước tu các con từ nay là bước tu thành công. Vậy các con phải hiểu sứ vụ Thầy dành, lo tu cho đắc đạo, thì mọi việc được nên trọn.
Nhân kỷ niệm ba mươi hai năm thành lập Hội Thánh, ngày 01-6 Mậu Thìn (14-7-1988), một đại hội được triệu tập nhằm thống nhất Hội Thánh về tổ chức, kiện toàn cơ cấu lãnh đạo, trong đó có việc tôn cử chức sắc vào chức vụ chủ trưởng, đồng thời đặt để chức sắc lo sưu tập thánh ngôn, thánh giáo để tiến hành kết tập Bửu Chương Pháp Đạo.
Việc kết tập Bửu Chương Pháp Đạo đã có lệnh Ơn trên từ thời chỉnh cơ. Hai chức sắc đặc trách là Giáo Sư Thượng Chí Thanh và Thừa Sử Quân Hồ Tân Sinh đã gia công nhiều thời gian nhưng việc chưa thành.
Ngày 27-11 Mậu Tuất (06-01-1959), Đức Lý Thái Bạch dạy:
Sắp loại theo Bửu Chương. Làm được thì nên soạn theo lối kinh văn Lăng Nghiêm, còn không thì như Hiệp Tuyển cũng được. Nhưng sẽ ra một bản kinh trong thời trung hưng đạo pháp. Nếu được ân phước nơi đây đón tiếp thì quý biết chừng nào.
Thừa Sử Quân Hồ Tân Sinh tiếp tục đảm nhiệm việc kết tập nầy. Sau khi Giáo Sư Thượng Chí Thanh quy thiên, Thừa Sử vẫn dành nhiều thì giờ gom thánh ngôn, thánh giáo sắp xếp theo thứ tự thời gian rồi phân thành đề mục. Tiếp Cơ Quân Liên Hoa cũng góp sức vào, sơ bộ hình thành được mấy chương tại Hội Thánh Truyền Giáo. Khi Tiếp Cơ Quân Liên Hoa vào Nam, có tiếp tục một vài chương nữa, trong đó có Đạo Học Chỉ Nam tại Minh Lý Thánh Hội. Tuy nhiên tất cả đều còn ở bản chép của điển ký. Nay đặt lại vấn đề Bửu Chương, Tiếp Cơ Quân Liên Hoa tham gia cùng Thừa Sử về mặt thủ cơ chấp bút.
Để thực hiện kết tập Bửu Chương, Hội Thánh lập đàn cầu xin Ơn Trên hướng dẫn. Ngày 04-10 Mậu Thìn (12-11-1988), Đức Chí Tôn dạy:
NGỌC quý sao bằng giá BỬU CHƯƠNG
HOÀNG triều ban bố PHÁP muôn phương
THƯỢNG đài Thầy ngự cao cao vút
ĐẾ tại lòng con ĐẠO một đường.
THẦY CÁC CON
Thầy mừng các con.
Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo.
Pháp Bảo gồm Kinh, Luật, Luận.
Mỗi lời Phật dạy theo từng thời pháp, lời nói gì cùng đệ tử để dặn dò khuyên nhắc, đều được A Nan thuật lại thành kinh điển. Kinh còn loại không văn tự như chánh pháp nhãn tạng biệt truyền cho Ma Ha Ca Diếp.
Luật Phật truyền thụ cho chư tăng giữ gìn tu hành gồm các giới.
Luận là những bài do hàng đệ tử thâm đắc Phật pháp viết để xiển minh cho hậu thế rõ Phật ý chân truyền.
Thầy kỳ nầy dạy đạo phương Nam dặn các con về nương Tam Bảo. Và Thầy cũng nói rõ Phật là Thầy. Pháp Chánh Truyền, Tân Luật và các thánh ngôn xưa nay và sau nầy, cùng các bài luận về giáo lý Đạo Thầy do các con viết giảng cũng là Tam Bảo đó.
Thầy bảo các con kết tập BỬU CHƯƠNG PHÁP ĐẠO là làm thành bộ Đại Tạng Cao Đài đó.
Thầy hợp ý cùng các Đấng vô hình và ý các con, vạch cho các con mười hai chương đây, để các con theo đó kết tập. Việc làm nầy không do sức người làm nên. Có Thầy “vô vi nhi dịch sử”, “bất ngôn nhi mặc tuyên”. Có khi viết qua tay con nầy con khác vô ngại. Thầy buộc con nào cũng vì Đạo quên thân, tâm hồn trong sáng an lặng mới làm được tròn đầy thánh vụ này nghe.
Đây, tên của mười hai chương:
1. Thiết Lập Giáo Hội
2. Chơn Giáo Đại Thừa
3. Thánh Truyền Trung Việt Thời Truyền Giáo
4. Nội Vụ Và Thiên Ân Thời Trung Hưng
5. Giáo Hóa Thời Trung Hưng
6. Lý Giải Thời Trung Hưng
7. Chánh Thể Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
8. Quyền Hành Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
9. Đường Vào Bí Pháp Vô Vi
10. Thánh Giáo Khắp Nơi
11. Đạo Học Chỉ Nam
12. Phương Châm Sống Đạo
Các con hội ý cùng Thầy, tùy duyên thay đổi thứ tự và phân tách bổ túc phần chi tiết mỗi chương.
(…) Bây giờ Thầy phán điều cuối cùng.
Có Thầy hằng hữu, có Hội Thánh khắp nơi, mà không có Kinh, Luật, Luận gọi là Pháp Đạo thì lấy chi làm bảo vật vô giá để gọi đủ Tam Bảo, con?
Sứ mạng nầy các con cùng Thầy chung lo.
Thôi, các con làm việc. Thầy sẽ viết về Tăng Bảo để các con thấy “Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy” và để các con thấy Kinh, Luật, Luận có giá trị thế nào, tùy thuộc giá trị tu hành của các con. Các con tu tâm hành đạo. Kinh, Luật, Luận được sáng nghĩa qua đời sống các con.
Phỏng sử ([1]) Kinh, Luật, Luận bị thiêu hủy ra tro như cỡ Tần phần thơ, Thầy vô ngại. Các con không lo sợ, vì các con là Kinh, Luật, Luận đó.
Các con và Thầy còn, là còn tất cả.
Phaolồ là ai ? Là tay phá đạo Chúa Giêsu đó, mà Chúa chọn người làm sứ vụ truyền giáo, người viết cho Giáo Hội lời bất hủ. Các con đừng lo chi. Mọi sự dinh hư tiêu trưởng do Thầy vận chuyển cơ mầu.
Thầy nói cạn lời, con rõ.
Ánh sáng quý báu từ Thầy đã soi rọi vào cái sở kiến còn mù mờ về Bửu Chương Pháp Đạo bấy lâu. Thật là:
Có người cũng có Trời thêm sức
Trời hợp cùng người mới đủ tay.
Ngày 09-01 Giáp Dần (31-01-1974), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Trời mở Đạo Kỳ Ba cứu thế
Bảng Thiên thơ ghi để tận tường
Hệ đồ lắm mục nhiều chương
Phân thành đủ loại, đủ phương lạ lùng.
Nhất vạn giáo, mà trung vạn pháp
Hòa vạn dân, tổng hợp vạn thù
Quy nguyên Gia, Lão, Thích, Nhu
Cậy tay nhân thế vận trù thi công.
Dù có phần “dịch sử vô vi” của Thiêng Liêng nhưng Hội Thánh Truyền Giáo cần phải kết hợp với các Hội Thánh bạn, các bậc trí thức Cao Đài, các bậc chân tu đạo hạnh mới mong có được Đại Tạng Cao Đài. Đại Tạng Cao Đài là giải pháp cứu thế, giúp cho nhân loại thấy được:
Đạo hẳn không riêng, Gia Lão Thích Nho đồng đạo cả
Trời đâu có phụ, Úc Phi Âu Mỹ vẫn trời chung.
và làm cho thế giới tương tranh duy vật chất, duy tâm linh trở nên đề huề an thuận, như lời Đức Trần Hưng Đạo dạy tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 09-01 Giáp Dần (31-01-1974):
Duy vật chất, bá cường lãnh đạo
Duy tâm linh, tôn giáo chủ trì
Duy duy bất nhứt tương ly
Bất đồng tư tưởng thị phi tranh giành.
Chấp mới xướng bình hành tâm vật
Lệch mới nên hiệp nhất Thiên nhân
Mạch dòng, gốc ngọn cân phân
Rẽ chia thần với vô thần đâu hay.
Khi khoa học bắt tay tôn giáo
Chính trị cùng noi đạo Thánh Hiền
Là ngày thế giới ổn yên
Nhân gian bá tánh phỉ nguyền ước ao.
Đó là đêm trăng sao rực rỡ
Đó là ngày muôn thuở đợi trông
Tự do, hạnh phúc, đại đồng
Phóng tầm tư tưởng huyền thông cõi ngoài.
Để rồi sẽ được như lời Bạch Phụng Đồng Tử dạy tại thánh thất Trung Thành ngày 15-7 Mậu Dần (10-8-1938):
Quảng truyền Á Mỹ Phi Âu
Đồng bào vạn quốc năm châu một nhà
Ai ai cũng thờ Cha Thượng Đế
Người người đều đồ đệ Tiên Ông
Khắp cùng Nam Bắc Tây Đông
Không giàu không khó, cũng không sang hèn
Đã không kẻ đua chen lấn lướt
Lại không tuồng mạnh được yếu thua
Không còn trộm cướp sớm trưa
Cửa ngoài không đóng gió mưa điều hòa.
Và cũng được như lời Đức Trần Hưng Đạo dạy tại thánh thất Trung Thành ngày 20-11 Kỷ Mão (30-12-1939):
Chuông khử ám gióng rung inh ỏi
Trống truy hồn kêu gọi rền vang
Đưa tay dắt khách lên đàng
Tuốt gươm dứt sạch cái màn vô minh.
Cho mình biết thân mình nghiệt khổ
Cho đời hay đời chỗ hý trường
Không còn ghét, chẳng còn thương
Nhơn sanh đã bước vào đường tự do.
Người sống chung trong lò Tạo Hóa
Đời hưởng chung trên đóa thiên luân
Tâm không muôn vật đều không
Chung nhau hưởng phước đại đồng nơi nơi.
Dưới chế độ hết người nô lệ
Ngoài dã lâm không kẻ quan cô
Mênh mông bốn bể năm hồ
Trời là chủ tể, cơ đồ là dân.
*
Sự nghiệp trung hưng do Ơn Trên gầy dựng tại Trung Việt trải qua nhiều thời gian, nhiều biến thiên. Đến nay sự nghiệp hầu như đã bước vào cõi miền thành tựu. Tuy nhiên muốn đạt được kết quả vững bền còn cần phải vâng ý thánh, tiếp tục giồi luyện không ngừng như lời Đức Cao Đài Thượng Đế dạy tại Huyền Quan Đàn ngày 14-10 Kỷ Tỵ (11-11-1989):
Vậy các con nên nhớ đây là sứ mạng trung hưng chánh pháp xây dựng Giáo Hội Cao Đài duy nhứt. Đây là tượng trưng mô hình thánh thể duy nhứt chơn truyền, thì người các con phải có tư cách đạo đức thế nào mới gánh nổi trách nhiệm nầy.
Cơ đạo ngày nay đòi hỏi các con phải tu chứng thánh tâm, thành hình thánh thể, chứng lấy đạo quả La Hán tại tiền, thì mới đủ quyền pháp làm cho thánh thể thị hiện khắp nơi. Có oai đức, có thần thông mới đủ gây uy tín cho nhơn gian, chuộc lại hồng ân sứ mạng. Đây là một hồng ân đặc biệt, các con phải cảm thông phát tâm Bồ Tát mới gánh nổi bước đạo trung hưng.
Thầy đã chủ tọa nơi đây thì bao nhiêu họa tai cũng lần lần giảm sạch. Người các con được điển linh hộ độ thì các con mới trở nên Thần Thánh uy linh, mới thông công cùng Thầy và chư Phật Tiên, Thần Thánh được. Nên việc tu, việc học, việc làm của mỗi con là việc làm của Thiên cơ vạn hóa. Vậy từ đây các con phải phát tâm đại nguyện làm một vị Bồ Tát xả thân theo Thầy, cứu độ vạn linh, xây dựng Giáo Hội Cao Đài duy nhất. Được vậy Thầy với các con là một, vinh hiển biết bao.
Ban sơ, tại thánh tịnh Đại Thanh, ngày 24-7 Giáp Tuất (02-9-1934), Đức Chí Tôn dạy:
NGỌC chỉ ban ra dạ nghẹn ngùng
HOÀN(G) cầu thế giới vẫn trời chung
THƯỢNG cờ quy nhất minh chơn đạo
Đế mạng chừ ai gánh vác cùng?
Bây giờ đến giai đoạn thành tựu, Đức Chí Tôn vẫn răn nhắc từng ngày từng giờ, như lời Thầy dạy tại Huyền Quan Đàn ngày 15-7 Tân Mùi (24-8-1991):
NGỌC lành đợi giá thử về ai
HOÀNG phụ chờ thi chọn đức tài
THƯỢNG hạ thứ ngôi theo đức hạnh
ĐẾ truyền sức dụ pháp quyền khai.
Thầy mừng các con.
THI
Chánh pháp nhiều người hiểu biết sai
Chỉ đâu hình tướng ở bên ngoài
Chánh tâm diệt dục Như Lai hiện
Phá vọng hiển chơn trí huệ khai
Đóng cửa luân hồi ơn tận độ
Lấp bằng biển khổ pháp Cao Đài
Nhờ tu mà được lên Tiên Phật
Khó nhọc đừng nao mới gọi tài.
TRUNG HƯNG THÁNH DỤ
Tài trí bởi mượn vay học hỏi
Do giác quan đâu gọi rằng chơn
Siêu quần bạt chúng dầu hơn
Tâm còn mê vọng có ơn ích gì.
Đến khi nào thoát ly ngã chấp
Vượt phàm tình mới gặp bản lai
Vô vi chứng ngộ Cao Đài
Thị thính ngôn động ba tài phối trương.
Đó mới gọi tình thương chơn chánh
Đó mới rằng công hạnh cao siêu
Pháp quyền đáng kính đáng yêu
Toàn bằng thánh thiện Thiên điều ban ra.
Phước huệ rộng bao la trời đất
Xen ý phàm thì mất lẽ công
Thuần chơn vô ngã đại đồng
Trong ngoài nhất trí suốt thông hài hòa.
Tu để trừ cái ta tham vọng
Tịnh để cho lặng lóng não phiền
Ngoài không vướng mắc trần duyên
Trong không động loạn tâm điền rỗng rang.
Cơ năng của giác quan trong sạch
Đó mới là phẩm cách Thiên ân
Sống cho đời sống tinh thần
Còn gì mà chẳng hiến dâng cho Thầy.



Thầy trong tâm, tâm nầy Thầy ngự
Thầy toàn quyền dịch sử khiến sai
Thân tâm công vụ của Ngài
Khiến sao làm vậy đâu hai ba lòng.
Đó mới gọi Thiên phong nòng cốt
Đạo thêm nhiều trụ cột Thiên ân
Trung hưng sứ mạng đương cần
Nhiều người giác ngộ hiện thân pháp quyền.
Để nắm giữ mối giềng nền đạo
Để xương minh chánh giáo chơn truyền
Tu cho đến bậc châu viên
Tâm bình tánh định hành quyền mới linh.
Quyền trong pháp phát sinh diệu dụng
Pháp trong quyền ơn sủng nào hơn
Được vầy giáo chúng gội ơn
Không vầy tất bị khinh lờn hư danh.
Rồi chánh giáo biến thành phàm giáo
Có lớn lao cũng Đạo không hồn
Tách rời nguyên thể Chí Tôn
Cây to mất gốc trường tồn được sao?
Ơn tận độ Thầy trao sứ mạng
Cơ quy nguyên làm sáng danh Thầy
Đừng xen phàm ý dựng xây
Mà hư mối đạo của Thầy nghe con.
Nhờ tu hành mà con đắc đạo
Đạo không do nhơn tạo mà thành
Do con nỗ lực tu hành
Phối cùng trời đất trọn lành hồn nhiên.
Hiện Thánh sống tại tiền đời biết
Bày cái tâm siêu việt vô sanh
Đạo thì vô xú, vô thanh
Vô công, vô kỷ, vô danh, vô hình.
Đạo nơi tâm chúng sanh không thấy
Bởi dục tình trái quấy che ngăn
Mây mù án lấp mặt trăng
Mây tan trăng tỏ sáng giăng đầy trời.
Muốn thấy Đạo nhìn người đắc đạo
Biết có Thầy ẩn náu bên trong
Hiện ra Đạo cốt Tiên phong
Oai nghi đạo đức tác phong hiền hòa.
Con trong Cha và Cha trong trẻ
Gốc nơi Thầy muôn vẻ nơi con
Thi vi trọng dụng vuông tròn
Không kiêu kẻ dưới, không lòn người trên.
Hội Thánh nên thì nên tất cả
Hội Thánh hư hiểm họa phơi bày
Giáo quyền ma đạo đến thay
Vạn linh Tam Hội vào tay tà thần.
Nên khuyên con ân cần thận trọng
Để mắt tai nghe ngóng trong ngoài
Xét mình sửa lỗi đổi sai
Kiểm tu nội bộ đừng ai lỗi lầm.
Giữa Lưỡng Đài tâm tâm tương khế
Cấp thừa hành trực hệ tương y
Dưới trên khước bác điều chi
Vui nghe cái thiện tương tùy thông lưu.
Người quân tử vô ưu vô lự
Đứa tiểu nhơn sinh sự sự sinh
Tiếp thu tôn trọng ý lành
Bất câu phải trái tu hành bao dung.
Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng, Bát Quái
Tạng Như Lai phát khải Tam Kỳ
Mười phương ngưỡng hội quy y
Vô vi giải thoát, hữu vi đại đồng.
Thể Tướng Dụng Phật tông, Nho, Đạo
Tinh Khí Thần pháp bảo hóa thân
Cao Đài thị hiện tại trần
Như Dịch vô thể, như Thần vô phương.
Thần diệu dụng khó lường đón nổi
Dịch tác vi biến đổi khôn lường
Rưới ban pháp dược tình thương
Khai cơ giáng điển mười phương đồng thời.
Không riêng chi ở nơi giáo sở
Mà y nhiên một cỡ giáo quyền
Thấy trong tất cả tâm điền
Khiến lòng tỉnh ngộ quy nguyên về Thầy.
Chuyển hướng đi Đông Tây cải thiện
Vận dụng nhiều phương tiện canh tân
Bao nhiêu nhánh nhóc tỉa lần
Cây to gốc lớn búa thần hạ sau.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Từ từ Thầy vẫn thiết tha
Trông cho con trẻ cải tà hồi tâm.
Tâm hanh Phục đến Lâm đến Thái
Nội ba dương âm ngoại tiêu lần
Phản tu trưởng dưỡng tinh thần
Có tu thì sẽ có phần dành cho.
Sao các con không lo không sợ
Mặc hư nên, hay dở coi thường
Bao lần đổ nát tình thương.
Hôm nay nơi đây Thầy mong mỏi mỗi con đoái thương sự nghiệp Trung Tông. Đừng vì cá nhân mà làm mất vẻ tôn nghiêm cơ cứu chuộc của Thầy ở nơi mỗi con. Nếu không khép mình trong khuôn đạo pháp, mà cứ theo sở dục làm cho lu mờ chánh pháp của Thầy, cửa Huyền Quan đóng lại là các con phá đạo. Cơ sở tâm pháp thì các con nên sợ, đừng dể duôi mà gây sự đen tối cho nội bộ. Bởi vậy Thầy nói: Dòi trong xương thứ dòi đáng sợ, gương Giuđa bán đợ con Thầy. Đạo hư là người đạo phá, chớ người ngoài không thể phá được.
Ngày chung niên sám hối
Bính Thân (2017)
PHẠM VĂN LIÊM

NỐI LẠI HỒNG ÂN



(Sự Nghiệp Trung Hưng / Phạm Văn Liêm)


Bắt đầu từ năm Canh Tý (1960) trở đi, bối cảnh xã hội trở nên rối ren, đất nước bất an, dân tình xáo trộn. Đến năm Nhâm Dần (1962), Quý Mẹo (1963) chính biến xảy ra liên tục, rồi chiến tranh bùng phát gây nên thảm trạng bi thương từ miền quê đến phố thị.
Trong nhà đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, tại Tịnh Đường các đàn cơ vẫn liên tục tiếp điển giáo hóa của Ơn Trên. Các Đấng lâm đàn dạy về tu luyện, an trú trong thanh tịnh. Đặc biệt là thực hiện pháp môn sám hối và hướng đến công cuộc xây dựng thêm các thánh thất kiểu mẫu.
Bên phía Bửu Tòa các hướng đạo chú trọng về xây dựng hàng ngũ nhân sinh, chăm lo về pháp môn độ sanh độ tử của họ đạo, hướng đến công trình xây dựng văn hóa xã hội. Mặc dù không đến hầu đàn ở Tịnh Đường nhưng các vị bên Bửu Tòa vẫn quan tâm tìm đọc các bài thánh giáo để biết Thánh ý dạy về hiện tình cơ đạo. Đã lâu không có điều kiện lập đàn tại Trung Hưng Bửu Tòa, các vị vào Sài Gòn nhờ đồng tử miền Nam thủ cơ như lần trước.
Đàn Tuất thời ngày 10-8 Quý Mão (27-9-1963) tại Thiên Lý Đàn (quận 3, Sài Gòn), Đức Lý Giáo Tông dạy:
GIÁO hóa đời trong buổi loạn ly
TÔNG chi càng lập Đạo càng suy
THÁI bình vạn pháp bao chừ hiện
BẠCH Ngọc Kinh truyền mở hội thi.
Chư hiền đệ! Bần Đạo chào chư Thiên sắc Lưỡng Đài nam nữ có mặt trong buổi họp hôm nay, và Bần Đạo gửi lời thăm hỏi tất cả các chức sắc, chức việc và toàn thể bổn đạo nam nữ các thánh thất, xã đạo.
Bần Đạo rất cảm thông những nỗi khó khăn cực khổ phải gánh chịu của Hội Thánh và chư chức sắc trong giai đoạn hiện tại. Nhưng Bần Đạo vững tin ở tinh thần nhẫn lao nại khổ quên mình vì Đạo của chư hiền sẽ đưa cơ đạo trung hưng vượt qua những nỗi khó khăn để đến ngày thành tựu.
Sử Đạo dành cho kẻ có công
Bao nhiêu tâm huyết bấy nhiêu lòng
Nghìn thu mở đến trang thanh sử
Chẳng hổ con người giữa núi sông.
Bần Đạo miễn lễ. Chư hiền an tọa. Hỡi chư hiền sắc! Nhơn loại ngày nay đương phập phồng lo sợ thảm họa diệt vong bởi chiến tranh nguyên tử, bởi các mối chia rẽ trầm trọng giữa người và người, giữa học thuyết và học thuyết, đương mong cầu sự giải cứu của pháp mầu thần linh. Tình trạng ấy càng chứng tỏ tôn chỉ giải phóng toàn diện con người, vạn pháp đồng nguyên của Đại Đạo - một nhu cầu cấp thiết rất đáng sớm được xướng minh.
Nhưng than ôi! Có pháp thiếu người. Có người thiếu sức. Có sức thì lại phân tán tiêu hao.
Trong ba mươi tám năm khai Đạo, nào bên ngoài chịu đựng với cường quyền lấn áp, bên trong phung phí vào việc lập phái phân chi, còn đâu sinh lực để đào tạo nhân tài, xương minh chánh đạo. Huống ngày nay, trước các nền tôn giáo, triết học cổ đương muốn phục hưng trước làn sóng văn minh khoa học đương cực thịnh, trước những chủ nghĩa cực đoan đương chi phối gần một nửa nhân loại trên địa cầu, thử hỏi tân pháp làm sao kịp thời đạt được mục đích tối thượng như vừa nói trên? Đó mới là trọng tâm mà người hướng đạo phải luôn luôn suy nghĩ.
Vĩ nghiệp trông chờ bậc vĩ nhân
Gióng chuông kêu gọi khách trong trần
Cùng nhau hợp sức Đông Tây lại
Chánh pháp công truyền cứu vạn dân.
Hỡi chư hiền sắc nam nữ! Những điều chư hiền mong Bần Đạo giải quyết, Bần Đạo khuyên chư hiền trong tình cảnh ngày nay, Hội Thánh chỉ nên dốc cả toàn lực vào những điều hệ trọng liên quan đến cả nền Đạo. Lo hướng dẫn tín đồ, xây dựng các cơ sở, đào luyện giáo sĩ, kịp thời ứng dụng cho công cuộc truyền đạo, hành đạo tương lai.
Chư chức sắc mấy năm qua, trải bao khảo thí dập dồn, kiểm điểm lại hàng ngũ chức sắc có phần suy kém tinh thần. Lẽ đáng phải nêu ra vấn đề thưởng phạt để cho quyền pháp nghiêm minh. Nhưng nghĩ vì hai mươi năm qua chiến tranh tao loạn, chức sắc bổn đạo đồng sống chung trong cảnh cùng khốn cơ cực, đã hy sinh quá nhiều trong công cuộc bảo tồn và xây dựng chánh pháp, nên Bần Đạo kêu gọi tất cả hãy xét mình, tự mặc nhiên sám hối, tự đảm đương những trách vụ khó khăn, cùng nhau đồng tâm nhất trí tích cực phục vụ Hội Thánh trong giai đoạn nầy để sớm hoàn thành sứ mạng trung hưng.
THI
Trung hưng chỉ mới mấy mươi thu
Lớp chịu hy sinh lớp ngục tù
Sự nghiệp nghìn năm hồi tưởng lại
Sử nào ghi chép hết công phu!
Hỡi chư chức sắc nam nữ! Mọi việc Hội Thánh đã quy định ở Kinh, Luật, Pháp và chư hiền đã hồng thệ trước Kinh, Luật, Pháp đó, cứ giữ thi hành.
Chư hiền đệ, từ nay Hội Thánh mở đầu một chương trình xây dựng, Bần Đạo sẽ chỉ dẫn. Hôm nay Bần Đạo chấp nhận và lưu ý các hiền ba việc làm: (a) Lập họ đạo cao nguyên; (b) Mở trường học; (c) Khẩn đồn điền.
Những việc hệ trọng tương lai, Hội Thánh thực hiện trong lúc khó khăn nầy, tất phải gặp nhiều trở ngại, nhưng hãy cố gắng.
Việc họ đạo cao nguyên: Buổi đầu Hội Thánh phải luôn luôn đôn đốc và lưu ý việc giao quyền cho Chánh Phó Trị Sự. Hiền đệ nào tình nguyện phục vụ ba năm cao nguyên sẽ được trọng thưởng.
Về mở trường học và đồn điền: Tổng Lý Hưng Đạo đã cổ vũ từ bao năm, ngày nay thực hiện, Hội Thánh phải dốc toàn lực vào sự khuyến khích những công việc ích lợi tương lai.
Về trường học Tam Kỳ: Trong năm này phải xây dựng cho hoàn thành đợt một. Năm tới Bần Đạo sẽ định liệu. Lập lại nữ tu xá, dưỡng chánh đường để nâng đỡ các chức sắc nhẹ gánh gia đình và đào tạo nhân tài tương lai.
Trường học Tam Kỳ chỉ là sơ cấp của chương trình học đường. Giáo Hội sau nầy còn phải kiến thiết nhiều trường quy mô cao cấp, đồng thời Hội Thánh có đủ các cơ sở công xưởng, nông trường để những tháng hè sinh viên, học sinh đến thực tập nơi đó. Thực thi tinh thần trí thức lao động hóa, lao động trí thức hóa. Rèn luyện những giáo sĩ tương lai, xứng đáng người hướng đạo tôn giáo xã hội.
Về trường học Tam Kỳ cũng như các cơ sở xã hội, Bần Đạo định chọn Quảng Tín làm thí điểm để rồi sau nầy sẽ xây dựng lần các tỉnh, xét thấy cần thiết.
Việc đồn điền: Thanh Long có chí nguyện thực hành, phải cố gắng lắm mới được. Mọi quyết định hội ý với chức sắc Hội Thánh. Sẽ trình Bần Đạo sau.
Việc tu xá: Các hiền nên ý thức. Tu xá là nơi sống tập thể, dành cho những tu sĩ hy sinh dâng mình phục vụ Hội Thánh, là nơi rèn luyện các giáo sĩ hướng đạo. Các tu sĩ sau này có thể nhập vào tịnh đường mật thất. Theo tinh thần đó, lập nội quy.
Các tu xá hiện thời chỉ là những tổ chức tạm, có thể dời về tu xá Tam Kỳ cho tiện bề Hội Thánh trông nom trong lúc Hội Thánh thiếu người và thiếu phương tiện. Việc đó, tùy ở nguyện vọng các tu sĩ.
Về chức sắc điều hành Hội Thánh: Chưa thay đổi, miễn làm được việc. Không nên chấp nê danh từ. Tuy nhiên phần ngoại giao sẽ rất cần và cũng xứng đáng, nên Bần Đạo đề cử hiền đệ Ngọc Quế Thanh lên Phối Sư chính vị, để quyền pháp được phân minh.
Mở mắt nhìn xem cuộc bể dâu
Tương lai đâu đã biết về đâu
Nơi nào chánh pháp mau hình hiện
Để rạng danh Thầy khắp ngũ châu.
Bần Đạo chào chung và ban ơn tất cả. Khá thành tâm tiếp giá Đức Từ Phụ. Bần Đạo thăng.
TIẾP ĐIỂN
NGỌC Kinh đợi trẻ mấy mươi thu
HOÀNG đạo trông ra vẫn mịt mù
THƯỢNG trí bởi chưa thông Thánh trí
ĐẾ minh chánh pháp rộng đường tu.
THẦY CÁC CON
Thầy mừng các con chức sắc Lưỡng Đài nam nữ. Thầy miễn lễ. Các con an tọa.
Trung thu nầy Thầy ban ơn lành các con chức sắc, chức việc và toàn thể nam nữ các thánh thất, xã đạo. Hôm nay Thầy giáng trần đem đến cho các con một niềm vui. Một niềm vui với một niềm khích lệ để nhắc nhở các con là bước đời còn lắm chông gai, cơ đạo còn nhiều khảo đảo. Các con phải bình tâm mãnh dõng hơn nữa. Hãy quên mình mà nhẫn nhục, lấy tình thương vô biên chan hòa trong mọi cảnh mọi người, để bảo tồn và xây dựng chánh pháp.
Các con thấy chưa? Hiểu ý Thầy chưa, hỡi các con nam nữ? Nếu các con nào ước mong Thầy phân minh đâu chánh đâu tà, thì điều ấy không đáng cho Thầy phải nói. Vì Thầy cũng đã nói nhiều rồi.
Kìa các con! Mùa Xuân ấm, mùa Hạ nóng, mùa Thu mát, mùa Đông lạnh, cứ tuần tự diễn hành. Thuận với công lệ ấy thì sinh tồn, trái lại thì tiêu diệt.
Huống Thầy hằng nói Thầy là tình thương yêu, là lẽ công bình hằng sống. Thương yêu, công bình là đất tự do cho điều chân chính phát triển và điều không chân chính cũng được sinh hoạt. Nhưng kết cuộc chỉ có điều chân chính được trường tồn. Rồi các con sẽ thấy.
Hỡi các con nam nữ! Thầy đã đến với các con ba mươi tám năm rồi, cũng đã nói với các con nhiều rồi. Ngày nay nhìn xem cơ Đạo đã tiến được đến đâu? Hay rồi mai đây Thầy thu về sẽ diễn ra một mùa Đông giá lạnh? Các con thấu chăng những nỗi thê lương tan tác trong những đêm trường phong vũ của đàn nhạn lạc bầy?
Các con nghe đây! Đạo pháp, giới hạnh là chiếc áo ngự hàn. Hãy cố giữ để gặp Thầy trong ngày Xuân xán lạn.
Hỡi các con nữ phái! Thầy rất thương các con số phận thiệt thòi. Không riêng nơi nầy mà những nơi khác cũng thế. Thầy đến nâng đỡ các con. nhưng các con thiếu sức thiếu người, không đủ đảm đương quyền pháp Thầy trao, danh vị Thầy lập. Hãy cố gắng rèn luyện đức hạnh, dìu dắt chị em, lập thêm những công nghiệp. Tùy số lượng Thầy sẽ ban thưởng. Rồi ngày mai Thầy sẽ vận chuyển chị em các con những nơi khác về chung lo cơ đạo. Các con hãy cố gắng lên.
Gắng lên Thầy sẽ dắt con lên
Sử Đạo ngàn thu rạng tuổi tên
Chí cả muốn toan nên nghiệp cả
Từ bi, nhẫn nhục nhớ đừng quên.
THI BÀI
Nhớ đừng quên lời Thầy dạy bảo
Dắt dìu nhau gánh đạo trung hưng
Con nên Thầy rất vui mừng
Con hư Thầy cũng não lòng vì con
Mấy mươi năm lời son tiếng ngọc
Mười mấy năm khi khóc lúc cười
Vì con Thầy xuống cõi đời
Vì con Thầy chịu lắm lời thị phi
Nghĩ thương con gian nguy chẳng nệ
Nghĩ thương con trần thế dãi dầu
Đời còn trong cuộc bể dâu
Đạo còn nhiều nỗi cơ cầu mới xong
Hỡi các con, dốc lòng chặt dạ
Hỡi các con, chí cả vẫy vùng
Ra tay quét sạch bụi hồng
Làm cho danh Đạo ngoài trong rạng ngời
Con làm sao sử đời ghi chép
Con làm sao quyền phép nhiệm mầu
Đạo Trời rải khắp đâu đâu
Nơi nầy rồi sẽ năm châu sum vầy
Chí hộc hồng toan bay muôn dặm
Sức kình ngư toan tắm nghìn khơi
Sá chi một góc phương trời
Mà bày chi phái cho đời mỉa mai
Con làm sao đáng tay hướng đạo
Con làm sao đào tạo nhân tài
Trông về cơ Đạo tương lai
Mở mang cần có nhiều tay siêu quần
Con làm sao Nam Trung hiệp lại
Con làm sao chi phái đồng lòng
Cho tròn sứ mạng trung hưng
Mở mang sử Đạo lẫy lừng danh con
Thương nữ phái hãy còn lận đận
Phận quần thoa cũng nặng gánh đời
Gay thuyền tách bến ra khơi
Tiến, ghê sóng gió; lui, người mỉa mai
Con gắng lên, trí tài chẳng hổ
Con gắng lên, đức độ hơn người
Xưa ai luyện đá vá trời
Nay con đem Đạo cứu người trầm luân
Gọi chị em hãy bừng tỉnh dậy
Dậy nhìn xem cho thấy tương lai
Phấn son sánh với râu mày
Điểm tô xây dắp Đạo Thầy vẻ vang
Nghìn thu rạng gái Nam bang.
Các con chức sắc nam nữ! Thầy khuyên các con cần cố gắng thêm để cho việc Đạo tiến lên.
Thầy ban ơn lành các con nam nữ. Thầy thăng.
Con đường trung đạo Đức Chí Tôn gầy dựng tại miền Trung với Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài trên nền tảng đạo pháp tâm truyền và công truyền đi đôi. Đến nay trải qua nhiều gian nan thử thách đã chuyển đến giai đoạn gần thành tựu. Ơn Trên vẫn tùy thuận từng hoàn cảnh, không nhất định một khuôn một luật, miễn làm sao mọi người hiểu rõ được con đường chánh pháp của Thầy, thích nghi cho cơ tận độ là cả hành đạo và tịnh luyện. Ơn Trên phát huy và củng cố cả hai mặt cho vững vàng để tiến đến duy nhất.
Vấn đề xây dựng thánh thất kiểu mẫu là mở đầu việc hoàn thành sự nghiệp trung hưng. Giai đoạn nầy Ơn Trên ban truyền pháp Bửu Châu Hồi Hướng cho hàng tín chúng đạo hữu.
Đàn tại Tịnh Đường ngày 08-10 Quý Mẹo (23-11-1963), khi Giáo Hữu Trần Cư hỏi về thọ pháp tu, Đức Cao Đài Giáo Chủ dạy: “Chỉ quán thọ phương pháp của Phật đã dạy, phải xin keo. Còn đạo hữu thập trai trở lên thì được thọ châu năm mươi bốn hột. Cách luyện cũng như luyện châu nhưng chỉ có nửa phần mà thôi, cũng chín lần.” Đây là cửa ngõ để hàng đạo hữu vào tâm truyền ở thánh thất kiểu mẫu và rồi khắp cả chúng sanh.
Đàn ngày 08-12 Quý Mẹo (22-01-1964), Đức Đông Phương Lão Tổ minh thị về xây dựng thánh thất kiểu mẫu:
Nền chánh pháp phải xúm nhau mà xây dựng. Trách nhiệm không riêng cho một người nào. Nếu chương trình thánh thất kiểu mẫu không thành thì nền chánh pháp cũng khó mà thị hiện. Bây giờ nên có một chương trình xúc tiến mạnh mẽ hơn lên.
Đàn ngày 23-12 Quý Mẹo (06-02-1964), Đức Bảo Thọ Thánh Nương cổ xúy nữ phái:
Rất may duyên cho chị em sớm gặp được nền chánh pháp của thời kỳ ân xá lần ba nầy. Thầy đã có thệ nguyện tận độ chúng sanh. Hễ kẻ nào biết quy tùng chánh pháp, được Thầy sẵn sàng giao cho bộ chìa khóa đạo pháp để mở cửa Ngọc Kinh, mở để được về cùng Thầy. Chỉ trừ người nào không chịu nhận lãnh thì mới bị quỷ ma dẫn dắt mà thôi. Cái chìa khóa ấy là gì? Là mối chân truyền vô vi đạo pháp mà nơi đây đã được ơn Thầy ban trao rồi đó. Nếu ai có duyên thì cũng được nhận lãnh cả.
Lòng từ bi vô lượng của Thầy chảy đến không riêng cho một hạng người nào, nhưng điều cốt yếu của người được nhận lãnh là phải đòi hỏi ở lòng mình một sự chí thành, biết ăn năn sám hối tội lỗi.
Cũng như người muốn mặc một bộ đồ tốt đẹp trắng trẻo, muốn cho được sạch sẽ thì trước phải thay bộ đồ đen nhớp ở trong mình ra và phải tắm rửa thân mình cho sạch mồ hôi và đất cát, thì bộ đồ trắng trẻo kia mới giữ cái đẹp của nó được. Cho nên sám hối là một phương pháp rất hay của người tu hành mà các tôn giáo từ xưa đến nay đã dùng đến và đã cứu độ được vô số vạn ức chúng sanh được đắc quả La Hán, Bồ Tát.
Đàn ngày 08-01 Giáp Thìn (20-02-1964), Đức Ngô Minh Chiêu dạy:
Các hiền đồ nơi đây cũng nên học theo gương xưa của các vị La Hán, Bồ Tát mà tu, mà hành, để đặng hưởng một ân phước vô biên. Thời nay là thời Thầy nguyện tận độ tàn linh. Các hiền đồ cũng theo sự nguyện ước của Thầy mà lập công hành đạo. Mỗi một mgười hướng đạo phải là một vị Bồ Tát hiện thân, để hóa độ chúng sanh.
Các hiền đồ gánh vác công việc cứu chúng độ nhân cũng phải có chí nguyện như thế mới mong làm tròn được trách nhiệm của mình và thân mình mới mong được cứu.
Độ được một người tu theo giới thượng thừa thiên đạo thì mình có thể giải tiêu được nghiệp chướng một kiếp một đời. Nếu đa số chúng sanh được sớm giác ngộ theo con đường đạo pháp, thì công cuộc xây dựng nền trung hưng chánh pháp thành tựu có khó gì.
Đã là Hội Thánh thì phải có con người Thánh trước đã. Nếu Hội Thánh mà trong đó toàn là người phàm thì cũng trở nên một nhóm người phàm để rồi làm những việc phàm như thế gian thôi.
Nên muốn cứu độ chúng sinh, Thầy bèn lập ra có Hội Thánh để làm chỗ quyi tụ những người có thiện tâm, thánh đức. Nếu Hội Thánh không có những bậc Bồ Tát thì ít nhất cũng phải có tâm địa Thánh Hiền mới mong gánh vác được công việc ấy.
Việc thâu hồi sứ mạng của Thầy như một cảnh sách đối với các sứ đồ của sứ mạng trung hưng. Thầy và các Đấng thiêng liêng, các vị Thiên Đồ Trung Bảo luôn tăng cường điển lực chỉ điểm rõ ràng, giáo hóa mạnh mẽ để tùy thuận điều kiện bên ngoài bên trong, thích nghi theo trình độ nhận thức về chánh pháp trung hưng và sứ mạng trung hưng để thúc đẩy nguyện lực của sứ đồ Trung Tông Đạo. Cả hai đường hành đạo và tịnh luyện đều được Ơn Trên song hành giáo dưỡng. Nhưng tịnh luyện được Ơn Trên chú trọng nhiều hơn, nhờ có điều kiện về thông công. Hơn nữa, mặt tịnh luyện phải cần chăm sóc kỹ lưỡng mới thành tựu rốt ráo.
Từ khi Thầy thâu hồi sứ mạng, ròng rã suốt bốn năm từ tháng 01 Canh Tý (1960) Thầy Mẹ, các Đấng thiêng liêng nhất là chư Thiên Đồ Trung Bảo liên tục giáng đàn ươm nhuần giáo pháp. Đến nay việc phục hồi sứ mạng như đã ló dạng.
Sau khi Thánh giáo của Đức Giáo Tông tại Thiên Lý Đàn ngày 10-8 Quý Mão được đưa về miền Trung, các hướng đạo toàn Hội Thánh (cả Bửu Tòa và Tịnh Đường) đều có niềm thông cảm nhau hơn. Ai cũng cảm nhận rằng Ơn Trên muốn mỗi bên đều phải tự chu toàn phận sự để khi hiệp lại, sứ mệnh sẽ viên thông.
Đàn ngày 09-02 Giáp Thìn (22-3-1964) tại Tịnh Đường:
THI
HUỲNH Đạo Hiên Viên đắc Quảng Thành
NGỌC Kinh muôn thuở được đề danh
TRÁC tâm ma chí cầu Tiên Phật
MỪNG Hội Long Hoa Đạo đại hành.
Lão Phu chào mừng chư đạo tâm nam nữ.
Trước tiền đồ nền đạo, xa trông thấy lắm đoạn quanh co, đường dốc gập ghềnh toàn đạo phải trải qua, cũng một công trình khó nhọc. Tuy quanh co gai góc, sớm tối cũng được thành công, đó cũng bày tỏ chí khí vững bền.
Lửa không thét, vàng sao đáng tuổi? Ngọc không điêu luyện, giá được bao nhiêu? Bởi vậy người hữu duyên dầu ở cảnh ngộ nào cũng thắng được ngoại giới hoàn cảnh, thung dung chiều sớm trọn đạo cùng Thầy bạn, nung nấu can trường, lòng được thanh tịnh mà hoàn đơn. Khi đắc đạo đem sự giác ngộ cứu đời, chấp thiên đạo, hành nhơn đạo. Đó là thủy chung không trái.
Không trái là từ nhơn đạo mà đi lần đến thiên đạo, đó là tu. Giai đoạn nầy nung nấu lấy can trường, thu liễm thần khí vào trong, hàm chứa bao nhiêu tinh lực, kết thành một khối mạnh mẽ, vững chắc tợ hư không.
Oai nghi đầy đủ, hạnh nguyện sâu dày, lòng ấy rộng lớn như đất trời, tu tập thành công, viên đốn pháp lậu tam minh lục thông, trở lại thế gian, đem sở chứng sở đắc của mình để đền đáp ơn Tạo Hóa Tam Bảo, cứu độ quần sinh.
Đó là lúc hành. Hành để độ người cứu vật. Cũng là một dịp tỏ chứng lòng ưu sanh ái chúng của Bồ Tát. Không chấp có chấp không. Nước bồ đề trong phiền não. Phật sự tại nhơn gian.
Đó không phải bảo lúc tu mà không hành. Tu hành đâu phải tách rời. Song giai đoạn tu là hành công, lập đức để chiêu tập thiện duyện thánh tướng, tấn công phá dẹp nghiệp vọng, ma quân, quét sạch trần lao vọng thức, giải tán trận đồ.
Chừng ấy thiện ác đều không, lòng mình sáp nhập vào Tạo Hóa, chơn tánh bình đẳng như như, thì giai đoạn sau là lúc hành. Hành không phải tư nghị, lự thuyết mà bằng tâm viên tịch vô vi, công đức chánh đại viên minh, xây cho đời một quốc độ an lành. Có phải kẻ trí dắt người ngu? Đâu phải đứa đui dìu đám tối.
Lão Phu ước sao chư đệ, chư muội hiểu được ý Lão Phu để tự độ, độ tha theo một đường chánh pháp. Nhớ rằng tâm vật không tách rời, sắc không không phải khác. Song cũng đừng hiểu vật là tâm, cũng đừng lầm nhận sắc kia là chơn tướng.
Để khai minh một vài điểm giúp cho toàn đạo lấy đó làm phương tiện trong lúc thiền quán tư lự công phu. Nhận Tạo Hóa Bản Lai không hai, cũng không phải một. Vì hai thì không sắc phải tách rời, mà một thì thiện ác trở nên hỗn độn. Ngoài cái hư không bản thể trong một, chưa đủ thấy Như Lai. Đừng thấy một thấy hai để cho lòng mình vô tư, trong ngoài hai lẽ đó.
Nếu không phải hai, sao lại có câu “Tiên Thiên, Hậu Thiên tịnh dục Đại Từ Phụ”? Nếu không có một, sao có câu “Trạm tịch chơn đạo, khôi mịch tôn nghiêm”? Vì vậy nói một, nói hai không bằng hai một chẳng ngoài thanh tịnh.
Nói cũng dông dài làm chư vị mất thì giờ theo dõi. Song dông dài là dông dài của người bạc căn thiếu trí, chớ người đốn ngộ mặc dầu dông dài đến đâu biết rút gọn cũng trở nên gang tấc.
Hôm nay Lão Phu ghé về, đâu phải nhàn rỗi mà dạo chơi. Nhưng đã gọi được Lão Phu thì có chi mà không nhàn rỗi? Cười… Nhàn rỗi của kẻ tu hành không phải chơi rông phóng túng. Có chơi cũng chơi trong đạo lý nhiệm mầu. Có đi đó đi đây đâu phải bằng sự giải trí giao tình, mà tìm những tri kỷ thiện duyên để cảm thông chung cùng sứ mạng.
Tóm lại ghé vào Trung Thành ([1]) cũng không ngoài mục đích trợ duyên cho toàn đạo thêm sức mạnh để thắng ma quân, thêm oai nghi để hành giáo pháp.
Vậy mở cửa đón ơn lành, mở lòng tiếp sứ vụ. Chư hiền thành tâm đón giá.
Đọc lại một lần nữa. Có gì Lão Phu góp ý cho.
Hiên Viên đắc đạo trải qua mấy lớp, sư đệ?
Khi Hiên Viên Huỳnh Đế đến với Quảng Thành Tử đã trải qua trước kia bảy hai ông thầy. Nếu trải qua bảy hai thầy, thầy nào cũng học, thầy nào cũng bỏ vậy có tội phản sư không?
Cái thang có nhiều nấc, nấc nào cũng hữu dụng cho lúc mình cần đến gác lầu kia. Trình độ tu học mỗi lúc mỗi khải minh. Minh lúc lốm đốm nào khác chi lúc minh lãng hoàn toàn. Cũng như quẻ Càn không có tiềm long lấy gì có hiện long, phi long? Nhưng Hiên Viên đắc đạo gì?
Đắc đạo thanh tịnh. Nghĩa là không chấp động chấp tịnh. Mà Đạo không chấp lúc nào? Lúc nào phải chấp?
Thôi, Lão Phu kiếu chào.
TIẾP ĐIỂN
THẦY CÁC CON
Thầy mừng các con.
THI
NGỌC thường trau luyện giá nên cao
HOÀNG Phụ thương con chẳng nỡ nào
THƯỢNG hạ với nhau đồng sức được
ĐẾ quyền Đế đạo sẵn lòng trao.
Nơi nào các con ham tu mộ đạo, biết chung nhau quần tụ một nơi để cầu học, cầu xin hướng về Thầy, Thầy luôn luôn ngó nghĩ đến con mà ban nhiều ơn huệ. Thầy là Trời không hẹp chật tình thương, không vị tư làm mất lẽ. Nên đâu đâu cũng bởi Thầy mà có, bởi Thầy mà nên, dầu đứa dại đứa khôn. Dại khôn là của nó, chứ Thầy vô tư thương đều, khi muốn lấy hay muốn cho rất công bình.
Được hay mất là tại lòng người, chớ sự của đất trời rất mực. Mọi người hay mọi vật đồng được sử dụng kho vô tận, Thầy đâu hạn chế tiêu dùng. Sự sống đầy dẫy trong hư không, tình thương ngập tràn trong vũ trụ. Mỗi con tùy ý nhận ít nhận nhiều. Cũng như không khí mặc tình con thở, mưa móc mặc sức con dùng, nắng trời sưởi ấm, phơi lòng, con coi có chi chật hẹp.
Song nói đến người thì lòng người vô minh, việc người xuôi ngược, ý người tham lam, sân hận và si mê, cố vét cho nhiều, cố vùa cho hết về mình, chứa của ở kho riêng, giành đoạt chung quanh bạn hữu, ích kỷ không lường. Vì đó mà có phiền não khổ đau, lo mất lo còn, lo không hồi dứt.
Chớ vạn hữu sống trong bầu tạo hóa, trái lại với con người, mà ngày tháng được thung dung, ấm no đầy đủ, lòng rất bình thản tự nhiên, không để một chút danh lợi buộc ràng, hơn thua mệt xác. Các con cảm hiểu ý Thầy.
Vì ý nghĩa đó mà hôm nay Thầy đến đây cũng vụ cho con sớm được hội hiệp cùng Thầy, đồng với Thầy để an bài vũ trụ, dưỡng dục quần sinh. Muốn an bài, dưỡng dục chúng sanh trong trời đất phải có lòng như trời đất, không chừa một ai, dù nên dù hư, cũng lấy lượng bao dung mà che chở.
Lòng ấy phát xuất từ Trời. Mỗi vật mỗi loài, vật nào loài nào cũng chịu một phần của Thầy mà có. Lòng ấy nhất định trường tồn bất diệt, ở trong vạn vật mà trưởng thành. Từ lúc còn tế vi lờ mờ như đom đóm, lần hồi chuyển hóa cảm thọ sự sống của vũ trụ mà trưởng thành. Khi tâm chủ được vật tình, khiến được ý chí, thì nào khác chi nhựt nguyệt giữa hư không sáng soi cùng trời đất.
Lúc lờ mờ nhỏ bé, bị đủ cách ngoại giới uy hiếp, danh phận mình ai thấy ai hay, sự mất sự còn nào bỏ chung quanh, được chúng sanh để ý. Nhưng tâm thường thanh tịnh, chuyển ứng theo thời gian mùa tiết, đón tiếp khí không hư, cho đến lòng biết xá giã, hy sinh hạnh đức mỗi ngày hiển hiện, lòng thương mỗi lúc rộng sâu.
Nói đến vật còn trong hữu hạn thiên nhiên, chớ đến người, đã vượt ra không giới cùng tận tự do, từ lúc nhỏ biết thương cha mẹ, mến anh em, giao tình cùng quyến thuộc, tương quan với làng mạc, gia đình, lo phụng dưỡng mẹ cha, nấng nuôi con cháu, sắp đặt trong ngoài, ơn nghĩa lại qua, từ đó nhận ra bổn phận. Rộng ra còn lo cho nước cho dân ! Rộng nữa lo tái thành xây dựng cho loài người cho xã hội. Lòng bác ái ngày một được lan tràn đâu đó xa gần gọi như trách nhiệm. Tự đương vi lãnh lấy sứ mạng chí sĩ thượng khách anh hùng. Bước thứ hai vượt ra ngoài thô tướng, vật chất hữu lậu, hữu hình. Lòng nảy nứt cần được hòa hiệp cùng Trời giao cảm, bằng tinh thần vượt ra không giới thời gian phụng trì cấm giới. Lòng lúc nầy ngoài sự lo cho đời hiện sống bằng cơm no, áo ấm yên ổn tự do, vật chất, thì tâm luôn luôn cầu được giải thoát tâm hồn, dẫm trên hữu lậu sống còn của lúc hiện sanh hòa nhịp theo cơ vận chuyển, thần hồn làm quen với bạn Thần Tiên trên không giới, chơi thân cùng Hiền Thánh ngày xưa trong sách sử. Cảm thấy tiến bộ về thần hồn, cần được làm Tiên làm Phật, nên xả thủ chẳng bận lòng. Được tu chứng phần mình giúp người cũng được nối gót, thiệt hành cho đến đắc đạo. Công đức giải thoát cho linh hồn trở nên xứng đáng. Song nấc thang giúp đời dựng nước giải phóng loài người nhờ công quả bước sơ cơ, phước đức trở thành công đức.
Công đức thành tựu là công đức giải thoát thanh tịnh, gốc ở lòng bồ đề phát sanh tình thương hiện ra, không nghĩ thân nghĩ sơ, không bỏ qua một việc lành, dù là nhỏ bé. Không để cho một việc ác ám thu mà chẳng trừ. Chúng sanh thảy thảy là gan tim của mình. Động tịnh không sao chẳng tương quan mà lo liệu. Lúc nầy lòng ấy trở về với lòng mẹ như còn ở trong thai. Lòng được vô vi, lòng như sông biển. Công đức sâu dày rực rỡ như mặt trời, mặt trăng giữa thiên không. Chúng sanh nào lại không sưởi ấm, phơi lòng, chúng sanh nào không tiếp nhận ánh sáng của mình để lòng hân hoan tin tưởng.
Vậy thành đạo không ngoài mục đích nói trên. Các con gắng học, gắng hành, tự xét lúc nghèo đừng xa xỉ buông lung dong ruổi. Vật tình mỗi lúc mỗi kém sáng, mỗi ngày thêm khô kiệt, phóng tâm thần khí phân tán, vật tình cướp đoạt mà nghị lực suy đồi. Lúc nghèo khó nầy phải hồi phục tâm, an trụ lấy tâm, để tâm đủ công năng giao cảm.
Vậy muốn chứng kiến lòng mình vạn hóa phi thường, thấy cái sáng suốt của người đui, tài hay của đứa điếc. Đui không thấy vật tình nên trí lực đầy đủ phương cương. Điếc không nghe thanh âm nên tâm an trụ, hiện công năng sáng kiến.
Lời nói trên là Thầy muốn ban cho con một trách nhiệm. Trước khi chịu trách nhiệm, các con phải tự nâng mình ngang với quyền pháp đã trao. Quyền Pháp ở bậc nào gắng làm tròn xứng ở chức vị đó. Quyền Pháp trọng nhiệm cao cả ở một thánh thất trong một tỉnh thành, quan trọng trên người Đầu Họ và các con Chánh Phó trị sự, Thông sự. Quyền Đầu Họ ở chỗ tượng trưng được con người đại diện khí vị Thần Tiên, ân oai có đủ, lo đường giáo hóa lợi lạc quần sinh. Sự đại diện bảo an trật tự. Cầm cân nẩy mực phải được đúng đắn công bình. Dưới các xã Trị Sự chịu quyền pháp mà dìu dẫn đạo đồ, cắm ngọn cờ tận độ trên tôn chỉ dung hòa, nền móng là tình thương lẽ thật. Vì vậy Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự phân quyền một Hội Thánh cỏn con, cùng đủ tư quyền tượng hình thể Đạo trong mục đích cứu phần hồn, độ phần xác, sống yên vui được nương cậy ngày tháng tròn hưởng chế độ sơ bộ đại đồng. Chết được rỗi phần hồn trở lại cùng Thầy đó là tròn phận sự.
Muốn được kết quả là đạo đồ trong xã phải được tin tưởng sống nhờ quyền pháp chở che, thì phải tôn trọng nhiệm vụ quyền hành của Ban Trị Sự. Đó là một con thuyền Lý Bạch Giáo Tông đã phân chia trách nhiệm cho Chánh Trị Sự, Phó và Thông Sự lái lèo đưa đạo đồ nơi sở trách qua bờ giác. Mà đạo đồ đã chịu quyền pháp ở Chánh Phó Trị Sự, thì Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự cũng phải chịu quyền pháp của người Đầu Họ mới được cứu và hoan hỷ tuân hành. Mình có kỉnh người trên, thì kẻ dưới mới kỉnh mình đó là đường đưa con vào cửa Thánh.
Vậy sự quan trọng nầy ở nơi Đầu Họ và các ban Trị Sự, làm nòng cốt mà xây dựng hướng đạo giáo hóa. Ngoài ra chư Thiên ân Quyền Giáo Hữu và Lễ Sanh cũng nương lấy quyền pháp nầy mà tài thánh cho cơ sở thánh thất xã đạo. Thầy đã chuẩn cho, phải gắng lấy quyền hành cần tâm tu học để được giải thoát. Đi, đứng, ngồi, nằm trong bốn oai nghi phải được điều hòa thanh tịnh để làm pháp cảm sanh, để chế ngự con người của con còn đeo mang tình thức.
Vậy được việc không phải nói giỏi làm nhiều, mà ở cái hạnh làm người, ở lòng thật tu, ở lời nói chắc chắn, ở bốn oai nghi thanh tịnh điều hòa. Nâng người, nâng mình vượt lên trên địa vị đã có và làm rực rỡ cho quyền pháp Đạo Trời. Hàng ngũ Thiên ân chức sắc được vậy, lo gì không yên trụ được cái sứ mạng, không kiểu mẫu được quyền pháp.
Sứ mạng được yên trụ, quyền pháp được tỏ rõ, thì kẻ sĩ người tài đặt vào các chức phận chia nhau mà giải quyết. Ngoài quyền pháp có bốn cơ quan vây quanh mà phô diễn lực lượng, bày tỏ ý chí, giới thiệu đạo đức, chỉ dẫn đường lối thiệt là sít sao, thiệt là dung chứa. Ngại gì ! Các con có dành của ai mà sợ ai thù ghét. Của ấy Thầy đã chia cắt có luật pháp qui định hẵn hòi hay các con sợ không bằng lòng vì tình cũ nghĩa xưa để giữa nhau đẹp vui, tùy nghi mà châm chước.
Điều đó tùy con, nhưng quyết rằng quyền pháp chơn truyền, ngoài ý Thầy không được một ai canh cải, dù cho Tam Trấn hay Giáo Tông cũng vậy.
Thầy tạm thời cho một quyền pháp đặt lại vấn đề xây dựng nền Chánh Pháp Trung Hưng, lấy một nơi làm thể đạo. Nơi mà thể đạo hiện, không phải chùa to người đông, của nhiều hoặc phơi bày hình thức lòe loẹt, hoặc cọng thêm một vài quyền thế và hoàn cảnh mà cho đó bằng tượng trưng. Phải ở nơi thân của con người chức sắc. Chức sắc biết giác ngộ, biết thương đời mến đạo và lo trau sửa lấy thân, chăm chỉ sắp xếp cho nhơn sanh có một lập trường đứng vững. Cho có một khuynh hướng đúng đắn, có một tâm trường thỉ chung, có một tình thương chia sớt, thì đó mới gọi được kiểu mẫu mạnh lành. Các con cảm thông và giúp nhau cố gắng tu học.
Đây lâm thời thành lập một Ban Giáo Pháp, một Chủ Tịnh Đường, một người Pháp Chủ, một con Chứng Minh. Dưới tùy đặt các tiểu ban cung ứng cho nhu cầu, hoặc học giáo lý, hoặc tập hạnh giới, hoặc hành chánh bảo pháp v.v…
Tịnh chủ tạm gắn cho Tuyến. Chứng minh tạm gắn cho Toàn. Pháp nhân Trần Cư tạm giữ. Thông công Minh Đức tạm lo. Ngoài ra các con đồng góp ý xây dựng.
Song Trung Thành có một tịnh thất làm nơi tắm gội linh hồn cho chức sắc và đạo đồ có tâm giải thoát. Tạm cử tịnh chủ Bùi Đặng Đán chủ trì, chứng minh Thượng Khải. Pháp chủ do Tịnh Đường, đó cũng tạm đặt, để kinh nghiệm.
Sáu tháng sau, nếu được trọn, thì ban cho một quyết nghị. Thờ phượng cũng tạm thời một Thánh Nhãn, một hình Ngô Cao Tiên. Pháp khí một Thái Cực đăng, một bình tịnh thủy, song đối thủy hỏa tương giao. Ngoài ra y như Thiên Bàn ở thánh đường.
Về nghi lễ theo kinh cúng hằng ngày ở Chiếu Minh, thêm mỗi thời bài dâng hương theo kinh. Nếu thời nào có bài Thông Minh Chú, khỏi bài Khai Kinh, cuối cùng Ngũ Nguyện.
Chư chức sắc hoặc đạo hữu đã thọ pháp, còn ở gia đình hoặc đi hành đạo hay về Thánh Đường, y các ngày cầu sám chúc tụng theo lề lối cũ. Để tạm thời, sau Thầy sẽ định quyết. Nếu con nào có duyên với Chiếu Minh thì tùy ý.
(…)
Về tiếp quy làm phép xác, công việc chính của chư chức sắc ở địa phận sở trách, không được chểnh mảng từ nan. Khi đạo hữu hấp hối, Ban Trị Sự và đồng nhi thiết lễ cầu hồn, rồi bưng luôn ngọn đèn tại Hậu Thiên tịnh bàn để ngay trước mắt người hấp hối mà kêu tên mà khải thị. Xong đem đèn ấy để lại Hậu Thiên tịnh bàn cho đến mãn cửu sơ sẽ tắt. Nếu có Đầu Họ càng tốt, song phép nhập quan, phép xác (trì phép định phách) phải người Đầu Họ. Bất đắc dĩ không có, phải có một chức sắc ngang quyền hoặc ngang vị, thấp cao không quá hai bậc mới được thay mặt mà rửa tội trong ngày chung quy. (Người khải thị phải tu hơn hoặc bằng người quy liễu. Nếu trường hợp Chánh Phó Trị Sự trai kỳ mà đạo hữu trường trai quy liễu phải nhờ người trường trai hoặc chức sắc ở thánh thất khải thị.)
(…)
Chức sắc của Thầy hay chức sắc của Giáo Tông khi phận sự tròn, ngày quy liễu cũng được liệm phẩm phục để về chầu Thầy. Trường hợp các con chưa mặc phẩm phục theo chức vị thì ngày tịnh tịch được sắm liệm không trở ngại.
Các con cứ coi đây là hoàn cảnh đặc biệt, phải vô tư mà giải quyết. Các vấn đề đây và ngoài Bửu Tòa không có ý nghĩ tách rời. Bất đắc dĩ phải thực hiện để giữ lấy đường lối trung thành với quyền pháp sứ mạng trung hưng. Các con lo xây dựng thánh thất và giúp đỡ các thánh thất hay bạn đạo cùng tu, cùng học, cùng làm, theo đường lối từ xưa mà gần đây vì đôi cớ, các con phải giữ nguyên, chờ Thầy một ngày đem lại tình thương sự sống trong ơn quyền pháp, mà lẽ thật chưa hiện ra. Khi mây tan, trăng sáng, bạch bạch minh minh, ai không nhận được.
Các con ngày nay cần có một tòa nhà quyền pháp. Lâu đài ấy xây dựng trên lẽ thật, trong đó có sự sống tình thương. Muốn có lâu đài ấy, không phải một mình con hay vài đôi nơi mà làm đủ. Phải quy góp rất nhiều. Cũng như chọn cây cho xứng cột đáng kèo, đâu phải một núi một rừng mà có đủ. Phải tìm kiếm nhiều nơi.
Kèo cột, đó là hướng đạo trung kiên, từ trước đến nay không bị ngoại giới sai sử. Lâu đài kia còn phải cần nhiều cây danh mộc một sắc với nhau thì chánh pháp cũng cần có nhiều Thiên ân hiền đức trọn đạo. Song lúc chưa có lâu đài đạo pháp thì tạm thời các con cứ giữ nguyên nhà cũ của mình. Dầu có hỏng hư đôi chỗ, cố gắng đắp vá cho lành, không nên phá đổ để về với lâu đài. Khi mà lâu đài chưa đắp xong, mà nhà xưa mình đã phá, các con nghĩ làm sao đứng đâu cho khỏi mưa tuôn, nắng xé.
Thầy muốn các con vô tâm trước việc nầy. Chi chi cũng có Thầy trong đó. Quyết định một đường lối là lẽ tất nhiên, song lẽ ấy chưa thố lộ với con, chưa trao gởi vào con là vì con còn trong cảnh giới vô ký. Nếu thảng vô minh vọng thức bất giác mà sanh, bất giác mà khởi thì giữa con và các con kia với con phải gây nên một sự oan trái, danh nghĩa liệu sao? Giá mà con giữ được nguyên vẹn chơn tâm, thì không khéo Thầy đã vô tình làm cho các con kia nghiệp thức loạn khởi, bỏ tu, chống Thầy, trái đạo để thỏa mãn ý thù ghét ganh kia mới liệu làm sao?
Con nghĩ sao? Xưa Ngũ Tổ truyền y bát cho Huệ Năng mà còn một mảy không dĩ lộ, phải bảo trốn ngay lập tức trong đêm. Chính Người phải mở cửa phá rào đưa Huệ Năng đến sông, khi bước xuống thuyền đi khuất dạng Người mới trở về. Đến lúc mọi người biết thì Huệ Năng đã ngoài một trăm dặm, thế mà còn bị quân của Thần Tú đuổi theo. Trốn chui trốn đụt đó đây ngoài mười sáu năm, mà vẫn còn phập phồng lo cho thân mạng. (…)
Các con cẩn thận. (…) Các con đây và đạo hữu Trung Thành phải trăm lần cố gắng. Cố gắng để thành công, để được việc cho sau nầy. Nên Thầy cũng cho con biết sẽ gặp nhiều khó khăn, khó khăn không từng để ý. Phải ghê sợ, ghê sợ chưa thấy lần nào. Đó cũng là một sự ma luyện chí khí, tâm trường của các con, mà cũng đem cho các con đến một địa vị xứng đáng. Một năm, khó khăn một năm. Song trong hoàn cảnh phân vân và xao xuyến, nếu không đặt hết lòng mình với Thầy cũng có thể bán đồ nhi phế.
Về hành chánh, chờ Giáo Tông. Nếu điều kiện [Huệ] Minh Đức khỏe sẽ tiếp. (…)
Ban tất cả bồ đào cho toàn thất tiếp nối hồng ân cùng chung hoan lạc.
Thầy dặn con một lần nữa: Gắng chịu ma luyện, có Thầy trong con, chớ ngại.
Thầy thăng.
Cái không khí “thời khuê” (thời chia lìa) giữa Tịnh Đường và Bửu Tòa có phần bớt dần sự cách biệt. Tại Tịnh Đường, mặc dù đồng tử Liên Hoa tạm ngưng thủ cơ nhưng có Huệ Minh Đức (tá cơ quân Đặng Nhâm) thay thế. Các đàn cơ tại Tịnh Đường mặc dù Bửu Tòa chưa hầu đàn nhưng vẫn quan tâm tìm đọc thánh giáo để dò Thánh ý.
Thánh giáo trong đàn cơ dẫn trên đã mở ra cánh cửa giáo pháp nối lại hồng ân tiến đến phục hồi sứ mạng cho cả các hướng đạo Trung Tông. Đó là con đường dưỡng dục quần sinh. Nó không riêng ai, không vị ai, mà chung cả trong trời đất. Ai ở cương vị, lãnh vực nào phải chu toàn cương vị, lãnh vực nấy. Nhưng vấn đề cần chú trọng sau cùng là tu giải thoát. Đó là con đường thanh tịnh vô vi. Mọi phương môn công truyền hành đạo dần dần dắt dẫn đến tâm truyền tịnh luyện. Vun bồi việc thiết lập thánh thất kiểu mẫu là mở lối hình thành phần tâm truyền tịnh luyện, gầy dựng cơ sở tịnh thất. Đó là đạo tràng đưa chúng sinh đạt cứu cánh của sứ mạng trung hưng.
Trong hoàn cảnh quê hương chiến loạn, đất nước điêu linh, mối đạo cứu đời còn chông chênh nhiều nỗi. Về phương môn hành đạo đòi hỏi các Thiên ân phải xông lướt với khổ nạn của quần sinh.
Năm Giáp Thìn (1964), Hội Thánh tiến hành nhiều chương trình:
- Chuyển hai chức sắc (một Cửu Trùng Đài, một Hiệp Thiên Đài) từ Tịnh Đường trở về Bửu Tòa để góp vai hành đạo. Đó là Giáo Sư Thượng Hậu Thanh (Nguyễn Đạt Đức) và Thừa Sử Quân Hồ Tân Sinh.
- Ngày 01-3 Giáp Thìn (12-4-1964), khánh thành thánh đường Bình Định tại thành phố Quy Nhơn.
- Ngày 28-3 Giáp Thìn (09-5-1964), Chủ Trưởng Hội Thánh là Phối Sư Ngọc Quế Thanh hướng dẫn phái đoàn gồm hai mươi chín chức sắc đại diện các Hội Thánh về Tòa Thánh Tây Ninh vận động thống nhất đạo Cao Đài.
- Ngày 01-6 Giáp Tuất (09-7-1964), Hội Thánh thành lập Tổng Đoàn Thanh Niên Hưng Đạo do huynh trưởng Trần Quốc Luyện làm Tổng Đoàn Trưởng. Đây là một tổ chức nối tiếp Tráng Anh Đoàn và Thanh Niên Phước Thiện nhằm hướng dẫn tín hữu trẻ tu học đồng thời tham gia công tác xã hội.
- Gặp lúc chiến tranh lan rộng, Hội Thánh lập ba khu định cư cho đồng đạo tỵ nạn chiến tranh như: khu định cư Xuân Mỹ tại Hội An, khu định cư Vườn Lài tại Tam Kỳ, khu định cư An Hải tại Đà Nẵng.
- Lại thêm miền Trung thiên tai lụt lội khủng khiếp, Hội Thánh tổ chức cứu trợ nạn nhân, thiết đàn cầu siêu cho đồng bào, đồng đạo tử nạn trong bão lụt.
Giáo Sư Thượng Hậu Thanh về Trung Hưng Bửu Tòa đảm nhiệm Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế. Mặc dù bận nhiều việc ở Bửu Tòa nhưng Thượng Giáo Sư Hậu vẫn kiền kiền với tịnh luyện và luôn đến hầu các đàn cơ giáo pháp tại Tịnh Đường.
Đàn ngày 05-3 Giáp Thìn (16-4-1964) Đức Ngô dạy:
Ta đã làm tròn được cái ý của Cha Ta đã sai Ta xuống trần lần thứ hai nầy, đem bộ chìa khóa bí nhiệm cho toàn thể các bậc nguyên căn mở cửa trời mà về với Đấng Cha Lành nơi Thiên Quốc. Ta sở dĩ làm tròn được nhiệm vụ quan trọng ấy là ta biết vâng theo lời chỉ giáo của Cha Ta. Ta nói thật, ngoài Ta ra thì không còn ai là người cứu độ nữa.
Vì sứ mạng lần ba nầy, Cha Ta đã giao cho Ta, nên Ta có quyền cứu độ mà cũng có quyền xin Cha Ta để hành phạt. Đó là nói những kẻ phản nghịch, còn những kẻ nào được duyên lành quả tốt, đã chịu nghe theo lời Ta chỉ giáo, thọ nhiệm tâm pháp nơi Ta, thì phải noi theo gương của Ta mà gìn giữ lấy mình.
Đàn tại Tịnh Đường ngày 13-3 Giáp Thìn (24-4-1964), Đức Lữ Động Tân dạy:
Ngày tháng tiêu diêu một chữ nhàn
Một bầu Tạo Hóa rộng thênh thang
Cờ Tiên rượu Thánh vui quên mỏi
Chẳng bận lợi danh phải buộc ràng.
(…)
Lão đến chung vui, ban cho chư hiền một pháp môn lẽ thật mãi được tồn tại giữa nhau. Lẽ thật khi được hiện ra thì chư hiền khỏi nhọc lòng thanh minh chứng giải. Vì hôm nay còn trong cảnh manh nha trác luyện, mà phải nhọc lòng. Muốn cho thiên hạ biết, thiên hạ tu nên phải nói phi nói thị. Phi thị mà làm gì được rõ bày. Chơn lý được sống lại ở mọi người, chỉ có lẽ thật hiện ra. Lẽ thật có rồi thì khỏi cần bán rao giới thiệu. Lẽ thật không phải từ trời mà xuống, từ đất mà lên, mà ở chính nơi lòng người. Lòng người biết tu là lòng người trở nên thật. Có thật rồi thì mới hướng dẫn, mới dạy bày. Chứ đức bạc trí hèn, tự thấy chưa xong mà làm thấy được ai.
Cùng đàn ấy, Đức Lý Thiết Quả dạy:
Một bầu linh dược chẳng rời thân
Thương đám quần linh phải xuống trần
Dạy đạo khuyên tu thành chánh quả
Biết coi biết lựa khỏi sa chân.
(…)
Các hiền phần đông chưa đủ chánh tâm phân biệt chơn giả rõ rệt, hơn kém. Đôi khi cần cái giả mà cho là thật, có cái thật cũng nghi chưa biết phải không. Mà cũng khó thật! Ở đời sống trong vòng hữu lậu, ai cũng chuộng cái hình thức hữu vi. Thô hay tinh, cũng là sắc tướng.
Đàn tại Tịnh Đường ngày 23-3 Giáp Thìn (04-5-1964), Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy:
Các hiền hôm nay muốn đảm đương công việc tác thành chánh pháp trung hưng trước cốt phải có con người vừa sáng suốt, vừa mạnh mẽ, mới làm công cụ cho vạn hữu sự nghiệp.
Đàn hôm sau (24-3), Đức Lý Đại Tiên Trưởng dạy:
Lão rất buồn! Buồn cho đa số chúng sanh bị ở trong vòng đen tối, bị sự trói buộc chưa ngõ thoát ra. Nhưng cũng rất mừng, mừng được thấy một số đạo đồ có duyên lành quả tốt, sớm giác ngộ theo con đường chánh pháp, biết tìm lấy lẽ sống hằng còn. Thật là một ân phước của Kỳ Ba tận độ, đã đi trúng con đường về cùng Thầy một cách chắc chắn. Kẻ nào không bước qua con đường đạo pháp nầy thì khó mong về cùng Thầy được. Nhưng con đường nầy phải trải qua đôi đoạn chông gai trắc trở, phải có sự cố gắng mới đi đến chỗ thành công.
(…)
Đường nầy cốt tình thương lẽ thật
Cả sanh linh vạn vật đều chung
Đường nầy mầu nhiệm vô cùng
Người đầy duyên phước mới cùng bước đi
Bước đi đến vô vi đạo pháp
Mới là nơi hội họp cùng Thầy
Kiền kiền giữ mãi chớ khuây
Pháp luân thường chuyển mới đầy mới viên
Chi chi cũng tịnh yên là gốc
Cốt ở nơi tam độc trừ xong
Để cho thần khí lắng trong
Tam huê tụ đảnh mới mong dắc thành.
Đàn tại Tịnh Đường ngày 08-4 Giáp Thìn (19-5-1964), Đức Ngô dạy:
Sứ mạng lần ba nầy Thầy đã trao trọn quyền cho Ta. Ngoài Ta ra thì không còn ai là người cứu độ nữa. Đã trải ba mươi chín năm rao truyền chánh pháp, tự tay Ta đem giọt nước cam lồ rưới khắp mười phương, đem tin lành cho chúng sinh, nhưng cũng chưa được mấy người chịu hứng lấy để được cứu. Cũng vì chúng sinh còn quá vô minh, chưa nhận được con đường cứu rỗi của Ta. Không khéo vấp phải cái tội phản bội như dân Do Thái ngày xưa. Đã không tin Ta là bậc cứu thế mà còn sỉ mạ Ta, giết Ta. Rồi phải chịu một sự hành phạt rất ghê gớm. Nên dân tộc phải bị mất nước. Thành Giêrusalem cũng phải tan tành. Ôi!
Lần nầy Ta đến thế gian không phải như lần trước. Lần nầy Ta đến trước nhất với dân tộc Việt Nam. Dân tộc đã chịu hấp thụ với nhiều nguồn tín ngưỡng. Lần nầy Ta đến với thế gian không phải như lần trước, phải dùng nhiều phép lạ để làm phương tận độ. Lần nầy Ta chỉ tượng trưng cho đời bằng một con người giản dị, dùng phương pháp tu trì để đắc đạo quả, rồi truyền lại cho người một phương cứu độ độc nhất là con đường tu luyện.
Thánh thất Trung Thành sở dĩ đón được ơn huệ trước tiên là nhờ ở một duyên lành nhiều nơi góp lại và cũng trải qua nhiều công quả góp phần trên công việc xây dựng nền Trung Hưng chánh pháp, nên mới được Ta đặt nơi đây một thánh thất kiểu mẫu. Tuy chưa làm trọn được cái tên của nó nhưng cũng đã thực hành được nhiều việc đáng kể, mà nhứt là hình hiện được ngôi tịnh thất để mở một kỷ nguyên xán lạn cho muôn đời sau.
Cái ngày tận độ cuối cùng của Ta cũng chỉ làm trọn được cái ý nghĩa thánh thất kiểu mẫu mà thôi. Thánh thất kiểu mẫu là có cả thánh thất và tịnh thất. Thánh thất là nơi tiếp rước những người đi theo con đường thế đạo. Men bước vào con đường thiên đạo thì phải có nơi tịnh thất để đưa người lên con đường giải thoát. Có giải thoát thì mới được hưởng cơ tận độ của Thầy. Nói rõ hơn, vào tịnh thất để giồi luyện thân tâm thì mới được siêu phàm nhập Thánh.
Đàn tại Tịnh Đường ngày 23-4 Giáp Thìn (03-6-1964), Đức Quan Âm Như Lai dạy:
Ngày xưa Đức Phật Tổ thuyết Kinh Kim Cang đã nói rõ: Nếu người nào lấy của thất bửu dầy dẫy cả ba ngàn đại thiên thế giới, hay thân mạng nhiều như cát sông Hằng mà bố thí, so với người tu hành giữ tâm thanh tịnh không còn chấp trước ngã nhơn, chúng sanh thọ giả, thọ trì tứ cú kệ ([2]) thì công đức so với người bố thí trên kia nhiều hơn.
Xem như thế thì công đức tu hành không cứ ở lấy công hành đạo, mà cốt ở sự giồi luyện lấy thân tâm. Thân tâm có được giồi luyện thì huệ tánh mới sáng ra. Có sáng thì mới dẫn dắt cho kẻ tối được thấy, mới gọi là hành đạo.
Đàn tại thánh thất Trung Thành ngày 08-5 Giáp Thìn (17-6-1964), Đức Lý Giáo Tông dạy:
Phải có ân phước can trường mới gặp được chánh pháp. (…) Hiện nay con người của chư hiền có hai con đường phải đi. Một là công truyền, hai là con đường trung hưng chánh pháp. Con đường theo tôn chỉ, mục đích của Thầy là công truyền, tâm truyền tương đắc.
Con đường công truyền nếu có gia công tu học cuối cùng chỉ xử xong thế đạo. Nếu có công mà không tu luyện, thì còn ở trong vòng lục đạo, không tội mà chỉ được hưởng phước mà thôi.
Theo con đường trung hưng chánh pháp, tu hành chứng ngộ được đạo pháp vô vi của Tôn Sư thì sẽ được về cùng Thầy một cách chắc chắn. Con đường ấy Thầy đã vạch từ lâu, sở dĩ người chưa làm được là vì duyên nghiệp còn nặng, công quả còn non. Chư hiền nơi đây rất có duyên phước mới được hội ngộ, hôm nay mới được Ta có lời chỉ dạy.
Đàn tại Tịnh Đường ngày 08-6 Giáp Thìn (16-7-1964), Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
Tại miền Trung nầy Thầy đã xây dựng nên một nền trung hưng giáo pháp. Nghĩa là đem cả phần công truyền và tâm truyền hiệp lại làm một thể, để cho cơ cứu độ được trọn lành.
Đàn tại Tịnh Đường ngày 23-6 Giáp Thìn (31-7-1964), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Nền trung hưng chánh pháp trải qua cơn khảo chọn, đến nay có mòi tái lập.
(…)
Bước hành trình cũng thông tiến thối
Được thành công là bởi chí bền
Tòa nhà chánh pháp dựng nên
Nữ đồ được rạng tuổi tên với đời.
Đàn tại Tịnh Đường ngày 23-6 Giáp Thìn (31-7-1964), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
THƯỢNG hòa hạ mục đẹp lòng Cha
CHÁNH pháp truyền trao khá giữ mà
PHỐI hiệp đó đây vầy một khối
SƯ đồ quyền pháp cứu lần ba
TRẦN hồng gió bụi toan xua đẩy
HƯNG phế vì đâu phải thiết tha
ĐẠO đức gắng công ta thoát kiếp
GIÁNG thăng tùy lúc được dung hòa.
(…)
Giờ nầy Bản Thánh đồng ý cho Liên Hoa thủ cơ để Bản Thánh đặt lại vấn đề chánh pháp.
Bản Thánh định một kỳ đàn có đủ mặt các hiền nơi đây và chư chức sắc mấy thánh thất có tương quan cùng cơ giáo pháp để Thầy đến minh định một con đường.
Đàn tại thánh thất Trung Thành ngày 28-6 Giáp Thìn (05-8-1964), có mời các thánh thất kiểu mẫu hầu đàn:
Đoái nhìn non nước cảnh tang thương
Giải khổ tìm chưa thấy lối đường
Đông chiến Tây chinh da thịt trộn
Trông còn tình đạo nức lòng thương.
Bản Thần chào chư Thiên ân, chư đạo tâm nam nữ. Giờ nầy có chư Thiên Đồ Trung Bảo đến cùng chúng ta, với niềm yêu thương trong Hội Thánh. Chư hiền khéo sắp xếp đàn nội được thanh tịnh trang nghiêm, chung quanh bên ngoài đừng vọng động. Chư phận sự tận tụy với bổn phận để khỏi sơ sót lỗi lầm. Bản Thần Hàm Chương Trấn Đạo ([3]) xin chào quý Thiên ân liệt vị. Xuất đàn.
TIẾP ĐIỂN
HỮU CHÍ thì nên mối đạo nhà
CHƠN KHAI chánh pháp đạo Kỳ Ba
BỆNH PHU sớm biết nên ngăn trị
CHẤT phác làm gì phải xảy ra.(4)
Chào chư Thiên ân và nữ nam mấy em thân mến.([4])
Chư hiền và mấy em thân mến. [Hãy] vì quý anh giữ thanh tịnh, ngồi nghe một đôi lời tâm tình nội bộ. Bên ngoài không vào được cũng gắng để lòng liên hệ câu chuyện đêm nay.
Bốn anh em chúng tôi hôm nay về đây cùng một lần trong câu chuyện quyền pháp nội bộ. Quyền pháp nội bộ được trở nên một sức mạnh phi thường. Người của Hội Thánh ta ai cũng nể nang con người đứng trên lập trường thuần chơn vô ngã. Quyền pháp cao trọng được ơn Thầy đoái thương, đã ban trao chốc lát hình thành một Hội Thánh. Hội Thánh được chào đời với một ý nghĩa lịch sử trên tinh thần duy nhất giữa thiên đạo và thế đạo, giữa Trời và người, giữa nay và xưa, không phân ranh giới màu sắc chủng loại. Hồng ân ấy có được là do quá trình công đức của hồn đất nước, của dân tộc, của khối chơn thành đạo đức các bậc hướng đạo và chư đạo tâm giác ngộ, nên Hội Thành mới được ra đời.
Hội Thánh ra đời lãnh một sứ mạng thông công để cứu vãn tình trạng đã bị đổ nát, đã bị rẽ riêng để tiến sâu vào con đường xây dựng một cuộc đời an vui cả xuất thế và nhập thế.
Nhưng Hội Thánh thành hình trước không đức, sau thiếu tài. Nhiệm vụ người Thiên ân chưa đủ [để mà] đới Thiên hành đạo với gánh nặng đường dài. Nhưng có chối từ cũng không được là vì ý Trời đã định. Dầu muốn dầu không hoàn cảnh bắt buộc phải đương đầu, mà kẻ mất người còn cũng đồng hợp sức nhau cùng lo sứ mạng.
Về phần hữu hình, phó cậy ở các em trông nom dìu dẫn đạo đồ, lấy lễ hòa người, lấy người làm sự nghiệp.
Còn về vô vi, Hội Thánh có chúng anh làm Trung Bảo, mặc hộ âm phò cho công cuộc và cho người hướng đạo sớm được trọn đẹp ý Thầy và vận chuyển bằng điển quang, hoặc bố hóa, hoặc chở che, hoặc để tiếng dạy khuyên, hoặc cầu xin chế giảm mà nửa phần Hội Thánh chúng anh chịu trách nhiệm cùng Thiêng Liêng. Đặt từ phẩm Phối Sư trở lên Đầu Sư, Chưởng Pháp và Giáo Tông đều vô vi lãnh đạo.
Vì vậy mà phần hành chánh, Tổng Lý đặt quyền pháp ở Đức Trần Hưng Đạo Đại Vương, Hiệp Lý thừa hành. Hành Chánh vô vi đặt lại cho Trần Nguyên Chất. Phổ Tế, Chơn Khai. Phước Thiện, Ngọc Trác. Minh Tra, Hữu Chí giữ phần tinh thần. Thì Hội Thánh ta các em cũng nhận thấy hiệp cả vô vi, hữu hình. Dầu cơ cấu tại thế nầy dẫu to lớn, dẫu phẩm vị cao sang cũng phải có một phần Thiêng Liêng đầu đuôi mới trọn. Mà đầu đuôi không còn một ý thức, không được sự dính liền thì làm sao được gọi thành hình, được kêu Hội Thánh.
Hội Thánh hữu hình giữa tình linh sơn chia rẽ, nội bộ bất đồng, bất nhứt, trên dưới đăng đê, quyền pháp thiếu linh, đức không xứng, tài không hơn. Vì vậy dưới trên lờn lã, tình thương mất mát, sự sống khô khan, lẽ thật giữa nhau như chừng chẳng thấy nữa, thì bảo sao danh nghĩa không lu mờ, tâm linh không ám muội.
Tâm đã ám, quyền pháp không còn thì ma quỷ đâu đó khởi lên, lợi danh chưng bày để rồi cám nhử. Ơn Trời không chảy đến, phước cũng đã cạn mòn thì vận đạo phải suy, nghiệp lành bị đổ.
Nếu Hội Thánh còn nghĩ tình xưa nghĩa trước, mỗi mỗi đều tin có Hội Thánh vô vi làm nòng cốt, nhứt nhứt phải được hỏi han, phải trọng yếu phần lãnh đạo. Dầu hữu hình có lầm lỡ, bị xảo kế của tà quyền, thì cầu hỏi phần Trung Bảo pháp quyền dẫn bước đưa chơn, giúp hay, bày thiệt. Ngặt phần thông công đóng cửa, người không đặt đức tin vào chỗ vô hình mà hóa trở nên con người tự kiêu tự mãn.
Bây giờ cớ sự nội bộ đã đi đến khó khăn lùi sụt, tình trạng mỗi ngày thêm gay gắt, lòng đạo nguội lạnh mỏi mòn, không biết trông đâu nương cậy, thì phải sao đây? Để được nối liền, để tình thương đâu đó được đượm nồng ấm áp như trước kia, nhựa sống của Thiêng Liêng gắn bó trỗi lên không còn khô khan yếu nhụt, thì chúng anh cũng đồng ý với các em, phải được hòa nhứt cho nội bộ chóng được mạnh lành, phải đặt ở Thiêng Liêng một đức tin dẫn đạo và cải tạo sửa mình để phối ứng cùng trời đất, lúc sống có sự cảm thông, lúc quy hồi cũng chứng phần tiêu diêu giải thoát, thì quý anh khuyên các em an lòng chờ có một sự vận chuyển mà các anh đây đương lo cầu khẩn ở cơ mầu nhiệm hiện ra.
Chắc chắn phải hòa thân duy nhứt, song không do tay người làm được, ý người tính nên, mà phải tin ở quyền Thiêng Liêng và tin ở phần đông đạo tràng giác ngộ. Đạo tràng nhận được giá trị của quyền pháp, nó được tác dụng bằng cách nào, ở đâu và ai là người có chịu quyền pháp.
Nếu các em nhìn thấy tiền đồ nền đạo còn phải trải qua, mục đích của mình đến đó, được chi cho thân, lợi chi cho bạn. Thân không tu không chứng, bạn không tin cậy, là thân còn đắm đuối chưa đủ tượng trưng. Mà muốn cứu chuộc sứ mạng này không lấy công đức ở lòng thiết tha, biết ăn năn hối cải, thì có gì thay thế, đem sự nghiệp trở về với toàn đạo, với tương lai?
Hôm nay sự hội họp như vầy cũng một dịp thông cảm, để nhắc cho mấy em có một trình độ nhận thức hầu khỏi lầm lẫn, sao chánh sao tà, đường nào nên theo, đường nào nên tránh.
Theo không phải cầu vui hay dục vọng, mà làm sao dầu nhỏ dầu lớn cũng có một tương lai. Việc làm của mình cuối cùng lòng không ân hận. Tương lai là xứ sở của mọi người, mọi người nên đặt tương lai lên để phụng sự. Tương lai là nguồn sống tươi đẹp, thì hiện tại phải làm sao giâm cấy được hạt giống yêu quý của mình đương mơ màng, người cũng thích. Tương lai không bất bình, thì hiện tại đừng gây nên mâu thuẫn. Tương lai được bền vững, là tâm đức phải trau giồi. Tương lai khỏi lôi thôi, thì bây giờ đừng nên lầm lẫn. Tương lai của Hội Thánh là nguồn sống của chúng sanh. Hội Thánh là người mẹ chăm sóc những đàn con, người cha đương che chở xây dựng. Cha với mẹ của loài người lúc nào cũng nghĩ đến cho con lớn, cho khôn cho đẹp, cho mở mặt cùng mọi người, thì Hội Thánh luôn luôn dẫn cho các em một con đường về với Thầy sống với bạn. Về với Thầy bằng pháp môn giải thoát, tâm được tỉnh, thân được lành. Ở với bạn, sống với bạn, bằng lẽ thật tình thương, chung nhau xây dựng lâu dài, trước sơ bộ đại đồng, sau đại đồng trong bốn biển.
Con đường mấy em cần vượt qua, không luận xa hay gần, dễ hay khó, vì mục đích mà cố để thành công. Đâu phải ham vui, cậy có mạnh, ỷ có đông, biết cái vinh trong chốc lát mà bị cái nhục ngàn ngày, ưng cái danh nhứt thời, mà quên cái thân muôn kiếp. Thì trên con đường cứu thân dụng đạo, có một dịp hội hiệp như lần nầy cũng nên tâm sự mà bàn giải việc Hội Thánh như cảnh ngộ này phải làm sao, phải tính sao. Đường nào làm cho giữa nội bộ mạnh lành, Thánh thể hoàn nguyên, sứ mạng nầy được phục sinh, quyền pháp nầy được tái lập, Hội Thánh nầy được đồng sự, cộng tác cùng Trời, mà lo cứu độ chúng sinh, cùng Phật Tiên Thánh Thần làm bạn tri âm, sớm chiều đó đây mở đường rước đưa nhơn loại.
Hội Thánh này đặt trên thời gian, không gian làm nhịp cầu cho chúng sanh được bước, làm con đường cho chúng sanh được đi, làm vị Thần trấn ngự cõi ta bà, không để một chước kế nào của tà thần nhiễu loạn chúng sinh, thì Hội Thánh đáng yêu, người chúng ta đáng mặt môn đồ, đảm bảo quyền hành mục đích.
Vậy tối mai có Di Lạc Giáo Chủ Long Hoa Tam Kỳ Chưởng Hội đến ban cho chúng ta một nhận định về với chánh pháp, làm người tương lai và được vào trong bản phong Thánh dự chứng của địa cầu 68 đã chuyển qua thời đại thuần dương. Con người trên quả đất nầy đều chứng kim thân làm người Phật Thánh. Song trước ngày biến thể, phải chịu một cuộc sát hạch gớm ghê. Ta phải làm sao để phải nằm trong bàn cảo chọn thì chỉ có tu. Tu làm sao mà đắc đạo, làm sao cứu chuộc sứ mạng trung hưng, thì theo báo lệnh của chư hiền đệ nơi đây, để đặt lại mối thông công giữa Trời và người, mong thành hình một Hội Thánh Quyền Pháp, đồng nguyện xin giữ lời giao ước lại, ngay lúc đăng đàn hồng thệ lãnh lấy sứ mạng Thiên ân.
Điều mong muốn của chư hiền đệ, mấy anh ước vọng và vui mừng. Song sau giờ đăng đàn hồng thệ, vì sự khảo đảo mà Hội Thánh hầu hết chối bỏ giao ước, mà còn phụ hồng ân. Nếu các hiền đệ gắng được thì quý anh đây sẽ phò trì giúp đỡ, và lời xin của các em, đương sự mong muốn của toàn đạo, cũng như lãnh chịu tội lỗi cho nhơn sanh, thì lòng ấy động đến cơ mầu nhiệm của Trời. Chắc nay mai đáp hồi sự trông đợi.
Việc xảy ra trên hai năm qua trong Hội Thánh giữa các hiền, kẻ lo thế nọ, người lo thế kia hàn gắn, song thế gì cũng thử mà chưa đi vào đây. Bây giờ trở đi mọi việc phải lo phải làm thì làm sao cho trúng cho nhằm, được lợi cho thân mà cũng lợi cho người, cho đoàn thể, cho bạn, thì có mặt đây các hiền đã được nghe lời Tổng Lý dạy, thì phải liệu định làm sao đây? ([5])
Các hiền đệ! Ý của chúng anh, muốn hiệp trước tu cái lòng. Lòng ấy hiểu đúng, làm đúng theo đường lối chánh pháp, theo sứ mạng trung hưng, thì chưa hiệp rồi cũng hiệp. Nếu trái lại mà hiệp được, cũng hiệp được đám sai làm trái mà thôi.
[Bạch …]
Sự chưa hiệp, mà ý đã hiệp được chưa?
Muốn xây dựng tương lai thì hiện tại phải bắt đầu đặt mầm xây dựng. Cũng vậy, vấn đề này ngay bây giờ mỗi người phải đặt lòng xây dựng nội bộ hòa hiệp. Xây dựng những gì?
Vô tư trên vấn đề dành phần hơn, tranh phần phải. Đừng nghĩ được lo mất, chính tâm diệt dục, cầu nối quyền pháp giao thông. Hiểu không?
Chính tâm diệt dục là cầu tịnh định, luyện pháp luyện châu, giữ giới hạnh mà giao thông cùng người. Người nào nơi nào có đủ giới hạnh thì giao thông. Hiểu không?
Phật Tiên có giữ giới hạnh không? Quý anh đây có giữ giới hạnh không? Bạn tu ở thế như anh lớn, em nhỏ trong nội bộ ta có giữ giới hạnh thì hai bên được giao thông. Đạo Cơ Đốc, Phật Đà có giữ giới hạnh thì ta giao thông. Phật Tiên là người trọn giới hạnh, các hiền có giới hạnh thì thì hai bên được giao thông. Người bên kia, kẻ bên nầy đều có giới hạnh, đều cùng giao thông. Nghĩa là giới hạnh không ranh giới, mà ranh giới giữa người không giữ giới hạnh.
Bây giờ ta đặt vấn đề hiệp một bằng cách nầy. Một là hiệp lòng mình được với quyền pháp. Lòng mình hiệp được với đại thể là hiệp rồi. Các hiền nhớ lại, Hội Thánh thành hình có hai mặt: nửa phần Thiên, nửa phần nhơn. Trong nhơn sự Hội Thánh thành lập có hai phần: phần vô vi và phần hữu hình, hiệp làm một đường lối trung hưng. Đường lối trung hưng phải có Thiêng Liêng xiển minh giáo pháp, lý giải cơ cấu tương quan. Lấy đó để thảo luận cùng đạo hữu.
Bây giờ còn chờ đợi sự liên hiệp. Các đệ ráng giữ hạnh đạo đức, lo tu và lo vùa giúp chúng bạn đồng đường thực thi đúng theo pháp luật đã ấn định và nội luật đã ban hành. Xây dựng nhà tu theo chương trình giáo pháp. Cố gây cho nhau một tình sống thương yêu ở sơ bộ đồng đạo đại đồng. Nghiên cứu, sáng tác tài liệu giúp bạn xa gần học hỏi. Chỉ bày cách tu, cách tịnh. Ai kẻ muốn ham đừng giành giựt, đừng thị phi, đừng cãi qua cãi về sanh phiền não mà thêm người dư luận.
Vậy hôm nay gắng cùng nhau đưa các vấn đề bàn thảo rồi tối lại thiết đàn để Thầy sẽ đến ban ơn. Mọi việc chờ ở quyền pháp. Quyền pháp mới chuyển hóa được người. Quyền pháp mới tròn sứ mạng.
Về việc tạm thời dừng cơ bút, giữa hai bên cũng đừng gây thêm chia rẽ. Gần đây sẽ giải quyết mọi việc. Dầu muốn dầu không cũng không trái với nó được. Cơ bút có linh phải trong tay người có sứ mạng, có quyền pháp. Ngoài ra, Tòa Tam Giáo không thừa nhận, dù giáo hóa cũng vậy. Nên bây giờ nói đến cơ bút, nhiều người phân vân sao là thiệt, sao là không? Ai đâu biết được! Sợ đưa ra bất bình, chia rẽ hẳn không phải của Thầy. Song người nào phạm đến quyền pháp bị bỏ ra cũng đừng cho đó là ma quỷ.
Tối 29 mời chư chức sắc Trung Thành để sắp đặt nội bộ. Tối 28 chư đạo tâm xong đàn rồi về. Nếu thong thả tùy ý.
Ngày hôm nay bàn mọi việc chung quanh vấn đề làm sao hiệp được. Chúng anh nói, không phải bàn tay của người làm được việc này, mà phải của Thầy gần đây với một sự nhiệm mầu chưa từng có. Song bàn để có một ý thức, để có một tư duy phát tâm ưu ái, lo tu lo học và thấy được tương lai, xây dựng tương lai.
Thôi đã mãn canh nói cũng nhiều
Khuyên nhau giữ trọn sự thương yêu
Làm sao sứ mạng chung gìn giữ
Chào cả mấy em để mấy điều.
Tiếp liền tối 29 đàn được lập, Đức Hoan Hỷ Chơn Quân Như Sơ dạy:
Chào mừng các em.
Trông lại nền xưa cảnh phục hồi
Nhớ còn đạo hữu sống cùng tôi
Như sơ như cựu như giờ nữa
Nguyện hợp sức nhau để đắp bồi.
Đức Như Sơ đến với đàn nội với tình xưa nghĩa cũ, khuyên nhau tu học trong nhẫn hòa. Hãy đồng cam cộng khổ, chết sống có nhau như ngày nào. Ai cũng mưu đạo, đâu phải mưu sanh. Mà đạo là con đường của Trời vạch sẵn, đâu phải kẻ đâm xuyên, người thọc quẹo được. Sau cùng, Đức Như Sơ dạy:
Đường nào, nếu không do lòng tin nối tiếp cùng Trời, không do giới luật ngăn ba độc ở lòng, không tiếp ân, luyện khí, định hồn, làm sao hỗn hóa cùng Trời, đồng hóa với vạn loại? Vậy mấy em tu, mấy em học, vậy mấy em dung hòa “quần nhi bất lưu” mà bỏ gốc theo ngọn!
Anh buồn là hôm nay thiếu mặt các em ở các tỉnh, các họ đạo trong Tông Đạo của mình. Anh cũng nhắn lời thăm. Anh cũng cầu nguyện giữa nhau nối tình thông cảm. Các em nghiêm chỉnh để tiếp Phật Long Hoa. Tái cầu lo sắp đặt.
TÁI CẦU
Hỷ chư môn đệ. Hỷ hỷ chư chúng sanh.
LONG vân gặp hội sớm chen chân
HOA hội muôn năm dễ mấy lần
GIÁO pháp trung hưng trung vạn giáo
CHỦ quyền chơn đạo, đạo thuần chơn
DI Đà Tây hướng tâm thường trụ.
LẠC địa Nam bang hiện thánh thần
BỒ đắc tình thương thêm lẽ thật
TÁT kỳ tu chứng độ nguyên nhân.
Chư môn đệ, chư chúng sanh ôi!
Hân hạnh thay! Chư chúng sanh gặp kỳ đại xá, tuy sống trong cảnh đời tàn, tiếng súng tiếng bom, thiếu ăn thiếu mặc mà được Đạo ra đời, được Trời khai Long Hoa Đại Hội. Chư chúng sanh sẽ dự bản phong thánh, chứng quả vô sanh. Dầu nghiệp duyên còn vướng trần, ngày tới cũng được sống trong cõi đời thuần dương đại đồng, hưởng kỳ thánh đức.
Quả địa cầu 68 này đã trải qua ba nguơn hội [129.600 năm x 3] được chọn vào nguơn Thánh cực. Trước đây trên năm trăm năm, tại Ngọc Kinh mở hội Quần Tiên, chọn Bần Đạo xuống thế trị đời. Đức Ngọc Đế cho theo sáu mươi ức Bồ Tát, Thánh Đạo Tiên Chơn, để cùng Bần Đạo tái lập cõi đời, đưa chúng sanh về Thiên quốc, thoát vòng sanh tử luân hồi. Còn một số ở lại ta bà lấy công đức xây nền quốc độ, để đưa chúng sanh quả địa cầu 69 tấn thăng thọ pháp vô sanh.
Đến năm Bính Dần, giờ Dần, ngày mồng một tháng Giêng, tất cả chư Bồ Tát còn lại nơi Thiên Đô đều nương điển Thầy, nguyện sanh xuống thế, hứa kỳ công quả. Thì trái lại, hôm nay một số đông Bồ Tát đương chìm đắm trong dục giới ta bà, còn say chưa tỉnh. Có những người được trỗi dậy, kẻ ra tu, kẻ đương học, kẻ hành quân và chấp chánh, hoặc làm thầy làm tớ, làm ruộng đi buôn, đủ cách độ đời, tạo muôn nghìn phương tiện.
Nơi đây các môn đệ được nương điển Thầy, được trong quyền pháp, được thừa Thiên lãnh giáo, được thọ nhiệm đương vi, được tập tu thông huệ, được học pháp xuất thần, được chăn giữ đàn chiên, được lập công hành thiện, thì cũng may mắn lắm rồi.
Bần Đạo đến đây mục đích điểm hóa cho môn sinh, khải thị một con đường định thể hồi sinh, trực nhập cùng khối bao la để thiết lập Đại Hội Long Hoa, tuyển phong Bồ Tát Thánh quả.
Đàn đêm 30-6 Giáp Thìn (07-8-1964), Đức Bảo Nguơn Chơn Tiên Trần Nguyên Chí, bậc Thiên Đồ chủ về tịnh thất nối tiếp điển lực hướng về tinh thần phục hồi quyền pháp sứ mệnh. Đức Trần Nguyên Chí dạy:
Suốt ba đêm ngày, nơi đây tấp nập kẻ đi người về để đón chờ một lời Thiêng Liêng phán định. Lòng ấy đã chứng tỏ khối hướng nhất thành của đạo tâm, để rồi quyết định đường mình phải đi, chỗ mình phải đứng, việc mình phải làm, lòng mình được đóng góp vào để xây một nền chánh pháp cho tương lai sẵn lối về Thầy, cho nhơn sanh trong bốn biển, trước bao nguy nan xáo trộn do thần nguyên tử trào lưu, do óc khôn ngoan của trò khoa học, do ý dục thèm muốn của con người thời đại ngổn ngang.
Lòng đạo tâm còn đón đợi một nguồn tin đây đó. Tình trạng ra sao, kẻ hướng đạo, người Thiên ân có hiệp tác với nhau mà quảng bá mối đạo lành, đắp xây cho khối trung hưng sớm được hoàn thành, lấy giác ngộ để chuộc lại lòng giao ước đã cùng nhau trong khi đăng đàn hồng thệ không?
(…)
Thế thì con đường của trung hưng vừa phác họa là hai yếu tố cần thiết của cơ cứu chuộc và sự bảo tồn. Vì lẽ chưa gặp nhau, hoặc vì đôi bịnh tự ái, bất bình của cá nhân mà nội bộ trở nên khó khăn gián đoạn. Song cũng chung nhau mà cầu nguyện.
Chư hiền chuẩn bị tái cầu Giáo Tông.
Đàn tái cầu, Đức Lý Thái Bạch dạy:
Một dịp cho chư Thánh Thiên Đồ được nói lên những điều nhận biết của người có sứ mạng thiêng liêng, đứng bên trong vô hình mà lãnh đạo điều hành Hội Thánh. Cũng một dịp cho chư đạo tâm cảm thông đường lối lập pháp trong buổi Tam Kỳ. Đặt lại vấn đề trung hưng mà trung hưng chánh pháp, thì từ đây trở đi khỏi cần nghe đó ngó đây mà không quyết con đường đi tới.
Lão nhơn danh quyền pháp ban cho nơi nầy một phần công vụ. Nam nữ trên dưới chung sức mà lập công, chung lòng để hướng về ngôi Từ Phụ.
Trung hưng chánh pháp tuy chưa được thành hình, song cũng còn có người hưởng ứng thực thi, đặt nhau trên quyền pháp để giải thoát cho mình, để xây dựng sau nầy cho công cuộc tái hưng nền Đại Đạo. Chư hiền đặt đức tin vào sự mầu nhiệm mà cầu học nơi Thầy, để rước để đưa toàn đạo.
(…)
Về Trung Thành, họ đạo và chư chức sắc vui nghe lời Lão, hiệp sức nhau mà xây đắp một lâu đài đạo pháp, một quyền pháp tượng trưng. Một cơ sở thịnh đức an cư, tuy chung quanh xã hội chìm đắm mê man mà địa hạt mình tươi vui bình tĩnh.
Vậy gắng lên! Các xã đạo đồng sức hiệp nhau xây dựng một thánh thất kiểu mẫu. Thánh thất quyền pháp thành hình, thánh thất nguồn sống mà sứ mạng đặt vào. Lấy đó để khai đường thuyết giáo, mượn làm cơ sở Giáo Pháp Trung Tông.
Đã liên tục ba đêm hầu đàn từ nửa canh hai đến suốt sáng. Lời thánh giáo từ cõi thiêng thấm thấu tận tim gan mối tâm thành. Các Thiên ân hướng đạo được khai thị, chỉ điểm về đường đi lối đến của sứ mệnh đang gánh gồng.
Đàn đêm 01-7 Giáp Dần (08-8-1964), Đức Bảo Thọ Thánh Nương dạy:
Trải mấy hôm ơn Cao đã rưới
Khuyên đạo tâm trên dưới đồng tâm
Từ đây ai cũng chí chăm
Dọn lòng trong sạch để cầm pháp tu
(…)
Nữ phái còn nghinh ngang lắm ả
Nữ phái còn rời rã lắm ai
Còn đương chưng sắc khoe tài
Còn chơi ca kịch, bạc bài không thôi
Còn ăn không ngồi rồi nói nhảm
Còn ỳ thân cậy bám vào người
Quỳ hương cúng nước biếng lười
Chụm năm chụm bảy nói cười bâng quơ
Sao không quý ngày giờ vàng bạc
Sao không lo tuổi hạc chừng bao
Giới quy chẳng lấy làm rào
Sân si cứ thích rước vào mà chi.
Đàn tái cầu, Đức Lý Giáo Tông dạy:
Sau ngày một số Thiên ân lui về lo phần tu dưỡng thì chư chức sắc, chức việc họ đạo Trung Thành đã đại diện cho toàn đạo dâng kiến nghị thỉnh cầu Hội Thánh được duy nhất nội bộ, làm đúng với đường lối chánh pháp trung hưng. Song thời gian qua cũng chưa đem lại kết quả mà đường lối chánh pháp mỗi lúc xa lần. Lão có xuống lệnh cho Trung Thành xúm nhau xây dựng một thánh thất kiểu mẫu, để giữ cái sườn của Tông Đạo, cái mẫu mực của Trung Hưng.
Đức Lý ban ân chỉnh đốn xây dựng thánh thất kiểu mẫu cho Trung Tông Đạo; thánh thất tiêu biểu là Trung Thành. Một thánh thất kiểu mẫu phải chăm lo chú trọng cả hình thức lẫn nội dung, cả phần học lẫn phần hành. Từ đầu họ đến các ban ngành. Ngài dạy:
Hành Chánh là nơi thâu nhận lời thể cầu của toàn đạo, những nguyện vọng thiết tha.
Phước Thiện đáp lại lòng mong muốn của người trong vòng quyền pháp.
Phổ Tế lo truyền đạt ý Thầy, dọn đường lưu thông cho Trời người gặp lại, ban rao giáo pháp mở mang bờ cõi phạm vi, thức tỉnh mười phương, đặt hướng cho đời trở lại nguồn an ủi.
Minh Tra minh sát nội tình, cảm nhận nỗi lòng người và hoàn cảnh để vá đắp cho những cái gì bị sứt mẻ, nối chắp những mối dây chưa thông cảm, không để cho một cớ mà bị phanh phui, giải quyết cái gì mà dưới trên chưa hòa nhứt, che chở cho đạo hữu đời sống thiếu sót bị hoàn cảnh gây ra. Tóm lại, Minh Tra là một lối giao thông, một chìa khóa mở các cửa lòng để cho lòng lòng được gặp.
Đầu họ, quyền pháp tối quan trọng. Làm sao đây, gánh nặng đã đặt lên vai người? Người phải lo liệu cách nào cho toàn đạo, kẻ sống đương quằn quại, khổ đau, phập phồng từng lúc.
Sức đời mạnh mẽ quá, cứ lôi cứ kéo, cứ trì không ai vật ngã nổi ma đời mà cứ để chịu cho nó đè lên, xô xuống mãi. Tinh thần toàn đạo còn yếu nhược, sức sống của linh hồn chưa trỗi dậy, là vì đức của Thiên ân, quyền của hướng đạo chưa đủ cảm hóa, chưa đủ khiến trị vật tính.
Vì vậy chư hướng đạo, chư Thiên ân trong thánh thất hay Lễ Sanh, Luật Sự, hàng Hành Thiện trở lên phải nỗ lực tiến tu, mở lòng cầu học, đặt mình nơi thanh tịnh để đón lấy quyền pháp hồng ân, xách túi càn khôn, mở ra lấy Tứ Bửu Linh Châu mà chế luyện nhiều lần cho pháp được linh, cho ơn được rót đến mọi người trong một họ.

-------------------------------------
([1]) Thánh thất Trung Thành và Tịnh Đường còn chung một nơi.
([2]) Tứ cú kệ là bốn câu kệ trong Kinh Kim Cang: Nhất thiết hữu vi pháp / Như mộng huyễn, bào ảnh / Như lộ diệc như điện / Ưng tác như thị quán. (Mọi pháp hữu vi / Như mộng huyễn, bèo bọt / Như sương cùng như chớp / Nên xem xét [sự vật] như vậy.)
([3]) Hàm Chương Trấn Đạo là quả vị của Hành Thiện Chế Văn Sanh (sinh tiền tu ở thánh thất Trung Thành).
([4]) Ba vị Thiên Đồ Trung Bảo là Tiếp Văn Pháp Quân Cao Hữu Chí, Chơn Khai Đạo Nhơn Nguyễn Quang Châu, Hộ Đạo Thiên Quân Trần Nguyên Chất. Vị thứ tư là Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn Huỳnh Ngọc Trác, lúc sinh tiền tự xưng là “bệnh phu” (người có bệnh).
([5]) Đức Tổng Lý dạy trong đàn ngày 23-6 Giáp Thìn (31-7-1964): Về công truyền giáo pháp mượn Trung Thành làm cơ sở xây dựng đường lối trung hưng. Chư hiền bất cứ ai có phận sự trong hệ thống giáo pháp, các ngày đàn lệ đến Trung Thành hành lễ. Nếu các tu sĩ nơi này chưa qua hệ thống Chiếu Minh cũng về đó hành lễ. Còn các vị nào tu theo hệ thống Chiếu Minh mà muốn đi hành đạo Cơ Quan Giáo Pháp, thì cũng y theo quyền pháp công truyền.


PHẠM VĂN LIÊM

GIÁO DƯỠNG SỨ ĐỒ





(Sự Nghiệp Trung Hưng / Phạm Văn Liêm)


Lời Đức Đại Giác Kim Tiên: “Bản Thánh khuyên các hiền gắng mà làm được con người cho chánh pháp trung hưng. Gắng mà làm xong những trang sử đạo đang còn lỡ dở.”
Chánh pháp trung hưng là của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do Đức Chí Tôn trao cho dân tộc Việt Nam gồm có nội giáo tâm truyền và ngoại giáo công truyền. Như vậy làm được con người cho chánh pháp trung hưng là làm một môn đồ đắc được cả công truyền và tâm truyền. Con người đó là công vụ sứ đồ mà Đức Chí Tôn đã đặt để vào hàng Thiên ân Trung Tông Đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
Thiên ân công vụ sứ đồ Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài được Thầy trao cho sứ mạng trung hưng tức là công cuộc hoàn tất chánh pháp bằng việc quy nhất công truyền và tâm truyền. Nói cách khác là đưa dắt nhân sinh từ phương tiện đến cứu cánh bằng cách hành đạo và tịnh luyện đi đôi. Về hành đạo thì Hội Thánh tạm đạt thành nhưng về tịnh luyện thì chỉ mới “luyện châu là cái bước đầu”. Vậy là còn lỡ dở, cho nên Đức Đại Giác Kim Tiên bảo: “Gắng mà làm xong những trang sử đạo đang lỡ dở.” Trang sử đạo lỡ dở đây có thể chung cả nền Đại Đạo chứ không riêng gì Hội Thánh Truyền giáo Cao Đài. Đức Kim Tiên cũng bảo rằng làm được là có lòng định hướng. Hướng định của các vị Thiên ân ở đây đã có sự vận chuyển thọ pháp vô vi Tam Thanh mà Đức Chí Tôn đã trao cho Đức Ngô từ hội Canh Thân.
Trong khi các vị Thiên ân ở nhà tịnh chí chăm theo hướng tịnh định, có sự dẫn dắt của Ơn Trên, quyết chí gầy dựng cơ sở bí pháp tâm truyền thì các Thiên ân ở Hội Thánh lo mở mang Giáo Hội theo hướng công truyền, đẩy mạnh mặt văn hóa xã hội. Ngọc Giáo Hữu Trương Sư Xuyên được đặc trách mở trung tiểu học Hưng Đạo tại Tam Kỳ. Ngọc Lễ Sanh Trần Phước lo lập đồn điền cao su tại Phước Long. Ngọc Giáo Hữu Mai Dinh và nhiều cộng sự đi Ban Mê Thuột và Bình Tuy tìm đất di cư cho đạo hữu miền Trung. Quyền Giáo Hữu Đỗ Thanh đặc trách thành lập khu khẩn hoang tại Đắc Lắc theo chương trình dinh điền của nhà nước. Hội Thánh cho tục bản nguyệt san Nhân Sinh, tòa soạn đặt tại Trung Hưng Bửu Tòa và do Giáo Hữu Ngọc Dinh Thanh phụ trách. Tại Bình Định, Hội Thánh cho dời văn phòng Tỉnh Đạo từ Phù Cát về Quy Nhơn, xây cất ngôi Tam Đài thánh đường Bình Định ở đường Hàm Nghi (khu 6, nay là số 55 Hàm Nghi).
Như loài hoa dạ lan lặng lẽ, các vị ở Tịnh Đường âm thầm tinh nghiêm trong trúc cơ bá nhựt. Họ luôn đặt thân tâm trong từng thời khắc công phu, hướng lòng cầu điển pháp thiêng liêng qua các kỳ đàn do đồng tử Liên Hoa thủ cơ.
Tịnh Đường, đàn ngày 27-02 Nhâm Dần (01-4-1962):
THI
LỮ hành chờ đợi, đợi chờ ai
ĐỒNG sức nhau lên gắng lấy nào
TÂN pháp khác không phần cổ pháp
GIÁNG thăng rõ được mới là cao.
Lão Tổ chào chư hiền sĩ. Giờ nầy Lão Tổ đi qua, nghe tiếng cầu mời Tiên Phật. Lão ghé lại để ít lời, gọi là chút công quả khải mông về đường pháp đạo.
BÀI
Trước sứ mạng vô cùng cấp thiết
Giữa nguy cơ khốc liệt lắm rồi
Phương chi cứu vãn tài bồi
Để cho nhân loại đứng ngồi được yên?
Ngày thế giới thất điên bát đảo
Buổi Đạo Trời tái tạo hồi sinh
Từ lâu quyền pháp nơi mình
Thầy ban để thiết hòa bình nơi nơi
Cũng trách cho lòng người xuôi ngược
Cũng buồn cho vận nước truân chiên
Hóa nên chánh pháp chinh nghiêng
Chia manh xẻ mún đảo huyền mà lo
Bây giờ đây ai trò đạo đức
Bây giờ đây ai thực lòng tu
Giờ đây ai vẹt mây mù
Giờ đây ai gắng công phu hoàn thành?
Ai là người quên mình vì Đạo
Ai là người hoàn hảo vô tư
Để toan lái chiếc thuyền từ
Đưa người lỡ bước bây chừ ngẩn ngơ?
Nền Đạo mới trong cơ khảo thí
Kẻ Thiên ân thiếu chí mờ tâm
Gây nên muôn sự lỗi lầm
Con đường tận độ tối tăm mịt mờ
Nếu lần nầy trong cơ chọn lựa
Mà không lo lời hứa trọn lòng
Cõi Trời đường Thánh khó mong
Mà còn hình phạt giống dòng điêu linh.
Thôi Lão có mấy lời khuyên các hiền sĩ cố gắng lấy công phu học đạo. Tâm được thuần chơn thanh tịnh thì ơn phước sẽ đến, làm cho con người tu có một sự cảm thấu sứ mạng mà đặt lòng đảm đương, đặt phần bảo đảm.
Bây giờ quyền pháp của cơ cứu chuộc lần nầy, Thầy để dành mà trao cho con người đã chứng ngộ đạo pháp bằng công phu khắc kỷ phục lễ, bằng sự xả thân cầu đạo, thì cơ tái lập sứ mạng mới hoàn toàn.
Vậy bây giờ đây các hiền cốt nhất là đặt mình vào ở công phu luyện tập con người. Luyện tập cái ý cái tình cho chính đoan. Có thế, tương lai nhân loại mới trông tựa vào mình.
Vậy tóm lại như vầy:
Khoan tính đừng lo chớ nghĩ dông
Nghĩ lo tính chuyện hóa bao đồng
Dẫu hơn thiên hạ đâu là Thánh
Sao được dẫn đầu để hóa mông
Hóa mông ta phải trước tu hành
Để được Trời người, được chứng minh
Lòng đã không không lòng Tạo Hóa
Bao dung tế độ dẫn quần linh
Linh đơn là thuốc rất nhiệm mầu
Thuốc ấy nơi mình chớ ở đâu
Do bởi công phu cầu giải thoát
Khi thành đem cứu khắp hoàn cầu
Hoàn cầu khốn đốn đợi chờ ai
Chẳng phải trí mưu chẳng phải tài
Giải cứu nạn đời nhờ pháp đạo
Ở người đắc chứng chỗ Tiên thai
Thôi Lão xin kiếu.
Có Trần Nguyên Chất đến chỉ đạo.
TIẾP ĐIỂN
Chào chư hiền đệ.
THI
Đoái lại người xưa, nhớ cảnh xưa
Sao sao lòng Lão hóa không vừa
Công kia việc nọ buồn cho Đạo
Trông cảnh tang thương có thảm chưa?
Giờ nầy Bản Quân đến cùng các hiền đệ là muốn đặt lại vấn đề lo toan để chuộc lại sứ mạng trung hưng. Cần phải lấy sự giác ngộ làm yếu tố, lấy sự công phu giải thoát để bảo đảm cho mọi sự giao ước với Trời và người sau nầy. Ai là người giác ngộ để làm của chuộc? Ai là người giải thoát để bảo đảm sự nghiệp sau nầy? Chư Thiên Đồ chúng tôi nơi vô hình hết sức để lòng cầu xin, để lòng vận chuyển, cùng nhau lân mẫn phò trì. Dầu sự nghiệp không được vẻ vang bao trùm, cũng để đóng góp một vài công phu vào trang sử đạo.
Sứ mạng Đạo Trời lần ba có bổn phận đến thế gian làm cho loài người được sống, cõi đời được tươi, mọi điều mọi sự đã có cũng đều được mới.
Sứ mạng ấy cao cả biết bao! Song hiện nay người Thiên ân gánh lấy phần sứ mạng đó thiếu quyền pháp, thiếu công phu giải thoát, thiếu giác ngộ ở lòng, nên hóa ra bước đạo dùn thẳng quanh co, nội tình lắm điều chống trái, mờ tối, tai tiếng bay ra, cơ phổ độ không còn tác dụng.
Sứ mạng lớn lao kia nếu không phải ở Trời, thì làm sao đủ sức bao dung, đủ lòng hóa độ. Trời đã chia cho người một phần trọng hệ trong sứ mạng đó, để giữa Trời và người có một khối huyền đồng duy nhất, làm cơ động tịnh, khai hội thăng bình.
Người cũng có quyền, song quyền ấy không vượt ngoài phạm vi quyền pháp đã quy định nơi kinh luật. Người không vượt khỏi phạm vi quyền pháp là người phục thiện, tháp tùng về đạo. Người đó là lương sanh. Thầy mượn lương sanh mà dìu dắt quần sanh, thì lương sanh là hàng Thiên ân lãnh đạo. Người lãnh đạo phải được chứng đạo, thấu biết cơ động tịnh của Trời.
Người Thiên ân là tinh ba trong đám nhơn sanh, là người giác ngộ, lúc nào cũng ân cần giải thoát. Nên lãnh đạo nhơn sanh là nhơn sanh trông cậy, nhơn sanh nương nhờ.
Tình ý trên Hội Thánh, dưới nhơn sanh có một nồng nàn thân thiết. Hàng trên là Thánh, luôn luôn minh lãng vô tư, lòng lúc nào cũng chứa chan sự thương đời mến đạo, làm đường cho nhơn loại vượt qua, làm gương cho muôn người soi vào. Hàng dưới là hàng phàm tục, nương cậy ở trên, trông về người trên, vâng nghe mọi việc để được giải thoát, để được ơn cứu độ của Trời.
Ơn cứu độ của Trời, Trời phó nơi người Thiên ân là quyền pháp. Thánh ý ban cho người Thiên ân là lời ngọc tiếng châu. Nên người Thiên ân lấy làm quan trọng.
Đạo hư nên bởi đó. Cứu hay không cứu ở chỗ nầy. Vì vậy Thầy mới chia mục đích làm hai phần. Phần đưa, phần rước. Cứu người qua từng giai đoạn công phu. Trong chức phẩm thiêng liêng từ dưới lên trên có một quy trình sắp xếp công phu tu học một cách hoàn toàn công minh, đều do người giác ngộ để giải thoát. Cao thấp không do Thiêng Liêng hay hữu hình ban cho, mà tự mỗi người lo lập vị. Vị cao thì đức rộng, trí huệ càng nhiều.
Nên một chức sắc chia giữ một địa phận nào, làm một việc nào, không phòng lo ngại như các quan viên ngoài đời, lòng còn vô minh, danh lợi.
Công phu tu học chương trình tận độ, từ lúc nhập môn đến kỳ nhập thất. Qua thời nhập diệu để chứng vô sanh, để làm chơn Hiền chơn Thánh.
Người tin đạo lúc nhập môn được Thầy mở trường công quả, để tranh lấy pháp thí xả mà diệt tham dục, mở lòng bác ái mà sống cùng trời đất chúng sanh. Khi công dày tội hết, mầm Thánh Hiền đã mọc nơi tâm là điều háo nhân lợi nghĩa. Người đạo mới có chút hữu minh, có tình bác ái. Không tham không nhiễm mới mong giải thoát cầu đạo vô vi. Đó là thời kỳ xuất thế. Xuất thế là để tìm phương cứu thế.
Kỳ nhập thất không luận Thiên ân hay đạo hữu. Song về Thiên ân quyền pháp đã buộc là từ hàng Giáo Hữu trở lên đều phải được làm người xuất thế cầu học Thiên đạo.
Kỳ nhập thất phải trải qua một thời kỳ công phu, hoặc lâu hay mau là do căn trí của người đó mà chứng được quả đạo, gọi là nhập diệu. Có nhập diệu thì tâm mới minh, thân mới tịnh, tà chánh không lầm, thấu được lòng người thông qua Thánh ý.
Người Thiên ân hướng đạo được như thế thì quyền pháp mới tác dụng, Giáo Hội mới sâu rộng lâu dài. Nên sứ mạng trung hưng được kết cấu các nguyên nhân, các yếu lý và các tinh ba để làm thành mười hai chương pháp đạo, luôn phân hư thiệt, chỉ nẻo chánh tà. Dẫn lại lịch sử khai giáo, nguyên ủy có các phái chi, rồi cho thấy tướng pháp là gì, tân pháp là gì, cần được nhiếp lại hay phải chia đôi, để cho thấy chơn truyền cứu thế của Cao Đài. Tuy nói là tả chi hữu dực nhưng mà thể dụng đồng nhất bất phân.
Với sự nghiệp nầy, nhơn sanh đã cùng nhau hết lòng đóng góp bằng công phu công quả. Ai cũng mong xây đắp cho tương lai một nền pháp đạo.
Thầy thấy lòng giác ngộ của toàn đạo nơi nầy mà ban cho một Hội Thánh để được ngang hàng cùng các giáo phái, đặng có đủ điều kiện đi lại kết tình huynh đệ đại đồng, nối mối thân hòa, mở đường duy nhất.
Sứ mạng đã về, quyền pháp đã ban. Hễ ai có đức có công thì được dự vào hàng chức sắc. Song than ôi! Quyền mới ban, pháp mới lập mà nội bộ lấy sau làm trước, quên đạo vì thân, ỷ ngôi cao thế đủ, lòng thêm kiêu ngạo, không bình tĩnh cầu chỗ chơn lý sứ mạng. Thấy mình có quyền và trí khôn ít nhiều đã lội qua sách vở. Ưng thuyết nầy thuyết nọ, ngó thuyết kia. Nên Hội Thánh Trung Tông không được duy nhất tổ chức. Sứ mạng bị thu hồi, các Thánh đều sững sờ. Bất ngờ việc làm muốn gần thành công, lại bởi một vài lý do thù ghét cá nhân mà làm hư cả một cơ đồ vận mạng.
Bây giờ trong Hội Thánh, một số người là các hiền đệ đây biết ăn năn sám hối, biết cầu giác ngộ để giải thoát quần dân, biết dọn mình nối lại thông công, biết khắc kỷ cầu tu, cầu đạo vô vi độ đời hữu tướng. Chư Thánh Thiên Đồ hy vọng đặt sự hộ trì và mong mỏi ở các hiền đệ lấy thân mà gánh đạo. Đừng mượn đạo tạo đời. Dấu chân của các bậc hướng đạo đã qua còn in đó sờ sờ. Biết bao người hư hỏng vì cậy mình tài trí, nhác tu biếng học, quy giới sơ sài, khác chi thầy mù dắt cả bầy đui, biết đâu là bờ bến.
Nên muốn cáng đáng việc đời, đảm đương việc đạo, ta nên cẩn thận lấy ta. Nếu chưa phải sáng suốt hơn ai, đức còn bạc, hạnh còn thô, thì có giúp đạo gánh đời cũng là gây thêm phần rối loạn.
Thôi đồng nhọc, các đệ giữ lấy tinh thần. Bản Quân xin tạm lui.
Kể từ ngày một số Thiên ân hướng đạo hướng về tịnh luyện đã “ra riêng” nơi nhà tịnh. Rồi theo ý của Thiêng Liêng, các vị vào thọ pháp Chiếu Minh tại đàn Chợ Lớn, lòng họ luôn cầu mong được Ơn Trên dìu dẫn hợp theo sứ mạng của người công vụ sứ đồ. Cho nên các vị luôn nối nguồn thông công để dò Thánh ý. Điều mà các vị mong mỏi là được Đức Lý Giáo Tông ban ơn quyền pháp, nhưng mãi cầu mà Ngài vẫn vắng bặt. Sau khi thọ pháp ở đàn Chợ Lớn về, các kỳ lập đàn, các vị lại cầu mong Đức Ngô Tôn Sư giáng lâm huấn đạo mà vẫn chưa được thỏa nguyện. Nhân ngày lễ thành đạo của Người, các vị lập đàn khẩn cầu và được chứng chiếu.
Tịnh Đường, đàn ngày 13-3 Nhâm Dần (17-4-1962):
THI
NGÔ đàn tiếp độ khách nguyên căn
CAO cả ai người rõ giáng thăng
TIÊN Phật muốn thành lo giải thoát
Mừng vui đạo pháp mỗi ngày tăng.
Chào mừng chư đệ tử. Giờ nầy Bần Đạo được vui mừng chứng thấu lòng thành của toàn đạo đó đây chung trong ngày kỷ niệm.
Ngày nầy Bần Đạo hằng năm mở kỳ ân tứ cho mười phương quốc độ, nâng cao quyền pháp cho cả môn sanh, đặt lòng cầu xin Cha Trời một đức háo sanh ban kỳ đại xá.
Chư môn đệ nơi nầy cũng như mọi đàn tu trong Tông nội giáo, gắng để lòng sớm tu lấy công phu, công quả để cầu chứng diệu giác viên minh. Trên nấc thang cửu phẩm thiêng liêng, có Bần Đạo đưa tay luôn luôn dìu dẫn.
Bần Đạo đặt tin tưởng ở bao nhiêu cố gắng của các trò. Tuy đã biết muôn dặm tiền trình, các trò còn phải trải qua nhiều quãng đường hiểm nguy khó nhọc. Sự khó nhọc mà chẳng nản lòng. Đó cũng là một sự ban ơn. Phần thưởng xứng đáng kia nếu không phải người có trí tuệ quang năng, ý chí mạnh mẽ, tinh thần dồi dào, lòng đại bi đại hùng làm sao mà được lãnh.
Thầy đâu muốn hành khổ các con chịu vất vả trăm đường, đắng cay nhiều nỗi. Song không lấy gai lể gai, mượn khổ mà giải khổ, thì chừng nào trò mới hết nợ oan trái tiền khiên?
Hôm nay Bần Đạo không cần lấy lời an ủi nhủ khuyên, mượn điều khuyến dỗ, mà nói thẳng cùng các trò. Các trò phải quyết dứt sạch danh lợi thế tình, một lòng giải thoát mà cầu lấy đạo trường sanh. Cầu lấy chứng nhập diệt. Cầu được cái tâm vô thường bồ đề. Cầu ở nơi tu chứng cùng với Trời đồng nhất, sống trong lẽ thật tự do, đạt cho thấu đạo pháp Thiên cơ. Chừng đó sẽ tính bề mở đường tận độ. Chớ các trò còn cầu đó mến đây, thân có một mong gì được trọn. Hẳn ta nên dứt khoát đi, thì tâm mới vắng lặng trong sáng như nước tịnh bình. Nếu còn bận nghĩ nặng lo, pháp thanh tịnh nương đâu mà chứng? Bởi vậy, người tu từ trước đến bây giờ, nếu không phải nguyên căn thì khó thành quả đạo.
Lòng giải thoát của người cầu đạo, đều nghĩ những cái gì đồng chung cùng với bản thân, hoặc con hoặc vợ, hoặc của tiền ruộng trâu. Cái nầy cái nọ đều là huyễn hóa nghiệp oan. Nên lắm lúc cần hy sinh đến tánh mạng, cũng vui lòng. Tình nghĩa lợi danh cái gì? Cái gì mà không thí xá! Vợ còn cho, con cũng đoạn, còn có cái gì mà còn để bám theo mình? Lòng thí xá để khử diệt tánh tham. Học thanh tịnh để trừ sân mê vọng loạn. Sao không soi gương trước, không học người xưa, mà tiến bước men chân về cùng Tiên Phật, lại cứ bo bo tranh chấp việc thị việc phi.
Tất cả những giống hữu hình ở khắp đó đây, đều có một sự trông nom, một sự định sẵn. Không để ai chịu thiệt thòi, phải cam tẻ lạnh, mà ở đâu vào đó đều sắp đặt an bài. Các trò cũng trong số hữu tướng đương sanh. Một cá nhân đang cầu tiến, đang quay mình trở lại với quyền pháp nước Trời; đang đứng lên hô hào trong đám mê man cùng mình tỉnh cơn giả mộng; đang loay hoay tìm những bạn đồng đức đồng tính; đang quanh quẩn nghĩ một phương gì để giải vây cho nhân quần ra vòng tội ác; đang cầu ông tài bà trí, nhờ thuật cậy quyền. Song đối với công lệ nhân quả xoay tròn, chưa dễ lấy sức người mà phóng xá được người. Người trong đó trông vào trò, vì trò thương mà lo, vì trò thân mà tính. Tính lo như vậy bởi một niệm lành. Đó là vốn liếng của mình nên bây giờ bị kẻ cướp đi là không nguội tịnh. Mất một nhóm người, nhiêu đấy chưa quan hệ cho bằng mất một người giác ngộ nên Hiền. Một người đã đắc đạo thành Tiên thì bốn biển cũng đều nương nhờ mà sạch lòng tội lỗi.
Sứ mạng gì mà mong, quyền pháp gì mà mơ. Nếu công vụ sứ đồ còn ẩn náu, làm sao đem lại an ủi hòa bình cho ai? Nên các trò gắng tu. Đặt mạnh mẽ trong công phu khắc kỷ giải thoát, trong công phu luyện thuốc nấu đơn. Ngày được nên rồi sẽ thấy sứ mạng ở mình mà mình thiết tha cứu độ. Quyền pháp ở trong lòng đầy đủ hiện ra muôn vẻ oai nghi, sắc mặt vui tươi, con người mẫn cán. Lòng ai không mến mà noi giữ lối bước nước đi. Quyền pháp đó mới linh thiêng, mới cảm hóa cả đám mê trở về lòng giác ngộ.
Đây, Bần Đạo nói cho các trò biết rằng lâu mau cũng có ngày hiệp lại. Đường tu tùy đó mà dìu dẫn bạn đồng hành. Công việc gay gắt mỗi ngày đến cho các trò cũng là một dịp thử lòng vàng đá thấp cao. Một dịp nữa là để tỏ tấm lòng thành tự giác, giác tha để cho Thầy và nhân sanh định phần công quả. Về công vụ Thiêng Liêng đã giao phó cho là một phần thưởng trong công việc xây dựng cho tương lai sứ mạng phục hồi. Song trong mọi cố gắng của mình và bạn đồng minh chí hướng, chẳng may chưa sớm được huy hoàng, hoặc gặp phải trở ngại khó khăn mà bị tổn phí nhiều công phu, việc còn lỡ dở cũng đừng lấy đó làm phiền. Hoặc một ngày gần đây, có sự điều đình giữa đôi bên để trở nên một quyền pháp thì tùy đó. Song cũng giữ lời hồng thệ mà tu, giữ lấy cơ sở nầy mà học.
BÀI
Trò đời giải thoát cầu tu
Thiệt thòi nhẫn nhục giả ngu mới thành
Nghe Thầy mới được trọn lành
Cãi Thầy phải chịu cam chanh suốt đời.
Nghe Thầy thì được về trời
Cãi Thầy sanh tử luân hồi chẳng thôi
Nghe Thầy muôn sự cho thôi
Để thân thanh tịnh mà ngồi công phu.
Ngày nay biếng nhác không tu
Làm sao mong mỏi cứu nhau hội nầy
Đặt lòng tin tưởng ở Thầy
Bao nhiêu tai họa như mây tan dần.
Phước che đức chở gắng công trình
Huệ kiếm sẵn cầm đoạn tử sinh
Đàn nội trông về lòng tẻ lạnh
Nhớ lời Thầy dạy phải đinh ninh.
Đinh ninh giữ một lòng tu
Giữ còn giao ước công phu mới thành
Giữ sao em chị cho lành
Cho lòng giải thoát thép đanh trọn thề.
Cùng nhau trên dưới đề huề
Giữ còn quyền pháp mà về với Cha
Từ lâu Thầy đã thiết tha
Dặn dò những lúc quanh co bây giờ.
Đàn Tiên cạn điển vắng cơ
Nương đâu để được cậy nhờ chở che
Bây giờ ai phái ai phe
Phái phe chừ phải biết nghe bên nào.
Lòng trò ngơ ngẩn xôn xao
Trông ra chồng chất, ngó vào ngổn ngang.
Bây giờ thế phải tự toan
Khai thông cho được con đàng mà đi.
Lòng trò đừng ngại đừng nghi
Vô vi là pháp, vô vi là Thầy
Vô vi mới được vui vầy
Vô vi trông đó đủ đầy huyền cơ.
Nếu lòng thế tục không mơ
Trọn tâm giải thoát đón cơ nhiệm mầu
Lo tu thì được chục chầu
Không tu sao thấy được đầu được đuôi.
Thuyền từ thả mặc ngược xuôi
Đến khi trở lại ôi thôi nhọc nhằn
Lời Thầy trò gắng mà phăng
Mặc lòng để nhuộm trắng đen tự tình.
Quyết lòng còn cậy Thánh Linh
Thánh Linh ban phép hoàn sinh cho trò
Bằng lòng thối thác biếng lo
Thế gian để mặc tự do lấy lòng.
Sống còn trong cảnh long đong
Trông cơ họa phước chập chồng chẳng yên
Trò Tiên cậy có phép Tiên
Chẳng ai mượn thế cậy quyền được đâu.
Muốn cho biết lẽ nhiệm mầu
Chuyển đi cơ Tạo mới hầu nên danh
Khuyên ai chí kỉnh chí thành
Lặng lòng sẽ thấy ơn Xanh hội nầy.
Nầy các trò ơi gắng giữ lời
Dinh hư, tán tụ mấy nhiêu hơi
Gác qua sự thế lo tu gọn
Mới được an vui thấy nước trời.
Trời Phật hằng lo cứu nạn đời
THI ân bố phước khắp nơi nơi
SINH dân là ở lòng nhân thiện
CƯ tọa đơn tâm biết ý Trời.
Trời không muốn thấy khổ nơi người
ĐÁNG để người người được tốt tươi
TOÀN cả trông về ngôi tận độ
Vạn duyên sạch trọn, đức bày phơi.
Về việc cơ đàn dạy cho trung hưng chánh pháp tưởng phải tạm một nơi khác hoặc thánh thất, thánh đường hoặc tư gia, tư thự để tiện bề chư Phật Thánh diễn giáo, phân bổ công vụ hành trình.
Việc Thầy cho lệnh trước thì các trò cần sắp xếp để tạm thời cho Liên Hoa được an dưỡng, tránh bớt sự khảo thí. Chừng đó sẽ cùng nhau mà hòa hiệp bước đời, chung cùng sứ mạng. Còn đàn tịnh mà dạy về phần động ví cũng trái quyền pháp, mất nhiều thời giờ của các trò mà trên sự bổ khuyết pháp môn cũng khó bề giáo hóa.
Vậy các trò nhớ mà tuân theo. Đàn cơ nơi đây chỉ dùng vào hai việc. Một là duyệt phần công phu. Hai là giáo pháp phần siêu hình thiên đạo.
Thôi chào các đệ tử. Bần Đạo ban ơn và gởi ơn cùng toàn đạo.
Tuy không hoàn toàn “kín ngoài rồi lại kín trong” nhưng các vị ở giai đoạn một trăm ngày tu cơ bản vẫn giữ thế im lặng theo hạnh tu vô vi bí pháp, đồng thời cố gắng duy trì việc thông công để nghe Ơn Trên chỉ giáo. Riêng Tiếp Cơ Quân Liên Hoa thì muốn tạm nghỉ việc lập đàn để tránh sự công kích, nhưng các vị không dám đi ngoài Thánh ý nên vẫn quyết lập đàn liên tục, nhất là đã đến thời điểm đủ bá nhựt trúc cơ.
Giáng đàn giờ Tý ngày 01-4 Nhâm Dần (04-5-1962), Đức Ngô Cao Tiên ban cho bài thơ lục bát dạy về đường tu, hạnh tu… và đề cập kỳ bá nhựt của các vị:
Trò đừng lấy ý so cân
Ý người nào rõ xa gần nên hư
Rằng sao cho ý vô tư
Cho thân giải thoát an cư ở Thầy
(…)
Lo tu dìu bạn đồng tình
Mượn đôi phép tắc giữ gìn cho nhau
Chung quanh còn có biết bao
Chờ trông đón đợi ngày nào trò nên
Nên nền nên móng ở công lo
Lo đắp lo xây vững chắc trò
Bá nhựt công phu ơn chứa chất
Tiến lên kiến thiết bửu tòa cho
(…)
Công phu bá nhựt được rồi
Ba năm tám tháng cũng bồi theo đây
Miễn sao trò sống trong Thầy
Vị lai quá khứ đủ đầy biết bao
(…)
Gần đây cơ đạo rối răm
Các trò thanh tịnh tu chăm lấy lòng
Lấy lòng thanh tịnh trắng trong
Bao dung che chở ngoài trong đồng bào
Thi hành đạo đức giúp nhau
Để cho kẻ trước người sau một đường
Trên Thầy chan chứa tình thương
Dưới trò trì chí đảm đương hội nầy.
Việc xin bá nhựt vẫn còn dùng dằng chưa quyết nên một tuần sau, các vị lập đàn tại Tịnh Đường ngày 08-4 Nhâm Dần (11-5-1962):
THI
GIÁC ngộ làm Tiên chẳng khó gì
MINH tâm kiến tánh thấy vô vi
KIM Bàn mở hội chờ ta đấy
TIÊN Phật muốn thành cố gắng đi.
Chào chư hiền hữu đạo tràng.
Giờ nầy Bản Giác ghé về đây với một hoài bão từ lâu trông thấy một ngày Đạo Trời được mở mang với một tinh thần rộng rãi, để hầu đón độ nguyên căn còn nằm bên kia hàng rào nhơn ngã, còn ở trong thành kiến dị đồng. Nếu không đập phá những bức tường kiên cố mà lòng vị kỷ của loài người đã xây đắp, thì bao giờ cho nhơn loại gặp nhau? Chừng nào mới thực hiện chữ từ bi, bác ái, bình đẳng, đại đồng? Nhơn loại chưa giác ngộ đến chỗ quán triệt nhứt thể huyền đồng thì dầu cho nói văn minh khoa học tiến bộ, dầu cho nói tôn giáo phát triển mạnh mẽ cũng là thay sắc đổi màu của sự trá hình, thời cổ sơ sống lại.
Thế giới loài người hiện nay cần một tôn giáo dung hòa, trong đủ lẽ sống tình thương và sự thật để mở một kỷ nguyên đời mới. Ai cũng được che chở trong bàn tay quyền pháp tối thượng đại từ của Chí Tôn. Nhơn loại chờ đợi trông mong, ước vọng mãi mãi ở lòng tin phải có một Thần Lẽ Thật ở nơi thế giới bên ngoài đến đây mới mong hồi sinh cho bốn biển, chấm dứt được sự tranh giành ghen ghét ở thế gian.
Nếu không bởi Người, thì trên mặt địa cầu nầy còn có ai để cho nhơn loại trút được nỗi lòng, nhận lời an ủi mà vui sống với số mạng con người? Vì ai ai hiện nay cũng đều nằm trên vỉ, trong lò lửa, sức nóng mỗi lúc càng lên cao. Mặc dù phải khổ phải đau đớn nhiều đường, song cũng tin tưởng Thần Lẽ Thật sắp sang qua nơi cõi tội lỗi, để cứu khổ cho muôn loài, đem sự công bình cho dân cho nước.
Ngoài Người ra thì ai ai cũng mang đầy nơi lòng những gươm đao, kế độc, mưu thâm để toan sát hại. Dầu cho người tôn giáo cũng không tránh được. Mỗi hơi thở cũng khạc ra những ngã chấp, thị phi đầy dẫy trên từng cao hơn của thế tình. Một sự chớp nhoáng, gầm thét đủ sự bất chính bất hòa. Nói đạo kém đạo hơn, đây chánh đó tà, thì bảo sao không giục lòng nhau thêm sóng gió? Song những người của thần rẽ chia, của thần nhỏ hẹp quá mùa. Đã đành có giọng chua ngoa, có lời khiêu khích, có lòng vị kỷ, đố hiền tật năng, thì cũng chẳng nói làm gì.
Ngặt đám môn đồ của Thần sắp đến – Thần Lẽ Thật – sẽ thực hiện quyền pháp của mình, mà làm cho đâu đó không còn ranh giới rẽ riêng, không thấy bất bình oan khúc. Đường lối rộng lớn, việc định mênh mông, chương trình không tiền khoáng hậu. Thế mà các trò đương thay Người mà giữ mỗi địa phận, làm một việc quyền pháp của Người, mà cũng chưa gột sạch những phàm tình, không ứng thời hợp sự, không xô đập những thành trì ranh giới giữa loài người, không lấp bằng các hố chia rẽ giữa nhau trên mặt đất, mà lại còn tô phết cho dày, đào vét thêm sâu, thì có phải là trái với Đạo Huỳnh của Thần Lẽ Thật đó chăng?
Đây cũng vậy. Một mối đạo do bởi nơi Trời mà ra, song đến cõi nầy lại có nhiều sự rẽ riêng, nhiều nơi phát xuất. Cùng chung một Đạo, cùng chung một Thầy thế mà chẳng ai giống ai, chẳng ai làm đúng lời Thầy đã dạy.
Đạo Trời từ bi nỡ nào nhìn những cảnh hẩm hiu, tẻ lạnh giữa đồng đạo. Những phái những phe, kẻ ít người nhiều, cũng giữ lấy phần giáo tổ. Ôi! Đạo ra đời chưa được mấy nhiêu hôm mà xé nhỏ xé to không biết bao nhiêu tổ đình, tổ chức… Tôn chỉ, mục đích một nơi mà việc làm một ngả, bảo sao sự lớn không bị hoại ngửa nghiêng. Danh nghĩa Đạo Trời vì đó mà vùi sâu dưới bao nhiêu bụi cát.
Bây giờ đây các hiền hữu trực truyền với giáo pháp vô vi phải luôn luôn cẩn thận. Dầu nhỏ như nửa lời, dầu bé như kẽ răng cũng còn đo đắn cân phân, há đến việc tương quan giữa Trời, giữa người thì sao không kim chỉ?
Người mà đã được Thần Lẽ Thật ban trao quyền pháp thì lúc nào cũng nhắm vào lợi ích cho loài người. Nếu bốn biển còn gặp nhiều khó khăn đi lại với nhau hoặc bằng cách nầy hay cách khác thì bổn phận của ta là phải làm thế nào cho đâu đó thông đồng. Nếu trở ngại vì thành kiến thì cố phá xô. Nếu trở ngại vì chủ trương thì nên minh giải. Đôi khi trở ngại ấy bởi mình mà ra thì là một việc quá buồn cười đó. Nên kẻ đứng trong nội thành của Thần Lẽ Thật thì bao giờ cũng thể hiện chút ít lòng quảng đại của Người. Dù chưa được nên Thánh nên Thần cũng phải làm một Hiền Nhơn mới đương vi sứ mạng.
Vậy tóm lại, Đạo Trời Kỳ Ba nầy đã đem sự lành mạnh cho thế gian. Cái gì tật nguyền hư hỏng là cái bệnh của thời đại, nên diệt trừ. Nhưng các hiền hữu nhớ rằng mình là kẻ đi diệt trừ tật bệnh, song chính bản thân là người bị bệnh hơn ai. Vì vậy, đó là chỗ trở ngại lớn cho cơ cứu rỗi vậy.
Bây giờ các hiền hữu đi cùng tôi đến xem một hoa viên ở trước đây. Họ đã kiếm các dị thảo kỳ hoa ở gần ở xa, ở Trung Hoa và Ấn Độ. Coi kìa, đủ chồi non mới nứt, cội lão đương còn. Cụm thì đỏ, cụm thì vàng, bông thì đủ màu, cây kiểng thì đủ kiểu. Bây giờ các hiền hữu tưởng tượng mà xem qua, thấy cái đẹp của nó chỗ nào? Cái nào mình ưa thích nhứt?
Một là cách trình bày. Hai là màu sắc. Ba là hương vị. Thế trăm hoa hiện hữu, bẻ hoa nào? Sen, cúc, lan, đào và các thứ dị hương kỳ thảo?
[Bạch …]
Phải chung nhau mới đẹp. Chớ không thể hái riêng mà có đẹp sao?
Đã hiểu tôn chỉ, mục đích Đạo Trời là vậy thì cũng đừng ôm ấp một phần nào mà mất cái đẹp chung. Đạo Trời biến hóa mà ta cố định, ta phải tiêu tan. Hoặc vì thiên ái hoặc vì pháp luật mà chẳng thấy chỗ nhiệm mầu.
Bây giờ cơ tái lập để xây một viên gạch đầu. Viên gạch được đặt nơi nào, thì nơi đó sẽ có một lâu đài cao ngất, một chỗ muôn mắt trông xem. Nào dinh thự, nào giáo đồ, nào giống Thánh con Thần (...). Vậy ai là viên gạch? Viên gạch phải đặt vào đâu? Nơi đâu được đặt xuống? Ôi! Bao nhiêu câu hỏi quẩn quanh, song việc làm chỉ được hay không là ở lòng người tất cả.
Vậy hôm nay Bản Giác đến để báo tin cho chư hiền hữu. Ngày gần đây, Thầy sẽ mở một kỳ thi, chọn lấy một nơi đặt gạch. (...) Nhân loại đương đòi hỏi, đương trông chờ, đương khổ đau cần có thầy có thuốc. Vậy sứ mạng trung hưng đã đặc biệt đứng trên cương vị thuần chơn vô ngã, bất thiên bất ỷ. Xây mối đại đồng đâu nói chỗ này mà ra, chỗ kia mà lập. Vì rút được tinh ba đạo pháp, nối lại hai mối xuất nhập của Đạo Trời, thế đạo lập, thiên đạo thành. Lập là mầm sống hiện sanh để cõi thế thành Bồng Lai tại thế, an hưởng đại đồng. Lòng đạo không còn tham, sân, si, mạn, thì đó là pháp môn liễu giải tử sanh, mở đường cho cơ siêu rỗi.
Vậy nơi đây các hiền hữu muốn làm việc lớn, trước phải lo việc nhỏ. Việc nhỏ là việc trong nhà, giữa anh em bậu bạn với nhau, phải được đồng chí đồng đức như Lưu, Quan, Trương. Được vậy sau mới có Từ Thứ, Khổng Minh, Phụng Sồ, Tử Long, Mạnh Đạt. Có Lưu, Quan, Trương là có sự nghiệp nhà Hán, có đất có dân. Dân có không phải có như của trong nhà, mà có nhơn kiệt anh hùng thì có dân có nước.
Đạo pháp cũng vậy. Bây giờ chưa có dân có nước, có bạn thánh tôi hiền, là chưa có hướng đạo trung kiên. Chưa có tấm lòng của Lưu, Quan, Trương ngày trước, thì dù có dân, dân cũng bỏ mình. Dù có nước, người cũng chiếm.
Vậy sự gặp nhau đây cốt để làm chi? Cũng phải có một mục đích một chủ trương. Không lẽ ngán đời mà ẩn dật. Nếu lập thân tu học thì phải có một chương trình kín đáo, ý nhị khác hơn. Bằng có chi giúp đạo cứu đời, thì sao không có một đường lối với nhau mà đi tới. Đi đường nào cho phải? Cứ như Lưu, Quan, Trương, lúc còn hàn vi. Chỗ nào cũng chỗ dung thân của quân tử, cốt để đợi thời, đâu lấy đó làm vinh, đâu nhận đây là chính.
Cũng vậy đó, Tiên Thiên, Tây Ninh, Chiếu Minh đâu phải là cứu cánh của loài người, vì đó là cái danh từ. Danh từ thì có chi mà chấp. Cần tiến sâu một bước nữa, để sáng tỏ mối chơn truyền. Nhưng được sáng tỏ rồi, phải làm sao cho đêm tối trong loài người được sáng soi, cho lòng mình và lòng bạn không hai, để hòa với một.
Bây giờ và lúc nầy, cả một sự quan trọng vô cùng. Xuân hoa không kết, thu quả đâu có. Lúc nầy không tiến lên thì lúc nào mà được đặng. Ở trong nội đàn nầy chưa quyết vào đâu, tuổi tên chưa có. Song chẳng mấy người mà chẳng biết người nào là chủ thì việc làm mới định liệu làm sao? Bây giờ nên chọn một người làm chủ, hay bạn nào đứng ra lãnh lấy nhiệm vụ người chủ để có người dẫn đạo, có người phải theo. Có chủ thì mọi việc ở Trời có chỗ ban trao. (...) Lớp có thầy, trường có hiệu trưởng, nhà có cha, trại có chủ, khách đến mới biết hỏi ai. (...) Vậy bạn nào chịu gánh thì quyền pháp mới ban. Khi được ơn dày thì dầu muốn dầu không, buộc toàn hội phải nghe theo không được cãi.
(…)
Việc xin đi thọ bá nhựt thì không gì trở ngại. Ngại là việc nỗi lòng của hiền hữu Liên Hoa. Lòng chưa quyết, vì những lý do đạo pháp ngừa giữ cho bước ngày mai. Song người môn đệ Chiếu Minh nắm chặt khuôn hình, không hay biến hóa thì hai đàng chắc chẳng gặp nhau. Song còn có nơi Thầy; việc nào Thầy tính thì được cả.
Về việc đi thọ truyền bí pháp thì giữa lúc khảo đảo nầy tùy sự nhận thức và bảo đảm cho nền móng ngày mai thì cũng do các hiền ngó xa mà quyết định.
Về đây Bản Giác thấy rõ con đường trung đạo, mỗi vị nhận thức mỗi cách, cách nào cũng hay. Song cái hay chưa kết cấu thành hình mà đó chỉ hay bằng tiếng khen tiếng gọi.
Đã vượt qua kỳ trúc cơ bá nhựt, các vị vào hành trì ba năm tám tháng để vượt qua Nhứt Bộ. Các vị luôn đặt thân trong tĩnh lặng, tâm trong chánh niệm, y hành theo thao tác và kinh chú trong tứ thời. Các vị cố gắng duy trì đàn cơ thông công để nhận huấn đạo của Ơn Trên. Do theo chỗ các vị chí thành cầu pháp, cầu tu để chuộc lại lỗi lầm, tiếp tục sứ mạng trung hưng chánh pháp, các Đấng đã ban ân điển vận chuyển lộ trình tu chứng cho thánh chúng thuận tùng.
Đàn ngày 01-5 Nhâm Dần (02-6-1962), Đức Thượng Chánh Phối Sư Trần Hưng Đạo dạy (trích):
Hôm nay đến đây muốn đặt lại một chương trình để chuộc lại sứ mạng, cứu lấy đoàn người hữu công thiện chí và mong sự cố gắng để hoàn thành chánh pháp, khai hội Long Hoa, Bản Thánh không đủ thời giờ nói qua lý do tái lập cơ trung hưng, lần lượt sẽ hướng dẫn chư hiền đến một trình độ đạo đức khả dĩ thành công.
Bản Thánh giờ nầy vâng lệnh Giáo Tông đến gắn cho các hiền một nhiệm vụ mới, một chương trình mới, để các hiền cùng nhau chung sức mà hoàn thành, chung lòng mà tu học cho nên người giác ngộ.
Sự nghiệp trung hưng chánh pháp đã tạm rút gọn vào đây, một hình thái đơn thuần vừa tiêu biểu pháp quyền, vừa dọn đường giải thoát cho bản thân cá nhân. Quyền pháp được tiêu biểu cho một nền đạo mới, gốc ở người Thiên ân trọn lòng thánh đức, nên cần phải tu chứng pháp môn, tâm minh trí sáng, cảm được lòng Trời ý Thánh, thấu được sự lý nhơn tình, để đưa rước người lập lại an ninh cho bốn biển.
Bản Thánh đặt vào hai việc. Các hiền gắng tuân theo.
Về phần thông công. Trong lúc nầy để được vừa tu vừa học, thể lòng cầu xin của Liên Hoa, nên sứ mạng giáo pháp tạm thời ban cho Tá Cơ một nửa để cùng Liên Hoa hoàn thành công cuộc xương minh đạo đức.
Về xây đắp một nền giáo pháp, chia ra hai phần. Phần chấp hành thì dĩ nhiên ở các hiền thường trụ tại cơ sở nầy để xuất phát cơ mưu cho hàng hộ trì giáo pháp. Hàng hộ trì giáo pháp là người được chọn làm nền tảng trung kiên cho sự thành hình cơ chỉ chánh truyền. Nên hàng người ấy cần có một tinh thần tu kỷ ái tha, luôn đặt mình lên hàng Thiên Thần để được xứng mặt khâm mạng cho quyền pháp. Nên số nầy lấy mười hai người; mỗi người cố gắng tìm thêm hai người của mình để có một đoàn, có một chương trình vừa tu vừa học. Đoàn nầy xây dựng thành an lạc địa một nền giáo pháp tượng trưng cho danh nghĩa Trung Hưng. Nếu sứ mạng này được biểu hiện ở việc làm thuần nhứt của chư hiền, trên con người thuần hòa độ lượng, lời nói chất phác chơn thành, toàn đạo sống trong cảnh hòa thân, thi thiết trên chương trình Phước Thiện. Vậy muốn có một Ban Giáo Pháp được ban quyền, thì trước chọn người và củng cố đoàn hộ trì, rồi sẽ ban cho một đàn cơ đặc biệt.
Đàn ngày 02-5 Nhâm Dần (03-6-1962), Đức Cao Đài Tiên Ông giáng dạy (trích):
Thời u ám cậy nguời thánh đức
Đời loạn ly nhờ sức thần thông
Đem nhau tới cảnh đại đồng
Đem nhau về tới Non Bồng mới vui
Song trước phải có người giác ngộ
Phất đạo kỳ hướng lộ nhơn gian
Nơi đây thành một đạo tràng
Thành ngôi bát nhã mở đàng vô vi.
Thầy muốn cho các con sớm kịp kỳ thi mà buộc lòng phải đưa ra nhiều bài vở mắc. Hối con học, bảo con ôn, may ra được đứng trong số chọn, thì sự mong mỏi của Thầy, phần cố gắng của con tưởng cũng thỏa nguyện lắm.
Con ôi! Đường nào cũng chọn lấy một mà thôi để có một chương trình tiến tu trong công vụ. Công vụ cần đòi hỏi con người giác ngộ nhận lấy một phần trong công tác. Không nên để cho vô minh ám ảnh rồi việc gì cũng không dứt khoát. Nói rõ cho con làm, con học, con tu. Làm mà đừng xen cái ngã mạn để cho sứ mạng trọn ở vô vi. Học để cảm thấu sứ mạng trọn ở chánh pháp hiện nay đặt ở trên con người chơn tu giải thoát. Tu để tìm lại cái sở hữu đã có, tìm về với lòng vô ngã thuần chơn, thiệt tâm cầu lấy chánh pháp.
Thầy sẽ ban cho một chuỗi hồng ân. Mà phải tu như vậy mới khỏi hoài công, khỏi phụ ơn Thầy giáo hóa. Các con cứ khư khư câu chấp vào sứ mạng trung hưng. Phải nghĩ cách này cách kia đặng cứu đời cứu đạo. Thầy nói thiệt, không cứu được mình đừng mong cứu được ai. Con người của các con còn tham sân dục vọng, thì có đương nhiệm một việc gì cũng là một cái họa giết người. Giết bằng cách tinh xảo hơn kẻ cầm gươm nắm súng.
Các con thiệt tu, gắng tu, thì sự nghiệp và công đức này còn để cho hậu thế, còn gởi gắm tình thương lẽ sống ở đồng đạo bao kỷ niệm mỹ miều. Bằng các con lớ xớ mãn ngày bàn chuyện người, tính chuyện đạo mà sân tâm dục ý khởi lên, sao tiếp được hồng ân pháp đạo? Thanh tịnh sẽ được chuỗi đạo pháp giải thoát, chứng được quả vô lậu niết bàn. Giác ngộ sẽ gặp lại con đường vô vi trung hưng chánh pháp.
Trước khi thăng, Thầy dặn ngày mùn 8 lập đàn để Thầy dạy tiếp. Nhưng đàn lập tại Tịnh Đường ngày 08-5 Nhâm Dần (09-6-1962) thì Thầy không giá ngự, mà là Đức Lý Thái Bạch:
Đường trào ngày tháng chuộng thơ văn
Gác mối lợi danh ngắm gió trăng
Chén rượu vần thơ quên thế sự
Trăm năm chi nữa thú thanh nhàn.
Chào chư hiền đệ, hiền muội.
Lội qua mới biết thấu chơn tình
Phải phải không không cũng đáng khinh
Quay lại cảnh xưa lòng nhẹ nhẹ
Khoác màu thanh đạm thấy linh linh.
Đức Lý dạy tiếp (trích):
Đến đây gọi chút dặn dò
Trên đường sứ mệnh cam go gắng thành
Đừng lơ lửng thân danh mai một
Đừng trù trừ dịp tốt trôi qua
Gia công tu học thiết tha
Thương yêu lấy chúng, thuận hòa giữa nhau.
Sau 118 câu thơ, qua phần tản văn Đức Lý dạy (trích):
Vậy các đệ gắng làm vô vi, gắng thi thiết thanh tịnh, gắng tính gắng lo các pháp bình đẳng, hòa sống cùng mọi người, vạch một chương trình tu học. Từ đây Thầy sẽ mở một đạo tràng dẫn bước cho người làm Thánh. Xây dựng có một số Thánh số Hiền để phân phối công vụ quyền pháp, hầu rao truyền sứ mạng, hoằng pháp lợi sanh. Xây dựng một nhà tu, đặt lại vấn đề tổ chức, chỉnh lại các lệch lạc bởi người và hoàn cảnh uốn nhồi. Nối chắp các mối chưa được gặp nhau. Mở một con đường bốn biển cùng đi, pháp quyền cùng một, nguyên lý cùng chung. Giáo pháp trong Tam Giáo Cửu Lưu cũng không ngoài không khác. Lúc đó con đường trung đạo sẽ hiện ra. Hiện ra với một sự bất ngờ, ai biết ai hay. Mà chính các đệ đây là người trong sứ mạng cũng không sao thấy được người như thế nào, hoặc nhận như vầy như khác.
Con đường sứ mạng muốn được nối tiếp cần phải dốc chí lập thân làm những con người thánh hiền, quân tử. Có làm được thánh hiền, quân tử mới xứng đáng đương vi trọng nhiệm, mới xứng vị đứng trước muôn người, mới xứng tài ngồi trên sân trào chỉ huy văn ban võ bá. Có quân tử mới dẹp được bầy tiểu nhân, có thánh hiền mới an bang tế thế. Đã là học thánh hiền thì đừng nệ, đừng chấp nhứt nhỏ nhen. Phải có đức khoan hòa, phải có lòng trung chính, phải có chí nhẫn nhục cương kiện. Không vì một bầy ó, một đàn quạ mà chim hồng, chim hộc phải xuống đua tranh giành chỗ đứng, miếng mồi. Quạ diều đâu có vượt cánh khỏi mây, còn hồng hộc ở tận trời xanh, cần gì sợ lũ cỏn con là đà dưới đất.
Vậy mọi việc cần xây dựng có một nề nếp vừa xứng bên trong vừa thứ tự bên ngoài. Trong có kẻ trên người dưới, lễ kỉnh làm đầu. Ăn ở được quyền pháp hóa, có bữa đúng thời. Không nghe nhảm nói nhàm, trợ cho vọng tâm mà tổn tinh tán khí. Tu đặt ra năm bậc để hướng lần, chọn lấy khí tiết người làm Thánh làm Hiền.
Con đường trung đạo mở ra thì cơ khảo thí về hữu vi và về vô vi cũng không sao tránh được. Nên từ đây lần hồi chỉnh đốn về thờ phượng, về lễ bái, về tu tịnh, dưỡng luyện, ôn học cho thâm bác, rồi lúc đi ra, lúc gặp bạn có được một tôn chỉ hẳn hòi. Bây giờ trước hết phải lãnh lấy một chương trình giữa nhau cần bàn kỹ lại. Bằng lòng thì lập nguyện dâng lên, bằng không thì cũng cho các đệ một nguồn ân để tu, an vui với ngày tháng.
Sau bao nhiêu thời gian trông chờ cầu khẩn, được thánh huấn của Đức Trần Tổng Lý và Đức Lý Giáo Tông, các vị Thiên ân cảm thấy cơ đạo như mở ra cửa ngõ cho việc Ơn Trên tái ban sứ mạng. Nhất là đã qua một trăm ngày trúc cơ, các vị quyết tâm vượt lên mọi trở lực, chuyên tu mạnh mẽ, tìm an vui trong pháp đạo nhiệm mầu để mong đón ngày nối tiếp sự nghiệp. Các vị được các Đấng ban điển lực giáo pháp dạy khuyên.
Đàn ngày 08-6 Nhâm Dần (09-7-1962), Đức Hà Tiên Cô giáng dạy (trích):
Hôm nay nơi đây đã thành một đạo tràng, Bần Nữ cũng để lòng mừng.
(…) Sở dĩ có cái hân hạnh nầy là bởi lòng biết hồi minh khử ám, giải thoát trần tình, cầu lấy cái Đạo vô vi, để thân tâm hòa đồng cùng càn khôn tạo hóa.
Bần Nữ cầu chúc cho chư hướng đạo tiến lên qua bước thứ nhì, mình và các Đấng thiêng liêng gặp nhau ở Nam môn Càn đạo, mà đàm đạo với nhau dễ dàng hơn dùng cơ bút. Muốn gặp bằng cách ấy là phải thanh khiết thân tâm, thân thường thiền định. Định cho định để nghe lọt vào tai những tiếng nhiệm mầu. Thiền cho thuần để mở các then khóa trong bầu tạo hóa.
Vậy từ đây bắt đầu đạo tràng dạy về thiên đạo. Các hiền cố gắng.
Đàn ngày 13-6 Nhâm Dần (14-7-1962), Đức Trần Hưng Đạo giáng dạy về việc xây dựng thánh thất kiểu mẫu Trung Thành (trích):
Toàn đạo nơi thánh thất Trung Thành đã có một cơ duyên sâu đậm với nền chánh pháp của Thầy, nên nay mới có sự gặp gỡ ở chỗ thiên thời, địa lợi, nhơn hòa. Thật Ta xét kỹ tinh thần đạo đức chưa có nơi nào được như nơi nầy. Bây giờ Ta vạch cho chư hiền một đường lối để xây dựng một cơ sở thánh thất kiểu mẫu để tượng trưng cho một địa bàn của nền chánh pháp.
Tuy thánh thất Trung Thành từ nay về phần tu tiến khá đấy, nhưng về phần tổ chức còn phải xây dựng rất nhiều. Về phần Đầu Họ phải cố gắng trụ định tinh thần tỏ ra mình là người hiền nhơn quân tử. Luôn luôn bình tĩnh, sáng suốt nhận định mọi việc để cho chức sắc, chức việc làm theo. Mọi tư tưởng, việc làm đều cốt ở lòng thanh tịnh. Việc làm mà thanh tịnh thì phước đức mới được vô lượng vô biên. Con đường chánh pháp của Thầy đã rõ ràng, ta tu hành lập công bồi đức cũng mong đến đó là cùng. Nếu không đi con đường ấy thì không còn con đường nào nữa. Quyết tu theo con đường ấy dù phải trải qua mọi nỗi gian lao, khổ sở, ta sẵn có tấm lòng thành thì sẽ được chứng ngộ. Hễ có nhơn thì ắt có quả. Không nên trù trừ do dự làm mất cơ hội ngàn năm một thuở. Người Đầu Họ với bốn cơ quan cũng như thân thể với tay chân phải liền lĩ, mạnh lành, mới mong làm nên được sự nghiệp. Ngay bây giờ Hành Chánh, Phước Thiện, Minh Tra, Phổ Tế phải lo chỉnh đốn lại.
Về Hành Chánh, công việc phải thông suốt từ trên xuống dưới, như dòng nước lưu thông không hề ngưng đọng.
Về Minh Tra, bộ máy phải kiện toàn, đem tình thương sự sống và công bình chan trải khắp nơi nơi. Không một việc gì xảy ra mà mình không biết. Minh Tra là một thứ nhựa để hàn gắn, để bể cho ra lành, không những lành mà lại còn tốt đẹp.
Phổ Tế là tiếng nói diệu huyền của Thầy ban rưới, khác nào như giọt nước mưa xuân cho cỏ hoa được tươi tốt. Mưa là món ăn của cây cỏ. Ăn phải có chỗ có thời, thường luôn luôn đổi món. Bởi vậy cho nên người nhân viên Phổ Tế phải thay đổi chỗ nấy qua chỗ khác, không nên cố định một nơi nào. Món ăn dầu ngon nhưng ăn mãi cũng hóa ra nhàm. Mà khi đã nhàm rồi thì không còn quý nữa. Người Phổ Tế gieo giống ra phải hòng gặt được lúa. Nghĩa là phải hằng kiểm điểm việc tu học của từng đạo hữu một.
1. Đã hiểu giáo lý được những gì?
2. Có thực hành được những điều đã học chưa?
3. Trong hàng đạo đồ có người nào còn dốt nát đã tìm phương giáo hóa cho họ chưa?
Có như thế thì việc làm mới nắm được phần kết quả. Hằng tháng phải thăm viếng, nhắc nhở về phương tu lẽ đạo cho người người. Phải luôn luôn thay đổi những gì mới lạ để thích hợp với sự ưa muốn của người. Được như thế thì cơ đạo làm sao không tiến được. Hiện nay ta thấy còn lắm phần chênh lệch, kẻ tinh tiến thì hằng bữa đến chùa, còn người lơ là thì hằng năm hãy còn ngủ gật. Bây giờ phải lo tìm cách xây dựng cho được đồng đều.
Về Phước Thiện, phải thực hiện nền sơ bộ đại đồng, bắt đầu củng cố các thiện gia. Phải xây dựng ở hạ tầng cơ sở. Không nên vì sự háo vọng theo những chương trình to lớn. Việc chưa thể làm được thì nên gác lại. Cái mà ta có thể làm được thì phải cố gắng mà làm, làm cho kỳ được, không vì việc nhỏ bỏ qua. Cũng như công việc tế khổ trợ nghèo dù không được tiền trăm bạc nghìn, chớ việc thăm viếng, đi lại, an ủi, cùng bày vẽ, nhắc nhở, sắp đặt nề nếp cho mọi người, thì Phước Thiện nên làm cho chu chí. Ta có thể tổ chức những việc như cho nhà nghèo một manh áo, người bệnh một quả cam, cũng đã thực hiện được tấm lòng làm nhơn làm thiện. Những việc ấy làm xong rồi, đủ điều kiện ta làm nhà tu cho kẻ xuất gia nương náu, làm trường học để dạy dỗ con em. Làm nhà thương để giúp người bệnh tật. Ôi! Mọi việc Phước Thiện phải lo phải làm. Từ nhỏ đến lớn, việc gì cũng cần thiết cả. Thế mà sức người có hạn, cơ đạo phải hồi chao đảo, thiệt cũng khó lòng mà thực hiện một thánh thất kiểu mẫu như ý muốn được.
Con đường giáo pháp thực sự đã mở ra, cơ duyên tốt đẹp với chư môn sinh thật thấm đậm. Các đàn cơ cứ chừng mỗi tháng hai kỳ. Những người chí tâm tu, trọn lòng vì đạo đã quy thiên, đắc quả, cùng với các Đấng thiêng liêng giáng đàn giáo pháp khuyến tu.
Đàn Tý thời ngày 23-6 Nhâm Dần (24-7-1962), tiền bối Nguyễn Tuệ Minh về cơ:
Đường cứu thế Đức Ngô đã vạch
Mọi người đều tìm cách chen chưn
Bước đi dụ dự ngập ngừng
Thì ta phải bị sa chưn hố hầm
Ta phải biết kiếm tầm chơn lý
Chơn lý tầm huyền bí diệu tâm
Đạo mầu diệu viễn thậm thâm
Có duyên sẽ gặp, kiếm tầm đâu xa
Của kia đã đến nhà rồi đó
Lo giữ gìn chớ bỏ mất đi
Mất đi phải bị khốn nguy
Thân mình bị bỏ có gì mà mong
Tệ Sĩ đã hết lòng bày tỏ
Chư Thiên ân gắn bó nghe lời
Để mà được hưởng muôn đời
Gia tài quý báu của Trời đã cho.
Đàn Tý thời ngày 08-7 Nhâm Dần (07-8-1962), Đức Đại Giác Chơn Tiên khuyên nhủ:
Trên đường tầm đạo dễ chi
Trải bao gian khổ hiểm nguy lắm mà
Nhớ câu tự giác, giác tha
Đừng nên dễ dãi làm ma dẫn đường.
(…)
Muốn thành đạo chánh đẳng chánh giác thì đầu tiên phải lấy sự yên lặng làm chỗ trụ. Yên lặng là tịch tịnh. Tịch tịnh cần có quán chiếu. Quán chiếu để tìm cái nguyên nhân, đòi lại bản nguyên mà diệt phàm dưỡng thánh.
Đàn ngày 21-7 Nhâm Dần (20-8-1962), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Con đường đạo pháp đã trao
Thì ta chớ để lọt vào tay ai
Vào tay thiếu đức thiếu tài
Làm cho chánh pháp lợt phai chơn truyền
Đường ta ta cứ thẳng đi
Dầu ai lôi kéo, níu trì không buông.
Người tu không để cái gì trói buộc cả. Ta có ở ngoài vòng buộc trói thì thân tâm mới được thảnh thơi, vui sống trong vòng đạo pháp, nay đây mai đó, trọn hưởng thú thanh nhàn, cùng nhau sống với bao nhiêu người đồng tâm, đồng chí, đồng học, đồng tu. Dù đời sống vật chất có đơn sơ nhưng tinh thần vẫn luôn luôn vui sướng, như thế cũng là Thần Tiên tại thế đi rồi.
Đàn ngày 23-7 Nhâm Dần (22-8-1962), Thần Nữ Nguyễn Thị Ngại khuyên nữ phái:
Khuyên đừng có tính nọ kia
Làm cho sứt mẻ xa lìa tình thương
Bước tu chánh pháp một đường
Cùng nhau em chị náu nương bảo bày
Mùi đời chớ có đắm say
Đường tu ta phải ngày ngày chăm lo.
Sau đó, Đức Lê Sơn Thánh Mẫu giáng, điểm danh một số tịnh viên tại Tịnh Đường và nhắc nhở:
Từ đây công việc đạo, các con cố gắng lập công nghe theo sự chỉ dẫn của Huệ Minh Đức mà tiến lên. Về việc kết bạn phải gấp tiến hành, nghĩa là phải làm sao không còn một người đứng ngoài tổ chức.
Đàn giờ Tý ngày 08-8 Nhâm Dần (06-9-1962), Đức Đại Giác Chơn Tiên giáng cho một bài thi lục bát dài, có điểm danh ba vị Tuyến, Hậu và Toàn. Trích phần cuối:
Vì câu sứ mạng bận lòng mình
Hồng thệ còn ghi lắm ngại kinh
Nội bộ bất đồng đương gắn bó
Gắn cho liền một phải chơn tình
Tình thương lẽ sống đã khô khan
Quyền pháp trung hưng muốn nguội tàn
Chuộc lại ơn xưa tu ngã chấp
Lòng thương thanh tịnh sẽ bình an
An bài đâu đó chỉnh tu chung
Quyền pháp chung xây xã đại đồng
Đồng chịu, đồng lo, đồng trách nhiệm
Nhiệm hơn gốc biết giữ tu công.
Đàn giờ Hợi ngày 23-8 Nhâm Dần (21-9-1962), Đức Vô Lượng Thọ Quang cho bài giáo pháp (trích đoạn cuối):
Chúng sanh mê đắm dục tình
Trò đem gương sáng của mình để soi
Trò làm vật tốt người coi
Coi trò tất cả mọi loài mến thương
Ấy là cờ Đạo đã trương
Chúng sanh sẽ có con đường cùng đi
Phần tản văn, có đoạn dạy:
Các trò nên biết rằng kỳ đại xá lần ba nầy Thầy Trời đã dùng đủ pháp môn phương tiện để độ đời, tùy theo căn cơ của mỗi người mà dẫn dắt. Chỉ có kẻ nào chống trái hay bất tín thì mới lọt ra ngoài sự cứu độ mà thôi. Hoặc có kẻ tu chứng rồi mới ra độ đời. Cũng có kẻ lập công trước rồi sau mới nhờ được duyên lành mà đắc đạo. Cũng có kẻ vừa tu kỷ vừa độ tha, nhưng dù cho phương tiện nào cũng cốt ở tâm thành chí nguyện.
Đàn Tý thời ngày 23-10 Nhâm Dần (19-11-1962), Đức Hiệp Thiên Đại Đế dạy (trích):
Nền đạo Trung Tông Thầy đã vạch định rõ ràng là giữa công truyền và tâm truyền không thể thiếu một được. Nếu trong hai phần ấy mà không giữ được trọn vẹn thì không còn cái nghĩa của hai chữ Trung Tông nữa.
Cơ đạo đến đây Thầy đã kết liền làm một, quyết không để canh cải rẽ chia. Nếu trong hai phần đó thiếu đi một phần thì nền đạo của Thầy không thể thành tựu được.
Đạo thành là cốt ở nơi người thanh tịnh. Thanh tịnh là đầu mối xây nên vũ trụ vạn vật. Vạn vật trở về với nguyên thủy cũng cốt ở chỗ thanh tịnh mà thôi. Người mà thanh tịnh thì trời đất cũng hiệp về. Sự thanh tịnh ở đâu, cơ mầu nhiệm của trời đất cũng ở đó, mà lòng người cũng hướng về. Nên Lão Quân đã nói “Nhơn năng thường thanh tĩnh, thiên địa tất giai quy” là ý nghĩa đó vậy. Kẻ nào không thanh tịnh, dù cho có tài năng trí lực đến đâu cũng chỉ là vật vô dụng cho đời mà thôi. Không thanh tịnh cứu cho mình còn không được, mong gì cứu cho đời.
Đàn Tý thời ngày 08-11 Nhâm Dần (04-12-1962):
THI
NGỌC chẩm lần qua đến đỉnh đầu
HOÀNG môn mới thấy báu linh châu
THƯỢNG thừa khuyên trẻ tâm vô ngại
ĐẾ Đạo chừng nên có dễ đâu.
BÀI
Đêm thanh rảo bước đến đàn
Nhắc chừng các trẻ vững vàng bước tu
Lần qua một đợt công phu
Gặp bao thử thách dãi dầu khó khăn
Sớm chiều ôn tập chăn chăn
Thong dong thanh thoát mà phăng lẽ Trời
Lòng không, trối mặc trò đời
Thị phi danh lợi dễ dời được đâu
Xét cho kỹ, nghĩ cho sâu
Mới trông thấy chỗ nhiệm mầu cao siêu
Biết rồi ngày tháng tiêu diêu
Càn khôn một túi nâng niu làm tình
Giữa thời nam bắc giao chinh
Giữa cơn nội bộ bất bình chẳng thông
Mười phương hết chỗ cậy trông
Nhơn sanh ngơ ngác buồn lòng dựa nương
Ai người còn chút tình thương
Còn đôi lẽ thật lo đương pháp quyền
Muốn đầy sự sống thiêng liêng
Dọn lòng trống rỗng làm duyên nối hàng
Muốn lo lòng chớ có toan
Muốn toan trước phải đủ gan Thánh Thần
Thánh Thần đủ đức cứu dân
Nhờ nương ở pháp xá thân làm đầu
Vô vi bất luận ở đâu
Cũng dung chứa được, gồm thâu mọi loài
Tứ thời tâm tịnh thường soi
Vào trong, lóng lấy tiếng còi giác mê
Thân tâm đâu đấy đề huề
Chín cung mở rộng đơn khuê kết thành
Vô vi là mẹ vô danh
Vô danh làm lũy làm thành vô vi
Vô vi không có thị phi
Thị phi đâu biết vô vi thế nào
Vô vi không luận thấp cao
Không cao mà lại trùm bao đất trời
Vô vi không thốt một lời
Một lời không thốt mà trời đất theo
Vô vi chịu lấy chữ nghèo
Chữ nghèo mà đạo khó theo khó bì
Nhiệm mầu là đạo vô vi
Nên Thầy khuyên trẻ gắng đi đến cùng
Vô vi mới đủ thủy chung
Vô vi mới được sống cùng nhơn dân
Vô vi là phép lành thân
Là an lạc quốc, là Thần tự do
Tuy là thấy rút thấy co
Thu hình cho được nhỏ to khó gì
Khuyên con hành đạo vô vi
Độc tôn đệ nhứt Tam Kỳ pháp môn
Con đừng tính dại tính khôn
Mà xen phàm ý khó tồn Tiên đơn
Gặp Thầy thì đó là ơn
Đem ơn gieo rải chúng nhơn cậy nhờ
Các con muốn thấy huyền cơ
Thì lo giải thoát qua bờ bên kia
Bên nầy ganh ghét rẽ chia
Sanh đau già chết không lìa chúng sanh
Bên này mãi mãi bất bình
Hữu hình hữu hoại nghĩa tình bán buôn
Đời người đóng chặt trong khuôn
Méo tròn phải chịu tấn tuồng trả vay
Bên kia là cảnh Bồng Lai
Thung dung tự tại, hòa hài thương yêu
Bên kia bình đẳng cao siêu
Bên kia ngày tháng tiêu diêu lắm mà
Bên kia phải ở đâu xa
Ở trong lòng trẻ dung hòa từ bi
Ở trong lòng trẻ vô vi
Muôn điều giải thoát sân si chẳng còn
Vô vi muôn hạnh được tròn
Muốn tròn bỏ nó có còn được chi
Lòng con phải được vô vi
Nên hư đâu nhọc thị phi đâu phiền
Con yên quyền pháp mới yên
Con yên đâu đó chẳng riêng chẳng mờ.
THI
Đường tu Thầy đã vẽ vời cho
Ngày tháng thanh nhàn thủng thỉnh lo
Có Thánh có Thần, đời có mắt
Mắt đời được mở bởi nguyên do
Duyên do chánh pháp được thành hình
Phải kết nhiều phần đủ Thánh linh
Cốt ở chúng nhơn thành quả đạo
Đạo lành hiển hiện thế hàm ninh
Đinh ninh dặn trẻ một lòng tu
Chiều sớm kiền kiền lấy chữ tu
Tu được cho thân thân đắc đạo
Đạo nên đời trị ở công tu
Công tu con được đủ rồi
Pháp quyền sứ mạng thay Trời phò nguy
Bây giờ con có tính chi
Tính chi đâu trúng vô vi ý Trời
Tu đi là biết nghe lời
Biết nghe lời được thì trời đất thương
Nếu còn mong muốn chủ trương
Làm cho khí động lấp đường vô vi
Thầy khuyên con trẻ tu đi
Quên quên tất cả, ly ly mọi điều
Cho lòng hết sức là nghèo
Không phương tính toán là điều Thầy ưng
Ưng con giữ lấy mực chừng
Lo điều nhỏ nhặt chớ đừng tranh đua
Đua tranh cho được để làm chi
Tính toán hóa thành chuyện thị phi
Được cái thân rồi là sự quý
Lời vàng Thầy dạy trẻ nên ghi.
Thôi, mọi việc không ngoài tâm pháp vô vi. Các con hành kiền pháp vô vi là hành pháp cứu cánh cho muôn họ.
Chánh pháp ở đâu? Ở cơ bút ư? Ở lời nói ư? Nếu các con hiểu lầm như thế mãi thì con đường giáo hóa bị ngăn lấp, cơ cứu chuộc khó hoàn thành.
Chúa Thánh có tôi lành mới đủ tài kinh tế, đủ đức an dân. Vị Giáo Chủ toàn giác toàn chân mà không có môn đồ đắc đạo cũng không phương mở đường cứu độ, an trụ chánh pháp nhiều ngày. Vậy, muốn làm gì phải tu cái đã.
Đàn 08-11 Nhâm Dần (04-12-1962), Đức Nam Cực Tiên Ông khuyên dạy:
Tu hành cốt phải làm sao
Làm sao cho trọn cho cao cho lành
Một là học chữ vô danh
Vô công gắng dạ để dành vô vi
Vô vi phát hạnh từ bi
Chở che bảo bọc thi vi cùng người
Hai là đời sống cho tươi
Hoa thơm trái ngọt để người hưởng chung
Cảnh nào lòng cũng thung dung
Có vui hay khổ không rung chuyển tình
Ba là cùng với vạn linh
Không phân ranh giới để mình lẻ loi
Tu hành nhứt dạ lòng soi
Diệt lòng tham dục, tập noi Thánh Hiền
Công phu, công quả cho siêng
Coi nhau là một đừng riêng xa gần
Bốn đừng nhận giặc làm thân
Phải lo ngăn đón tham sân lộng hành
Lóng lòng cho tịnh cho thanh
Được thanh được tịnh là thành kim đơn
Từ đây quyền pháp để chơn
Giữ còn sứ mạng đón ơn Nước Trời.
Đàn Tý thời ngày 09-01 Quý Mẹo (02-02-1963), Đức Quan Thế Âm giáng:
Bần Đạo thừa phụng Thánh ân đến với chư hiền một niềm xuân hư linh bất muội.
THI
Xuân trưởng thành cho vật dưới trời
Bò, bay, máy, cựa, cỏ, hoa tươi
Sáu phàm bốn thánh, xuân là cội
Sự sống tình thương để độ đời.
(…)
Gắng nhau mà giữ một chữ tiềm. Tiềm với tàng, hai chữ thường có đôi, nhưng bỏ một thì có ngày được hiện.([1])
Đã ngót hai năm, các vị chí chăm đường tu tâm pháp vô vi theo vận chuyển của Ơn Trên để chuộc lại sứ mạng. Đồng tử Liên Hoa dần dần bớt thủ cơ mà giao cho Huệ Minh Đức (Tá Cơ Quân Đặng Nhâm). Điển huệ Thiêng Liêng vẫn liên tục dạy tu cho phía các vị nhà tịnh hành trì thuần túy về vô vi tâm pháp để có người đạt chứng mới mong chuộc lại sứ mạng.

--------------------------------------
([1]) Hiện là xuất hiện. Hào cửu nhị quẻ Càn nói: “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.” Cơ đạo sẽ vào thời Lâm là thời đại hành.


PHẠM VĂN LIÊM

Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.

  • Đức Giáo Tông Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 14-3 Quý Hợi
  • 10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
  • Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS)
  • Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides