Hiển thị các bài đăng có nhãn Tham khảo-Tôn giáo bạn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tham khảo-Tôn giáo bạn. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Hai, 8 tháng 11, 2021
SỰ TÍCH ĐỨC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
Đức Đại Thế Chí khi chưa xuất gia học đạo, thì Ngài chính là con thứ hai của vua Vô Tránh Niệm tên là Ni Ma Thái Tử.
Ngài vâng lời phụ vương khuyên bảo, phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và đại chúng trọn trong ba tháng.
Chủ Nhật, 19 tháng 9, 2021
SỰ TÍCH THẬP BÁT LA HÁN
Lời Nói Đầu
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đờicủa các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2021
Thứ Ba, 20 tháng 7, 2021
Thứ Tư, 30 tháng 6, 2021
Thiền định phân tích - bí quyết tư duy từ Đạt Lai Lạt Ma
TS. Sanjay Gupta – chuyên gia trong lĩnh vực khoa học thần kinh, trưởng ban y tế của CNN cho biết, trong vòng 2 tháng kể từ lần gặp gỡ Đạt Lai Lạt Ma, ông đã trở thành một người hoàn toàn khác.
Vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Nguồn: CNN
“Gia đình và bạn bè từng mô tả tôi là một người thú vị nhưng ‘hiếu động’ và cáu kỉnh. Tuy nhiên, những tính khí 'khó chịu' đó đã biến mất hoàn toàn trong thời gian gần đây... Giờ đây, tôi không cần phải cố gắng nhiều khi duy trì sự chú ý và tập trung khi chơi với đứa con nhỏ của mình. Thay vì liên tục 'giám sát' điện thoại, tôi nhận ra niềm vui của việc được sống trong một thế giới không bị phân tâm”, ông chia sẻ trong một bài viết trên CNN.
TS. Sanjay Gupta. Nguồn: CNN Sau đây là câu chuyện về sự thay đổi kỳ diệu của TS. Sanjay Gupta:
Thứ Ba, 8 tháng 6, 2021
Khổng Tử dạy 5 việc xấu ở đời, có một điều nhiều gia đình đang phạm phải
Có những đạo lý sống dù trải qua hàng nghìn năm vẫn giữ nguyên giá trị. 5 việc xấu mà Khổng Tử khuyên chúng ta nên tránh dưới đây nằm trong số đó.
Trong cuốn "Khổng Tử gia ngữ" có một điển cố khá thú vị như thế này.
Chủ Nhật, 6 tháng 6, 2021
Hai chữ người Thầy trong quan niệm của Khổng Tử
Thứ Tư, 2 tháng 6, 2021
ĐỊNH LUẬT TIẾN HOÁ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Tôi càng ngày càng thấy Tiến Hoá là một qui luật của đất trời. Lòng tôi lúc nào cũng khắc khoải muốn viết lên điều đó. Tôi thấy những gì tôi viết trước đây về Văn Hoá, về Văn Minh về Biến Thiên đều có thể qui hướng về Tiến Hoá. Tuy nhiên, Biến Thiên có tốt có xấu, mà Tiến Hoá thì chỉ có tốt.
Thứ Hai, 24 tháng 5, 2021
KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN
Thích Nữ Giác Liên
2635: Phật lịch 2555; dương lịch: 2011
Đã bao lần tôi về Ấn Độ và Nepal để dự lễ Phật đản. Năm nay Thánh địa Lumbini (Lâm-Tỳ-Ni) tu
sửa thêm nên thoáng mát, rộng rãi. Buổi lễ diễn ra rất long trọng, hoành tráng, có cả Tổng thống tham dự. Dân chúng kéo đến rất đông, mừng ngày Đấng cứu thế ra đời...!
Tôi có cảm giác vô cùng xúc động khi nhìn trụ đá cảm niệm Đức Phật giáng sinh. Năm 250 trước Tây lịch, Hoàng đế A-dục đã dựng trụ đá ghi rõ: Đây là nơi sinh Đức Phật Thích Ca. Nhà sử học Tây phương nói: Trụ đá này là bản khai sinh của Phật. Còn Hòa thượng Huyền Diệu cho rằng: “Trụ đá là nhân chứng biết nói - vì còn 5 dòng chữ đã khắc trên bia đá”.
Khoảng 8 giờ sáng, nghi lễ bắt đầu, các tôn giáo bạn trú xứ tại Lumbini, Tăng đoàn các nước (Nhật, Trung Quốc, Thái Lan, Sir Lanka, Đài Loan, Pháp, Đức, Áo, Nepal, Ấn Độ giáo, Miến Điện, Nepal, Việt Nam, Campuchia...) đều có mặt. Chư Tăng Ni theo nghi thức riêng của mỗi nước đều tụng kinh. Hòa thượng Huyền Diệu cùng Tăng Ni và Phật tử Việt Nam dâng hương lễ Phật. Nơi thánh địa âm vang lời cầu kinh, hòa lẫn những tiếng trống, chuông, mõ... âm vang hùng hồn, thanh âm êm dịu như ru hồn khách mộng trở về cõi tịnh, phủi sạch nợ trần ai!
Tôi nhìn trụ đá cảm nhớ ơn Đấng Từ phụ muôn đời của nhân loại: Thái tử Sĩ Đạt Ta, dòng Thích Ca oai hùng, quên đời vương giả, bỏ chốn thâm cung, gót son phong trần! 6 năm khổ hạnh rừng sâu! 49 ngày chứng quả tại cội Bồ đề. Đức Phật là người bằng xương, bằng thịt, như người bình thường... mà quá phi thường.
Cuộc đời của Đức Phật từ khi sinh ra cho đến khi đắc đạo, hành đạo và Niết Bàn... đều ở gốc cây. Ngài sinh tại Lumbini dưới tàn cây Hoa Vô ưu. Ngài thành đạo dưới cội Bồ đề. Khi Phật dạy đạo cho đồ chúng cũng ngồi dưới bóng cây và khi nhập Niết Bàn, hơi thở cuối cùng, Ngài vẫn nằm giữa hai tàn cây Sala song thọ. Sự giáng trần của Ngài hình như có sự sắp đặt thiêng liêng, khoa học khó giải thích được. Chỉ có những tâm linh hòa với tâm linh mới đạt được tâm cảnh này!
Lịch sử ghi rõ, lúc Thái tử Sĩ Đạt Ta rời hoàng cung, trốn ra khỏi thành Ca Tỳ La Vệ cũng vào lúc Công chúa Da Du Đà La sinh Thái tử La Hầu La, nhân dịp đó Ngài bỏ trốn. Nhưng trước khi đi, Ngài muốn nhìn mặt con trẻ lần cuối. Ngài vào phòng thấy Công chúa đang ngủ say, ôm lấy đầu con thơ với tư thế che chở.
Ngài không nhìn mặt con được và Ngài đi đến chuồng ngựa gọi Xa Nặc, Xa Nặc nghe tin Ngài định trốn đi, thưa rằng:
Hỏi: Trời đất nhân gian, mờ mịt quá,
Giờ đây Thái tử định đi đâu?
Đáp: Chính đời mù mịt nên ta phải
Đi để tìm ra ánh đạo mầu.
Hỏi: Ngày mai bao kẻ sầu tang tóc
Ly biệt thưa Ngài lắm khổ đau?
Đáp: Ta sẽ trở về khi thấy đạo
Giải thoát nhân gian vạn khổ sầu.
Và Ngài tiếp: Rộn rã chim muông ríu rít ca
Dường như chào đón Sĩ Đạt Ta
Xa xa lấp lánh dòng sông bạc
Xa Nặc về đi cứ mặc ta.
Và Ngài đến dòng sông Anoma cắt tóc trao đồ cho Xa Nặc. Ôi! Cao cả thay Đức Phật của chúng ta. Cương vị hoàng gia sống trong cung hoàng điện ngọc, vợ đẹp, con xinh, ngôi báu sẵn dành... thế mà ra đi tìm giải thoát, dầm mưa dãi nắng, kham nhẫn mọi cảnh ngộ, mục đích cung hiến trí tuệ cho chúng sanh. Ai đã làm được công hạnh vĩ đại này? Chỉ có đấng từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Khi Phật chứng quả, nói cùng chúng tăng: “Lúc ta còn trẻ là trang nam tử, ta cắt tóc đen, cha mẹ ta phản đối khóc đầy nước mắt, ta cũng nhất quyết xuất gia. Vì ta nhịn ăn quá lâu nên thân thể gầy yếu, ta không còn sức chịu đựng, tay chân ta như lóng tre, xương sống, xương sườn lồi ra cũng như cột của căn nhà đổ nát, đồng tử của ta nằm sâu như cái hố, thăm thẳm lung linh như độ giếng nước sâu. Da đầu ta khô héo, nhăn nheo như trái mướp đắng. Ta sờ vào da bụng và xương sống ta, hai thứ gần như dính lại.”
Nghe lời than của Phật, dù rằng trên trang sử nhưng cũng xót xa tận đáy lòng...! Tôi nước mắt long tròng! Đức Phật hành đạo quá khổ hạnh, mỗi ngày chỉ dùng vài hạt mè nuôi thân. Nhờ bát sữa của nàng Su Già Ta, Ngài có chút năng lực, tìm đến cội Bồ đề tọa thiền! 6 năm khổ hạnh, 49 ngày hành thiền. Tâm như bất động. Trong 49 ngày, Ngài ngồi thiền dưới 7 gốc cây.
Tuần thứ nhất Ngài ngồi tại cội Bồ đề. Tuần thứ 2, Ngài ngồi gần xéo cổng chính, nay làm tháp Animesh Locahn Chaitya. Tuần thứ ba, Ngài ngồi gần cội Bồ đề, có trụ đá và những đóa sen. Lúc ấy, Chư thiên nghi ngờ sự chứng quả của Phật, nên Ngài hiện thần thông, tạo thành ánh sáng rực rỡ và từ đó mọc lên 7 đóa sen. Phật đi kinh hành trên những đóa sen ấy. Tuần thứ tư, Phật an trú dưới gốc cây, nay làm đền thờ Rajagriha. Lúc đó Phật phóng hào quang ngũ sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, cam. Tuần thứ năm, nơi cổng chính bước xuống cầu thang có trụ đá đánh dấu: Đây là nơi phía Đông Phật thiền định dưới cội cây Bồ đề. Tuần thứ sáu phía Nam Đại tháp, có hồ nước lớn. Lúc ấy Phật tọa thiền trong đêm mưa bão sấm sét, mãng xà vương Mucalinda (Thần Rắn Naga) 7 đầu xuất hiện bảo vệ che mưa cho Phật và tuần thứ bảy Phật hành thiền phía Đông Nam, gần cội Bồ đề không xa, Ngài an trú cội cây Rajayatana và Phật được hai thương buôn người Miến Điện tên là Tapussa (Ba Lợi) và Bhallika (Đề Vị), đến từ Ukkhala cúng dường cháo mạch và bánh mật ong. Đức Phật dùng thực phẩm xong, nhổ tóc tặng hai vị thương buôn ấy, và hai vị xin làm đệ tử Phật. Đó là hai vị đệ tử cư sĩ quy y đầu tiên và khi hai thương nhân về nước, xây tháp bằng vàng thờ tóc Phật. Hiện giờ còn ở Miến Điện gọi là chùa Tháp Vàng.
Đức Phật chứng quả thấy rõ chúng sanh trong sáu đường, quay cuồng trong kiếp luân hồi, bánh xe luân hồi chẳng buông tha ai cả! Nỗi khổ của chúng sanh bị kéo dài vô cùng tận. Đức Phật đã thoát ra, Ngài nói: “Trong dòng sống chết vô tận ta chạy mãi không nghỉ ngơi, từ bào thai này đến bào thai khác đuổi theo người chủ ngôi nhà. Ta phát giác người rồi mái sườn đều sụp đổ. Tâm lìa tạo tác tất cả diệt trừ xong”.
Đức Phật để lại cho chúng ta kho tàng vô giá: Di sản là trí tuệ, Hạnh độ tha, gương nhẫn nhục. Ngài đã hươi gươm huệ, đoạn lìa dây ái...! Cắt đứt lưới tình, chứng quả vô sanh, thế mà còn bị oan gia trái chủ Đề Bà Đạt Đa vô tâm sát hại...! Lúc Phật tọa thiền tại núi Linh Thứu cùng Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, A Nan... Đề Bà Đạt Đa cho hai binh sĩ ám sát Phật. Lệnh truyền: Hai tên lính ấy giết Phật xong phải xuống đường cũ! Hai người lính ấy mang gươm lên núi, khi đến gần Phật, họ hôn mê bất tỉnh hồi lâu, khi tỉnh lại, sám hối Phật và trình bày kế hoạch của Đề Bà Đạt Đa.
Đức Phật an ủi hai người ấy và Phật chỉ đường tắt cho họ xuống núi. Phật khuyên hai binh sĩ đừng theo nghề cũ nữa... Riêng Đề Bà Đạt Đa dù sắp đặt kế hoạch rất chu đáo nhưng cũng bị thất bại. Ông sai binh sĩ khi lên núi giết Phật xong, phải xuống đường cũ và đã có bốn binh sĩ khác chờ giết hai tên lính kia; và bốn người sát nhân cũng phải xuống đường cũ, sẽ bị tám sát nhân khác giết bốn người đó, và tám sát nhân xuống tới chân núi cũng bị 16 người phục kích thanh toán! Âm mưu rùng rợn bị hỏng, hai binh sĩ trước trốn mất, nhờ thế mà những tên sát nhân sau bỏ trốn luôn!
Khi Phật sắp nhập Niết Bàn liền gọi Ngài A Nan đến dặn: “Ta đã già, 80 tuổi, đến hạn kỳ cuối, đời người như cỗ xe cũ chạy nhờ những sợi dây chằng chịt nâng đỡ. Sau khi ta nhập Niết Bàn, các ông hãy lấy chánh pháp làm nơi an trú. Không nên tìm nơi an trú khác.” Lời dạy của Đấng Thế tôn là lời châu ngọc, là ánh đuốc soi đường, cảm ứng hàng trăm triệu người trên thế giới. Giáo pháp của Phật dạy: Duyên sanh, từ bi, trí tuệ, bình đẳng, giải thoát và giác ngộ!
Trong phiên họp ngày 15 tháng 2 năm l999, Hội đồng Liên hiệp quốc đã ý thức ký kết công văn số (A|54| L-59) quyết định hàng năm tổ chức ngày lễ Vesak, vào tháng 5 dương lịch, là ngày trăng tròn để kỷ niệm tưởng nhớ ngày sinh, ngày thành đạo và ngày nhập diệt của Đấng cứu thế muôn đời của nhân loại.
Bạch Đức Thế tôn, giáo lý của Ngài như mặt trời rực chiếu, xoay vòng không bao giờ tắt...! Như ánh trăng thượng tuần, như Thái Sơn hùng vĩ... Ngài đã nhập Niết Bàn trên 2000 năm. Những lời Di giáo của Ngài như những dòng suối thiên nhiên cuồn cuộn chảy mãi, không cần số đếm và cũng không có chỗ gọi là tận cùng.
Hôm nay kỷ niệm đản sinh, nơi Phật giáng trần, chúng con cảm nhận công ơn Phật bằng tất cả trái tim… Ngài là vị Đạo sư cao cả, vĩ đại tuyệt vời... Ngài đã dũng mãnh bỏ lại những gì lạc thú trần gian... Oai hùng, kham nhẫn, vui chịu mọi cảnh ngộ... Ngài đã thực hành bản thân mình: Tìm đạo, Chứng đạo và Dạy đạo! Hôm nay Tăng Ni chúng con cùng Phật tử nguyện noi dấu bước chân Ngài. Sống trong chánh pháp của Ngài…!
Bạch Đức Thế Tôn, dù chúng con sinh ra khi Phật đã nhập Niết Bàn, chúng con chưa một lần đối diện với Đấng Từ phụ cao cả! Tuy thế, giáo lý Phật là thuyền bè, đưa chúng con vào thế giới vô cùng tận... Chúng con xin nguyện thể nhập vào Từ bi tâm của chư Phật...!
Nepal, ngày 16 tháng 5 năm 2011
Năm Tân Mão
Thứ Bảy, 22 tháng 5, 2021
Tôn Giáo, Nghệ Thuật, Triết Học và Khoa Học.
CƯ SĨ MINH ĐẠT
Nghệ thuật không thể là cái cầu nối giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Không thể là cầu nối giữa hai bờ sông. Không thể là cầu nối giữa hai đỉnh núi. Không thể là cái cầu. Nhưng nó là sự nối tiếp giữa chủ quan và khách quan, giữa cái logic và cái phi logic, giữa bên ngoài và bên trong, giữa hôm nay và ngày mai.
Düsseldorf, German, ngày 3/1/2013
Sài gòn, ngày 10/5/2013
Tác giả: Cs. Minh Đạt.
Tôi đã từng viết:
Giống như một đồng tiền, cuộc sống của Nhân loại có hai mặt. Một mặt là Khoa học và Triết học. Một mặt là Tôn giáo. Hai mặt này không đối lập, không chống đối, nhưng không thể là như nhau. Cùng phục vụ Con người, những chúng rất khác nhau.
Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Khoa học và Triết học nghiên cứu cái bên ngoài của Con người, là Vạn vật, là Vũ trụ, là quy luật Tự nhiên, là các quy luật Xã hội, là các quy luật Kinh tế,… Nó nghiên cứu chuyển động các vì sao, chuyển động các giải Ngân hà, tương tác giữa chúng,… Nó nghiên cứu về cấu tạo cơ bản của Vật chất, về nguyên tử, về các hạt, về các Lực trong Tự nhiên… Nó nghiên cứu về Con người, về Tâm lý, về Cơ chế hoạt động của các hệ thống trong cơ thể, về sự hoạt động của Não bộ, về cấu trúc của gen… Nó nghiên cứu về các mô hình tập thể: Chính phủ, Thể chế xã hội. Nó nghiên cứu về các quy luật phát triển Xã hội, các quy luật phát triển Kinh tế của Tập đoàn, của Quốc gia, của Khu vực, của toàn Thế giới,… Triết học cũng vậy, ngay cả Triết học Hiện sinh, một bước nhảy vĩ đại của lịch sử Triết học Thế giới: lấy Con người là Trung tâm của Vũ trụ, Con người là Chủ thể. Con người Chủ thể đó, cũng là sự phóng chiếu của Thực tại Vũ trụ vào Con người mà thôi. Tất cả, tất cả các ngành Khoa học và Triết học là tập trung nghiên cứu cái bên ngoài của Con người. Tôn giáo ngược lại. Tôn giáo thuộc về Tâm linh. Tông giáo không chỉ quan tâm cái bên ngoài. Tôn giáo là đi sâu vào cái bên trong. Tôn giáo đưa con người vào cái Tĩnh lặng sâu thẳm. Tôn giáo đưa con người tới sự Phúc lạc toàn phần và Vĩnh viễn. Đó chỉ có thể là con đường đi vào bên trong.
Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Khoa học là logic, là phân tích, là lý luận, là chứng cứ. Cả Khoa học và Triết học đều dùng chung một phương pháp đó là Logic. Không logic Khoa học không thừa nhận. Logic là cơ sở của mọi Lý thuyết; có logic các phương trình mới xác định được nghiệm, ngay cả khi xác định Vô nghiệm. Không logic Triết học không thừa nhận. Phép Biện chứng được Georg Wilheim Friedrich Hegel tìm ra, như một bước nhảy vĩ đại trong lịch sử của Triết học. Không có phép Biện chứng, Triết học không có sức sống, không có màu sắc. Karl Marx lấy cái Biện chứng của Hegel ghép vào trong Duy vật. Khoa học và Triết học phải là logic. Tôn giáo thuộc về Tâm linh. Tôn giáo là chủ quan. Sự Chứng ngộ không thể nào khái quát được bằng công thức, bằng phương trinh, ngay cả bằng ngôn ngữ. Không thể, không bao giờ có thể giải thích và chứng minh được. Khoa học và Triết học vận hành bởi cái Đầu, bằng Bộ óc. Tôn giáo vận hành bởi Trái Tim, bằng Tình yêu. Trái tim và Tình yêu luôn có bước nhảy, nó không bao giờ tuần tự, nó luôn là nghịc lý, nó là Phi logic. Tôn giáo là Phi logic.
Khoa học và Triết học là thế giới của Trí thức và Trí tuệ. Lý thuyết, mệnh đề, phương trình, toán tử, tích phân, đạo hàm, xấp xỉ, gần đúng,… có nghiệm hay vô nghiệm,… tất cả những điều này là quan trọng. Nhưng nó không phải là cuối cùng. Không phải là cuối cùng, dù đã rất logic. Điều cuối cùng phải là Thực nghiệm, phải là Thực tế. Phải có Thực nghiệm, phải có Thực tế kiểm tra Khoa học mới công nhận. Triết học là đi tìm Chân lý của thực tại, bằng con đường khách quan. Khoa học và Triết học là khách quan. Tôn giáo là chủ quan. Nó hoàn toàn là kinh nghiệm cá nhân, là chủ quan, là duy nhất theo một cách nào đó. Phật Gautama đạt Chứng ngộ không chỉ vì Ngài từ bỏ ngài vàng, quyền lực, giàu sang, cung tần mỹ nữ… Phật Gautama Chứng ngộ chỉ khi Ngài có sự từ bỏ lớn lao: từ bỏ tìm kiếm. Jesus Christ Chứng ngộ bằng Tình yêu vĩ đại. Tôn giáo là như vậy. Tôn giáo là Chủ quan. Mỗi một Con người đi tới Chân lý bằng con đường của mình.
Khoa học và Triết học là trò chơi của Trí tuệ, nó đi tìm Chân lý để HIỂU. Tôn giáo không phải là như vậy. Tôn giáo đi sâu và bên trong của Con người. Tôn giáo hoà nhập cái bản thể của Con người vào cái Toàn thể của Vũ trụ. Tôn giáo là đi tìm Chân lý để BIẾT. Cái không biết, thì đi tìm để hiểu. Con người thông thuờng chỉ đi tìm để hiểu những điều không biết. Con người không thể trải nghiệm được chuyển động của các hạt cơ bản trong thế giới Hạ nguyên tử. Cũng như con người không thể trải nghiệm được chuyển động của các vì sao trong giải Ngân hà. Nhưng tất cả những điều đó, con người có thể hiểu qua Thuyết Tương đối, qua việc bắn các chùm hạt, qua việc giải các phương trình trong Lý thuyết Chuỗi… Cái đã biết thì không cần hiểu nữa. Trải nghiệm rồi, biết được mọi góc cạnh, biết được mọi chiều kích, biết được mọi cung bậc, biết được mọi màu sắc, biết được mọi hương vị,… biết Tất cả, không còn phân biệt, vậy thì đầu cần gì phải hiểu nữa! Hiểu và Biết khác nhau như vậy.
Đó là sự khác nhau giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Không thể so sánh Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Nó là hai cấp độ khác nhau. Có thể so sánh những Galileo Galilie, Isaac Newton, Alber Einstein, Ernest Rutherford, Niels Bohr, James Chadwick, Werner Heisenberg, Kurt Gödel và Stephen Hawking,… Với những Aristote, Descartes, Kant, Hegel, Jean-Paul Sartre và Albert Camus,… Có thể so sánh họ với nhau. Nhưng không thể so sánh từng người họ, không thể so sánh toàn thể họ với Phật Gautama, với Jesus Christ,… Những Nhà Khoa học, những Nhà Triết học với Phật Gautama và Jusus Christ là hai cấp độ khác nhau. Không thể so sánh họ với Phật Gautama và Jusus Christ được. Không thể được.
Không thể lấy ngôn ngữ của Khoa học, Triết học đi phân tích, đi chứng minh, đi giải thích,… Tôn giáo. Không nên, vì đó là không thể. Ngôn ngữ, mệnh đề, công thức, toán tử và phương trình làm sao có thể giải thích được cái Tĩnh lặng tuyệt đối? Là sao có thể phân tích được sự Chứng ngộ Linh thiêng? Phật Guatama đã nhiều lần im lặng. Ngài đã im lặng và không nói câu trả lời. Ngôn từ của Con người và những công cụ của Trí tuệ, những phương trình, những toán tử, những đạo hàm và những tích phân,… làm sao, làm sao có thể diễn tả được cái vô cùng của Vũ trụ. Làm sao có thể diễn tả được cấu trúc của Linh hồn… Phật Gautama đã im lặng. Xin đừng dùng logic, xin đừng dùng Lý thuyết Tập hợp, xin đừng dùng khái niệm Tập Mờ,… để giải thích. Mọi lý thuyết đều màu xám! David Hilbert, Pierre Simon de Laplace đã thực sự thoái vị rồi.
2
Và tôi cũng từng viết:
Nghệ thuật: âm nhạc, thơ ca, văn chương, hội hoạ, điêu khắc và điện ảnh,… là cầu nối giữa Khoa học, Triết học và Tôn giáo, là cầu nối giữa cái bên ngoài và bên trong, là cầu nối giữa hôm nay và ngày mai, là cầu nối giữa cái logic và cái phi logic,… Xin hãy tích hợp các thứ này vào trong bản thân con người. Nghệ thuật sẽ làm cho Khoa học và Triết học thơ ca hơn, màu sắc hơn, tươi tắn hơn. Nghệ thuật sẽ làm cho Tôn giáo gần gũi hơn, cụ thể hơn, đằm thắm hơn. Tích hợp được cả bốn thứ, con người tin, con người hiểu, giàu có lên rất nhiều và con người sẽ biết.
Anh Phạm Việt Hưng, (một người bạn đồng hành trên một con đường vốn vắng khách lữ hành, lời của anh) đã comment cho tôi:
Nghệ thuật: âm nhạc, thơ ca, văn chương, hội hoạ, điêu khắc và điện ảnh,… là cầu nối giữa Khoa học, Triết học và Tôn giáo. Tôi không nghĩ như thế. Nói như thế thì đề cao khoa học quá. Có vẻ như khoa học và triết học nằm ở vế này, tôn giáo ở vế kia. Tôi nghĩ khoa học, nghệ thuật là những con đường khác nhau để khám phá ra một phần nào đó (some part) của chân lý, một khía cạnh nào đó (some feature) của chân lý, một góc nào đó (some corner) của chân lý, một mầu sắc nào đó (some colour) của chân lý, một đặc trực nào đó (some character) của chân lý. Chân lý là duy nhất nhưng biểu lộ của nó lại đa dạng. Do đó không có một hệ thống nhận thức nào có thể mô tả nó đầy đủ. Chỉ có sự bổ sung của các dạng nhận thức khác nhau mới mô tả chân lý một cách phong phú hơn, nhưng không bao giờ lột tả đầy đủ. Giống như phải dùng nhiều loại bản đồ khác nhau để mô tả thế giới – bản đồ hành chính, bản đồ địa hình, bản đồ địa chất, bản đồ kinh tế, bản đò sắc tộc, bản đồ ngôn ngữ. Thế giới là sự chồng chất của vô số bản đồ mà mỗi bản đồ là một đặc trưng của thế giới. Khoa học là một bản đồ mô tả vũ trụ bằng ngôn ngữ khoa học. Nghệ thuật là một bản đồ mô tả thế giới bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Không có cái nào là cái cầu cho cái nào cả.
3
Vâng, không có cái nào là cái cầu cho cái nào cả.
Nghệ thuật không thể là cai cầu để nối giữa Khoa học, Triết học với Tôn giáo. Không thể là cầu nối giữa hai bờ sông. Không thể là cầu nối giữa hai đỉnh núi. Không thể là cái cầu. Nhưng nó là sự nối tiếp giữa chủ quan và khách quan, giữa cái logic và cái phi logic, giữa bên ngoài và bên trong, giữa hôm nay và ngày mai.
Nghệ thuật ngợi ca và tôn vinh tình yêu. Nghệ thuật làm bùng nổ thế giới của tình yêu. Nghệ thuật phục vụ tình yêu. Khoa học, Triết học phục vụ cuộc sống. Do đó Nghệ thuật sinh động hơn, sâu xắc hơn là Khoa học, Triết học. Tầm nhìn của Nghệ sĩ hàm chứa nhiều hơn tri thức khoa học có thể hàm chứa, mặc dầu cách thức của Nghệ thuật là hoàn toàn khác với cách thức của Khoa học và Triết học. Nó hoàn toàn khác nhau. Khoa học mang tính khách quan bởi vì nó là ngoại vi. Nghệ thuật không thể tuyệt đối khách quan được; một nửa khách quan, một nửa chủ quan. Vì đơn giản nó không thể độc lập với người quan sát được.
Khoa học cố gắng để người quan sát tuyệt đối độc lập với đối tượng quan sát. Nhà Khoa học phải không đi vào trong của đối tượng, phải không tham gia, phải trung lập, không là người tham gia, mà là khán giả. Nhà Khoa học phải không được đem bản thân mình vào trong sự vật và sự kiện. Đó là cái nhìn Khoa học. Đó là cái nhìn Triết học.
Khi nhà khoa học nhìn vào hoa ông ấy cố gắng chỉ là người quan sát. Ông ấy đơn giản theo dõi, đo đạc và khảo sát. Ông ấy ghi chép về điều ông ấy thấy. Ông ấy không đem mơ của mình vào, không đem tầm nhìn của mình vào việc quan sát. Ông ấy khách quan và từ bỏ các cảm xúc. Ông ấy phân tích và kết luận. Ông ấy phải hoàn toàn độc lập. Nghệ sỹ có nhiều tự do hơn. Nhà thơ có nhiều tự do hơn. Hoạ sĩ có nhiều tự do hơn. Họ đi sâu hơn vào trong đối tượng hoa. Họ tham gia vào bí ẩn của nó, họ không tách rời; trong vài khoảnh khắc họ trở thành một với nó. Người nghệ sỹ đắm chìm trong mùi hương của nó. Hoạ sỹ đắm chìm trong sắc màu của nó. Có những khoảnh khắc mà nhà thơ nhảy múa cùng hoa, đu đưa trong gió, nhịp nhàng trong mưa, đong đưa trong ánh mặt trời. Người nghệ sỹ, hoạ sỹ, nhà thơ,… họ đã trở thành hoa, đó chính là khi người quan sát là vật được quan sát. Có những khoảnh khắc họ không chỉ nhìn vào hoa mà nhìn qua hoa, trở thành đôi mắt của hoa. Một cách tự nhiên, họ chìm sâu hơn nhà Khoa học.
Nghệ thuật siêu thực là một trào lưu văn học và nghệ thuật ở thế kỷ 20, bắt đầu ở Paris và được nhà thơ người Pháp André Breton viết tuyên ngôn vào năm 1924. Trong Hiến chương Siêu thực, ông ấy tuyên bố rằng: “cách quy hai trạng thái, mơ mộng và thực tế, dường như rất trái ngược nhau, thành một thực tại tuyệt đối, một siêu thực tại”. Ông ta đã coi rằng, Siêu thực là sự kết hợp thế giới thực tế thông thường và thế giới thực tại của giấc mơ. Nhiều nhà thơ, nhiều hoạ sỹ và nhiều nghệ sỹ, họ cũng đã coi như vậy. Họ đã coi rằng, Siêu thực được tư duy sai khiến, không chịu bất cứ sự kiểm soát nào của lý trí, được miễn trừ khỏi mọi quan ngại liên quan tới thẩm mỹ và đạo đức. Một số khác, lại coi rằng, Siêu thực là chấp nhận các thông điệp từ vô thức chui vào ý thức,… Các Học giả tuyên bố vậy!
Nhưng, những Con người Nghệ sỹ, và Nghệ thuật Siêu thực nói riêng, Nghệ thuật nói chung họ đã chạm vào cái bên trong, họ đã vượt qua cái ngoài vi, họ đã vượt qua cái thế giới vật chất thông thường. Họ đã vượt qua cả cái mà họ tưởng là bên trong, tâm lý hay phân tâm học, để đi vào sâu thẳm của tĩnh lặng, đi vào chiều của Tâm linh, đi vào Bên Trong.
Đó là điều, mà thơ ca, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc,… chúng gần với Thực Tại hơn. Bởi vì chúng sẵn sàng để tham gia; chúng bước qua giới hạn của khách quan; chúng bước qua giới hạn của logic; chúng bước qua giới hạn của ngoại vi. Nghệ thuật hàm chứa một nửa khách quan, một nửa logic, một nửa ngoại vi; Nghệ thuật còn hàm chứa cả một nửa chủ quan, cả một nửa phi logic, cả một nửa Bên Trong.
4
Khoa học và Triết học cố gắng hiểu Cuộc sống, nó là cho Hôm nay, không thể vươn tới Ngày mai. Ngày mai tôi nói tới, không phải là tương lai của Thời gian. Ngày mai tôi nói tới, không phải là năm 2990, không phải là một ngàn năm sau. Không phải điều đó. Bởi vì Cuộc sống là phân mảnh, là một bộ phận. Cuộc sống chỉ là một phần của bí ẩn toàn bộ của Thực Tại. Cuộc sống là hữu hạn, nhất thời. Khoảnh khắc này nó có đó, khoảng khắc tiếp nó mất rồi. Nó là làn gió thoảng, tới rồi đi… nó không tồn tại lâu. Do đó Khoa học và Triết học tưởng như biết nhiều, nhưng chỉ là chu vi, chỉ là bề mặt. Chỉ là cuộc đời của một con người, khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già đi, bệnh tật và chết. Nhưng cái chết nó không biết. Sau cái chết nó không biết. Nó chỉ biết về đại dương chỉ qua các con sóng và nó chưa bao giờ chìm sâu vào trong đó, và không biết cái vô hạn của đại dương. Cho nên Khoa học và Triết học nếu có tuyên bố rằng nó biết chân lí, thì điều đó là không đúng. Nó chỉ biết chân lí bộ phận, và tuyên bố cái bộ phận như cái toàn thể là một trong những điều ngớ ngẩn của cách tiếp cận khoa học. Điều nó biết là đúng, nhưng điều đó không phải là chân lí toàn thể.
Tôn giáo là tìm hiểu cả về cái chết, cả về sau cái chết. Đó là cái Ngày mai mà tôi nói tới. Sống và Chết, Hôm nay và Ngay mai,… là Thực Tại, là Toàn bộ.
Tôn giáo là tìm hiểu cả về cái chết. Cái chết chứa tất cả: cái chết chứa cuộc sống, cái chết chứa tình yêu, và cái gì đó còn hơn thế mà cả cuộc sống không chứa được nó mà tình yêu cũng không thể chứa được. Cái chết là việc tích luỹ của tất cả, là cao trào, là đỉnh cao nhất. Cuộc sống là cơ sở, cái chết là đỉnh cao, tình yêu nằm đâu đó ở giữa.
Tôn giáo dựa trên việc tìm kiếm vào cái chết, và hiểu cái chết là hiểu tất cả. Kinh nghiệm cái chết là kinh nghiệm tất cả, bởi vì trong kinh nghiệm về cái chết, con người không chỉ kinh nghiệm cuộc sống ở chỗ cao nhất của nó, tình yêu ở chỗ sâu nhất của nó. Trong việc kinh nghiệm cái chết con người đi vào trong điều thiêng liêng. Cái chết là cánh cửa đi tới điều thiêng liêng. Cái chết là tên của cánh cửa của ngôi đền của Thượng đế, là cánh cửa tới Niết bàn.
Nghệ thuật vì Tình yêu. Nghệ thuật làm bùng nổ thế giới của tình yêu. Tình yêu là khoảng giữa của Sống và Chết. Tình yêu chứa cuộc sống. Tình yêu bí ẩn hơn cuộc sống. Nghệ thuật là khoảng giữa, giữa của Sống và Chết, giữa của Hôm nay và Ngay mai. Vì trong Tình yêu đã có cả chết. Con người còn chưa sẵn sàng chết, người đó không thể biết yêu được; mặc dầu bằng việc chết người đó trở nên sống động hơn. Chính là qua cái chết mà tình yêu phục sinh bản thân nó, và lặp đi lặp lại. Chính là bằng việc biến mất mà nó xuất hiện đi xuất hiện lại. Nghệ thuật tham gia vào quá trình đó. Nghệ thuật nối Hôm nay và Ngày mai.
Xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những Tác giả và Dịch giả của các bài viết, bài nói mà chúng tôi đã sử dụng để làm tư liệu và cảm xúc để viết bài này; xin chân thành hồi hướng công đức nhỏ bé của mình tới Quý vi. Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Chứng minh sư Bồ Tát Ma ha tát
(https://tincaytinhyeu.wordpress.com/2013/05/10/ton-giao-nghe-thuat-triet-hoc-va-khoa-hoc/)
CƯ SĨ MINH ĐẠT
Thứ Sáu, 14 tháng 5, 2021
DƯỚI CHÂN THẦY
Dịch giả
BẠCH LIÊN
In lần thứ 11
(Có sửa chữa)
1957
DƯỚI CHÂN THẦY
Huấn lịnh của Đức Di Lạc:
“Hãy làm ra một quyển sách nhỏ đẹp đẽ để giới thiệu ... cho thế gian” .
Theo “Giảng lý quyển Dưới chân Thầy”
A. Besant & B. Leadbeater
ĐỀ THI
I
Không tham danh lợi khỏi ưu phiền,
Niệm chữ từ bi dứt nghiệp duyên.
Vớt kẻ trầm luân nơi khổ hải,
Noi theo tôn chỉ Hội Quần Tiên.
II
Phá đường mê tín vạch chông gai,
Khó nhọc dường bao dạ chẳng nài.
Đã nguyện thân phàm đem độ thế,
Bắt cầu cho kẻ đến Bồng Lai.
Bạch Liên
XIN DÂNG CHO NHỮNG NGƯỜI TẦM ĐẠO
Xin dắt tôi từ cõi giả đến cõi chơn,
Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi sáng suốt.
Xin dắt tôi từ cửa tử đến cõi Trường sanh Bất tử.
ANNIE BESANT
VÀI LỜI NÓI ĐẦU
Của Bà Annie Besant
Tôi được cái đặc quyền cũng như người chị cả, viết vài lời giới thiệu quyển sách nhỏ nầy, quyển đầu tiên của một đứa em còn thơ; song kỳ thật xác phàm em còn nhỏ chớ không phải linh hồn em nhỏ đâu.
Những lời giáo huấn trong đó vốn của Thầy em chỉ bảo trong khi Ngài huấn luyện cho em được điểm đạo. Em viết thuộc lòng mấy lời nầy song chậm chạp và khó khăn bởi vì năm ngoái em học tiếng Anh chưa giỏi như bây giờ .
Một phần lớn cuốn nầy vốn lập lại y nguyên lời của Thầy em đã nói, còn câu nào không phải lời của Ngài thì cũng là tư tưởng của Ngài do lời của em diễn ra.Có hai câu bỏ sót, Ngài chữa lại. Trong hai chỗ khác em có quên một chữ, Ngài thêm vô. Trừ ra bao nhiêu đó thì tác phẩm nầy hoàn toàn của Alcyone , ấy là món quà thứ nhứt của em đem hiến cho đời.
Cầu xin tác phẩm nầy giúp ích cho kẻ khác cũng như lời khẩu truyền đã giúp ích cho Alcyone vậy.
Bởi alcyone cũng mong mỏi như thế cho nên em mới đem truyền lại cho chúng ta.
Những lời giáo huấn nầy có hiệu quả là khi nào người ta ăn ở in như vậy; cũng như Alcyone từ khi Thầy dạy cho đến giờ em vẫn tuân theo luôn luôn. Nếu mà bắt chước gương nầy cũng như giữ vẹn những lời giới răn thì cửa Đạo mở rộng, độc giả sẽ bước vào đó cũng như tác giả đã bước vô rồi vậy.
ANNIE BESANT
TỰA
Mấy lời nầy chẳng phải của tôi, ấy là lời của Sư Phụ tôi đã dạy tôi. Không có Ngài thì tôi không làm cái chi đặng, nhờ Ngài giúp tôi mới được bước vào đường Đạo. Anh cũng vậy, anh muốn bước vào đường Đạo, thì những lời Sư Phụ tôi sẽ hữu ích cho anh nếu anh tuân theo. Nói rằng mấy lời đó chơn chánh và tốt đẹp thì chưa phải là đủ.
Người nào muốn thành công thì phải ăn ở in như lời chỉ giáo. Một người kia bụng đói xép ve dòm một món đồ ăn rồi nói ngon quá, thì có ích chi cho va đâu. Va phải thò tay lấy ăn. Cũng thế, nghe lời Thầy dạy chưa phải là đủ, phải thi hành những điều Ngài nói, chăm chỉ từng tiếng, từng dấu. Nếu mà không chú ý đến một dấu và bỏ qua một tiếng, thì dấu đó và tiếng đó mất biệt rồi, bởi vì Chơn Sư không nói hai lần.
Muốn bước vào đường Đạo phải có bốn đức tánh nầy:
- Một là PHÂN BIỆN (Le discernement)
- Hai là DỨT BỎ (đoạn tuyệt: Le détachement).
- Ba là HẠNH KIỂM TỐT (La bonne conduite).
- Bốn là: LÒNG TỪ ÁI (L’ amour)
Tôi rán nói cho bạn nghe những lời Sư Phụ tôi dạy tôi về mỗi đức tính ấy.
THIÊN THỨ NHỨT
---o0o---
TÁNH PHÂN BIỆN
(Le discernement)
Tánh phân biện chia ra làm năm khoản như sau nầy:
* Một là Những mục đích thật
(Le buts véritables).
* Hai là Cách sanh hoạt của ba thể: XÁC, VÍA, TRÍ
(La vie des corps).
* Ba là Điều lành và điều dữ
(Le bien et le mal)
* Bốn là Phải hết sức ngay thật
(Soit absolument vrai).
* Năm là Tình ái và thiên mạng
(Sự sống thiêng liêng: L’altruisme et la vie divine)
I - NHỮNG MỤC ĐÍCH THẬT
Đứng đầu trong bốn đức tánh là tánh phân biện. Thường thường người ta hiểu nghĩa phân biện đây là sự phân biện giữa sự chơn và sự giả, nó dắt con người vào đường Đạo. Hiểu như thế thật trúng, nhưng mà còn nhiều nữa và phải phân biện không những khi mới vào đường Đạo mà luôn mỗi ngày mỗi bước cho tới khi đắc đạo thành chánh quả.
Con bước vào đường Đạo bởi vì con biết rằng duy trong đó mới có những việc đáng thâu lãnh mà thôi.
Những người chưa hiểu biết, làm lụng đặng trở nên giàu sang và có quyền thế, nhưng hai cái tước lộc nầy dùng được lâu lắm thì bất quá là một đời mà thôi, bởi thế chúng nó là mộng ảo. Có nhiều việc lớn lao đáng tìm thấy hơn sự giàu sang và quyền thế, mấy việc chơn thật không hề hư hoại, một phen người ta thấy rồi thì không còn muốn điều gì khác nữa.
Trên thế gian nầy chỉ có hai hạng người: những người hiểu biết và những người chưa hiểu biết, mà chỉ có sự hiểu biết mới là quan hệ.
Con người giữ Đạo nào hay thuộc về giống dân nào là những việc không trọng hệ. Đều thật trọng hệ là sự hiểu biết đó, sự hiểu biết cơ Trời đối với con người. Bởi vì Trời có một cơ mà cơ đó là sự tấn hoá.
Chừng nào con người thấu rõ được Thiên cơ và khi thật biết rồi, thì con người chỉ lo hiệp tác với Thiên cơ, đồng hóa với Thiên cơ và giúp cho Thiên cơ được thực hiện mà thôi. Đó là sự vinh diệu và sự tốt đẹp của con người.
Ấy vậy, bởi con người hiểu biết rồi nên mới thuận theo lẽ Trời, khắn khắn một lòng làm lành và chống chỏi với sự ác, lo giúp cho muôn loài vạn vật tấn hóa chớ không phải vì tư lợi.
Người mà thuận theo lẽ Trời tức là một phe với chúng ta, dầu va nói va giữ Đạo Bà La Môn hay giữ Đạo Phật, giữ Đạo Thiên Chúa hay giữ Đạo Hồi Hồi, hoặc va nói va là người Thiên Trước hay là người Anh, người Trung Quốc hay là người Nga thì cũng không hại chi đó.
Những người nào biết thuận theo lẽ Trời thì biết rằng tại sao mình thuận theo như vậy; họ biết bổn phận mình phải làm cái chi và cố gắng hoàn thành công việc đó. Còn mấy người khác không biết họ phải làm điều chi, cho nên họ thường hành động như những kẻ ngông cuồng. Họ tìm những đường nào mà họ tưởng rằng con đường đó làm cho họ được vui vẻ, chớ không biết rằng “Vạn vật nhứt thể”, bởi vì cái chi Trời muốn, thì cái đó mới thật làm cho mọi người đều được đẹp lòng. Họ đeo đuổi sự mộng ảo, chớ không phải sự chơn thật và nếu ngày nào họ không học cách phân biệt hai việc ấy, thì ngày đó chưa thuận theo lẽ Trời. Bởi vậy sự phân biện là bước đầu tiên.
Nhưng vậy, dẫu khi chọn lựa rồi đi nữa, con cũng phải nhớ rằng sự chơn và sự giả chia ra làm nhiều thứ và con phải biết phân biệt cái lành với cái dữ, cái trọng hệ với không trọng hệ, cái hữu ích với cái vô ích, cái thực với cái hư, cái ích kỷ với cái vô tư lợi. Một bên lành, một bên dữ, có khó chi trong sự chọn lựa, bởi vì người nào muốn theo Chơn Sư thì phải nhứr định làm lành, dẫu thế nào cũng vậy.
II - CÁCH SANH HOẠT CỦA BA THỂ: XÁC, VÍA, TRÍ
1) - Cái xác (La vie des corps):
Tuy vậy mà con người và xác phàm của nó là hai cái khác nhau. Ý chí của con người luôn luôn không hạp với những sự ham muốn của xác phàm. Khi xác phàm muốn cái chi thì con hãy ngừng lại và suy nghĩ coi có phải thật là con muốn cái đó chăng? Bởi vì con là Đức Thượng Đế, con chỉ muốn điều nào của Đức Thượng Đế. Nhưng con phải xét thấu trong lòng con (hồi quang phản chiếu) đặng tìm Đức Thượng Đế và nghe lời Ngài. Lời Ngài tức là lời của con vậy.
Đừng lầm lẫn các thể của con là con. Cái xác phàm của con, cái vía của con, cái trí của con không phải là thật con đâu. Nhưng mỗi thể đó đều xưng là con đặng hoạch đắc những điều nó muốn.
Con phải hiểu chúng nó hết và con phải tự biết rằng con là chủ chúng nó. Khi có một việc phải làm thì cái xác phàm lại viện lẽ nó cần phải nghỉ ngơi, đi chơi bời, ăn uống. Người chưa hiểu biết nói trong lòng rằng: “Tôi cần làm mấy việc đó, nên tôi phải làm mới được”. Còn người hiểu biết thì nói: “Cái xác tôi nó muốn mấy việc đó chớ không phải là tôi đâu, nó phải đợi lịnh tôi mới đặng”. Thường thường nó có dịp giúp ai, thì cái xác phàm nói rằng: “Việc đó làm cho tôi bực mình quá! Vậy ai đó hãy làm thế cho tôi đi”. Mà con trả lời với xác phàm như vầy: “Ngươi ngăn cản ta làm một việc phải sao được”. Xác thân vốn là con thú của con, con ngựa của con cỡi. Bởi thế, phải đối đãi với nó cho tử tế và phải săn sóc cho nó kỹ lưỡng. Đừng bắt nó làm quá sức; phải nuôi nó cho đúng phép với những đồ ăn uống tinh khiết và giữ gìn cho nó thật sạch sẽ luôn luôn; đừng dung dưỡng một mảy bợn nhơ. Bởi vì, nếu không có xác thân tinh khiết và tráng kiện thì không thể nào con lo nổi công việc khó khăn trong lúc tập luyện, đặng bước vào đường Đạo, con sẽ không chịu nổi những sự cố gắng cần phải tái diễn mãi.
Vậy thì thân con phải vâng theo mạng lịnh của con sai khiến luôn luôn, chớ không phải con dưới quyền của nó.
2) - Cái vía (Corp Astral):
Cái vía của con có nhiều sự ước ao, đếm tới cả chục có đầu. Nó muốn thấy con giận hờn, nghe con nói tiếng nặng nề, nó muốn thấy con ganh gổ, tham lam, toan đoạt của thiên hạ và ngả lòng rủn chí. Nó muốn mấy điều đó và còn nhiều việc khác nữa. Không phải nó có ý hại con, song tại nó ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi liền liền.
Trong mấy việc đó, con không muốn việc nào cả. Bởi vậy, con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của cái vía.
3) - Cái trí (Corps mental):
Cái trí của con ưa thích thói kiêu căng, chia rẽ. Nó vẫn tự tôn, tự đại và coi thường kẻ khác.
Khi con buộc nó không ngó ngàng đến việc trần được rồi, thì nó rán gom hết về cho bản ngã của con; nó giục con chú ý tới sự tấn hóa riêng của con, chớ không lo nghĩ đến công việc của Chơn sư và giúp đỡ kẻ khác.
Khi con thiền định, nó rán giục con tưởng đến những chuyện khác mà nó cần dùng, phá hoại chuyện duy nhứt của con đương lo giải quyết đây. Con không phải là cái trí đó đâu; mà nó vẫn là một thể của con dùng. Vậy thì lúc nầy sự phân biện rất cần kíp; con phải giữ chừng luôn luôn, bằng không thì sẽ thất bại.
III - ĐIỀU LÀNH VÀ ĐIỀU DỮ (Le bien et le mal):
Khoa pháp môn không hề công nhận có sự thỏa hiệp giữa việc lành và việc dữ đâu. Dầu thế nào cũng phải làm việc lành, con không nên làm việc ác, để mặc tình kẻ dốt nói cái chi hay tưởng cái chi cũng được. Phải học hỏi cho sâu rộng những luật Trời còn ẩn tàng; chừng con biết rồi, con khá sắp đặt cuộc đời của con phù hạp với mấy luật đó và luôn luôn con phải dùng lý trí và lương tri. Phải phân biện việc trọng hệ với việc không trọng hệ.
Đối với sự lành và sự dữ thì lòng con phải cứng như đá; còn những việc ít trọng hệ thì khá nhường cho kẻ khác luôn luôn. Bởi vì con phải ở cho dễ thương, tử tế, biết xét nét và thuận hòa và để cho thiên hạ có quyền tự do bằng quyền tự do của con yêu cầu cho con vậy. Hãy tìm kiếm coi việc nào đáng làm và con phải nhớ rằng không nên coi theo giá trị bề ngoài của những việc mà xét đoán chúng nó.Thà làm một việc nhỏ mọn mà hữu ích liền cho công việc của Chơn Sư còn hay hơn làm một việc lớn lao mà thế gian gọi là tốt. Chẳng phải phân biệt cái nào hữu ích với cái nào vô ích là đủ, mà phải biết cái nào có ích nhiều với cái nào có ích ít.
Nuôi kẻ nghèo là một việc tốt, cao quí và hữu ích. Nhưng mà nuôi linh hồn mấy người đó lại còn cao quí và hữu ích hơn nữa Người nào giàu cũng nuôi xác thịt được hết mà duy có một mình người hiểu biết mới nuôi được linh hồn. Nếu con hiểu biết rồi thì bổn phận con phải giúp kẻ khác giác ngộ. Nhưng dầu con đã khôn ngoan thế mấy đi nữa, con cũng còn nhiều điều phải học hỏi trong đường Đạo.
Bây giờ đây còn thiếu chi điều con phải học hỏi. Vậy thì con phải phân biện và chọn lựa cho thật kỹ càng cái nào đáng ra công học hỏi. Sự hiểu biết nào cũng hữu ích và một ngày kia con sẽ biết đủ hết mọi việc. Mà khi nào con biết có một phần, thì con phải gìn giữ làm sao cho phần đó hữu ích hơn hết.
Đức Thượng Đế vốn minh triết và cũng là từ ái vô biên; hễ con được minh triết nhiều chừng nào thì Ngài càng dễ hiện ra nhiều chừng nấy. Vậy thì con phải học hỏi, nhưng mà trước hết con tua học hỏi món nào để giúp cho con hữu ích với thiên hạ hơn hết. Phải bền lòng chăm chú vào sự học hỏi của con, không phải đặng cho kẻ khác tưởng con là khôn ngoan, mà cũng không phải ý muốn được hưởng hạnh phúc của sự khôn ngoan, nhưng mà bởi người khôn ngoan mới có thể giúp đời một cách khôn khéo. Dầøu con có chí lớn giúp đời thế mấy đi nữa nếu con dốt nát thì chắc sao con cũng sẽ làm hại nhiều hơn làm lợi.
IV - PHẢI HẾT SỨC NGAY THẬT
(Sois absolument vrai)
Phải biết phân biệt sự chơn với sự giả, phải tập làm sao cho hết sức chơn chánh trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Thứ nhứt là trong tư tưởng. Cái nầy không phải dễ đâu, vì trong đời nầy có biết bao nhiêu tư tưởng lầm lạc, biết bao nhiêu sự dị đoan, phi lý, hễ người nào để cho chúng nó chi phối thì không bao giờ tấn hóa được. Bởi vậy cho nên chẳng vội gọi một ý kiến nào là chơn chánh bởi vì tại nhiều người đã cho nó là chơn chánh, hay là tại thiên hạ đã xét đoán nó mấy thời đại rồi, hoặc là thấy nó ở trong một cuốn sách thuộc về loại sách Thánh. Con phải dùng sự xét đoán riêng của con và con phải tự thấy ý kiến đó có hữu lý không. Con hãy nhớ rằng dầu cho cả ngàn người đồng công nhận việc kia đi nữa, nhưng mà nếu họ không biết cái chi trong đó hết, thì ý kiến của họ vẫn vô giá trị.
Người nào muốn bước trên đường Đạo, thì phải tập tự mình tư tưởng, bởi vì thói dị đoan là một trong những tai hại lớn hơn hết trên thế gian; một trong những chướng ngại phải hoàn toàn giải thoát mới được.
Điều nào con suy nghĩ cho thiên hạ cũng phải chơn thật. Con không nên nghĩ cho kẻ khác điều nào mà con không biết rõ: “Quả có thật”. Con đừng tưởng tượng rằng thiên hạ tưởng tới con luôn luôn. Nếu một người kia làm một việc gì mà con ngỡ là có hại cho con, hay là nói chuyện nào dường như có can hệ tới con thì con chớ vội nghi rằng: “Người đó có ý nhục mạ tôi”. Có lẽ, đúng hơn là người đó không tưởng đến con chút nào, bởi vì mỗi linh hồn đều có việc lo lắng riêng và thường thường chỉ lo cho riêng mình mà thôi. Nếu có một người nào đó nói với con giọng quạu quọ thì con chớ nói rằng: “Người đó ghét tôi và muốn lăng nhục tôi”. Có lẽ thật, tại một người nào đó hay một việc gì đó làm cho va giận và bởi tại va gặp con, nên va mắng xối con cho đã nư giận. Người đó làm chuyện điên cuồng, bởi vì sự giận hờn nào cũng là sự điên cuồng cả; nhưng không phải vì cớ đó mà nghi quấy cho va. Chừng nào con làm đệ tử của Chơn Sư rồi, con có thể thấy được tư tưởng của con chơn chánh hay không, khi con so sánh với tư tưởng của Ngài. Bởi vì Thầy với trò vẫn “hiệp nhứt”, miễn trò đem tư tưởng của trò nó kề với tư tưởng Thầy thì nó sẽ thấy hai tư tưởng có phù hạp với nhau hay không . Như không, thì tư tưởng của trò đã sai lầm; phải sửa đổi lập tức vì tư tưởng của Chơn Sư vốn trọn lành, bởi Ngài thông hiểu hết mọi việc. Những người nào chưa được Ngài thâu nhận làm đệ tử chánh thức thì không thể làm như vậy, song nếu họ thường tự hỏi như vầy thì họ sẽ được nâng đỡ nhiều lắm: “Thầy sẽ tưởng việc nầy làm sao? Gặp trường hợp nầy, Thầy sẽ nói hay sẽ làm thế nào? Bởi vì không nên làm, nói, hay tưởng, điều nào mà theo ý mình, Thầy không làm, không nói hay không tưởng như thế được”.
Lời nói phải cho ngay thật, chính chắn và đừng quá lố. Chớ nên nghi người khác cố ý muốn cái nầy, cái kia, duy có một mình Thầy họ biết tư tưởng của họ mà thôi. Không biết chừng người đó làm như vậy là tại duyên cớ gì đó mà con không biết được. Khi con nghe một câu chuyện nào có hại cho kẻ khác thì đừng lập lại câu chuyện đó. Có lẽ câu chuyện đó không có thật, mà dẫu có thật đi nữa, đừng nói đến mới là nhơn từ hơn. Trước khi nói, con phải suy nghĩ cho kỹ lưỡng, vì e không đúng với sự thật. Phải thành thật trong việc làm: đừng kiếm thế khoe khoang điều nào mà con không có, bởi vì sự giả trá ngăn cản cái tinh quang của chơn lý, tinh quang nầy phải soi thấu lòng con, cũng như ánh sáng mặt trời giọi ngang qua tấm kính trong trẻo vậy.
V - TÌNH BÁC ÁI VÀ THIÊN MẠNG CHƠN THẦN ĐỨC THƯỢNG ĐẾ
L’attruisme et la vie divine
Phải phân biện điều nào là ích kỷ với điều nào không ích kỷ, bởi vì sự ích kỷ có nhiều hình trạng lắm. Khi con tưởng trừ được tật ích kỷ trong một hình trạng nào rồi, thì nó lại nảy sanh ra trong một hình trạng khác cũng mạnh bạo như trước vậy. Nhưng lần lần sự lo giúp đỡ kẻ khác choán cả lòng con cho đến đỗi trong trí con không còn chỗ nào và giờ phút nào tưởng tới con nữa. Con còn phải phân biện một cách khác nữa: Phải tập phân biện Đức Thượng Đế trong mình các loài vật,
______________
Tôi tưởng dịch là Chơn Thần Đức Thượng Đế dễ hiểu hơn.
Dầu chúng nó thật xấu xa hay là coi bộ xấu xa cũng vậy.
Con cũng có thể giúp đồng bào con luôn luôn là nhờ con với họ trong mình đồng chung có Chơn Thần của Đức Thượng Đế. Con hãy học hỏi cách thức tỉnh chơn thần đó trong người họ. Như vậy con mới cứu họ khỏi bị tai hại.
THIÊN THỨ NHÌ
---O0O---
TÁNH DỨT BỎ (ĐOẠN TUYỆT: Le détachement)
Tánh dứt bỏ hay đoạn tuyệt, chia ra làm năm khoản:
* Một là Dứt tuyệt sự ham muốn (La suppression du désir)
* Hai là Chỉ có một điều ham muốn tốt hơn hết. (Le seul bon désir).
* Ba là Những phép thần thông (Les pouvoirs psychiques)
* Bốn là Những sự ham muốn nhỏ nhen (Les petitesenvies)
* Năm là Hãy lo lắng việc nào có can hệ với mình (Occupez vous de ce qui vous regarde)
I - DỨT TUYỆT SỰ DỤC VỌNG (La suppression du désir)
Đối với nhiều người thì dứt bỏ là một tánh tốt khó tập được, bởi vì mấy người đó tưởng rằng những điều ham muốn làm ra thân thể họ và nếu những điều ham muốn riêng, những thiện cảm và những không thiện cảm của họ dứt hết rồi, thì họ không còn cái chi cả. Nhưng mấy người đó chưa gặp Chơn Sư, chớ một khi đứng trước Thánh dung thì các sự ham muốn nào cũng tan mất hết, trừ ra muốn sao được như Ngài vậy thôi. Nhưng trước khi có hạnh phúc đối diện với Ngài, nếu con có thật chí quyết thì con có thể tập tánh dứt bỏ được.
Tánh phân biện dạy rằng: những chuyện của phần đông con người tham muốn quá lẽ như là của cải, quyền thế, thì không đáng nhọc công thọ lãnh chút nào. Song khi nào thật hiểu tại làm sao vậy, chớ không phải nói ra mà thôi, thì hết ước ao mấy điều ấy nữa.
II - CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU HAM MUỐN TỐT NHẤT (La seul bon désir)
Tới đây cả thảy đều dễ, miễn là hiểu thì đủ rồi. Nhưng có vài người không chịu đeo đuổi mục đích trần tục, cốt để về thiên đường hay đặng riêng mình thoát khỏi đọa luân hồi. Con đừng phạm lỗi đó.
Nếu con đã thật quên mình rồi, thì con đâu còn nhớ hỏi lấy con chừng nào linh hồn con mới giải thoát, hay là tới đây nó sẽ về cảnh Trời nào. Con hãy nhớ rằng mỗi việc ham muốn ích kỷ, dầu mục đích cao thượng thế mấy đi nữa cũng là một sợi dây xiềng và ngày nào con không diệt hết các điều ham muốn, thì ngày đó con chưa thật rảnh rang đặng lo lắng công việc của Chơn Sư đâu.
Khi những việc ham muốn thuộc về phàm nhơn của con tiêu mất rồi, cũng có thể còn một sự ham muốn là thấy được kết quả của công việc con làm. Nếu con giúp ai thì con muốn biết con giúp người đó tới bực nào, có lẽ con cũng muốn cho người đó biết rằng con đã giúp và biết ơn con nữa. Mà cái nầy vẫn là một điều ham muốn và cũng gọi là chẳng có lòng tin cậy
Khi con ra sức giúp thì tự nhiên có kết quả, dẫu con thấy hay không thấy cũng vậy. Con thao luật Trời thì con biết rằng phải có như thế luôn luôn. Vậy thì phải làm lành bởi vì ưa mến việc lành, chớ chẳng phải trông mong được ban thưởng. Phải làm lụng bởi vì ưa mến sự làm lụng, chớ chẳng phải trông mong thấy kết quả. Con phải xả thân giúp đời vì con thương đời và bởi tại con không còn làm cách thế nào khác nữa được.
III - NHỮNG PHÉP THẦN THÔNG (Les pouvoirs psychiques)
Con đừng ham những phép thần thông. Con sẽ có, khi Chơn Sư xét đã đúng ngày giờ. Hễ cưỡng bách luyện tập đặng mở mấy phép đó thì thường mang đủ thứ phiền não. Người nào có những phép ấy thì hằng bị bọn tinh quái gạt gẫm, hay là trổ tánh khoe khoan và tưởng rằng mình không lầm lạc. Dầu thế nào, ngày giờ và sức lực tổn phí để luyện mấy phép đó, nên để giúp đời còn hay hơn. Trong khi con mở mang các tánh tốt thì tự nhiên con sẽ có các phép ấy. Bề nào cũng có. Nếu Chơn Sư thấy các phép ấy hữu ích cho con sớm một chút thì Ngài sẽ chỉ cách cho con luyện tập khỏi sợ bị hại chi hết. Từ đây tới đó, tốt hơn là con đừng có mấy phép ấy.
IV - NHỮNG SỰ HAM MUỐN NHỎ NHEN (Les petites envies)
Hãy giữ lòng đừng ham muốn những việc nhỏ mọn thường xảy ra trong đời sống hằng ngày. Chớ nên có ý khoe mình hay tỏ dấu thông minh. Đừng ham nói, nói ít thì tốt, không nói cái chi lại càng quí hơn nữa, trừ ra khi nào chắc rằng những điều muốn nói ra: chơn chánh, dễ thương và hữu ích. Trước khi nói, con hãy tự hỏi con, coi điều con muốn nói nó có đủ ba đức tánh đó không; như không đủ phải làm thinh.
Bây giờ đây tốt hơn là tập tánh suy nghĩ cho kỹ lưỡng trước khi nói: bởi vì khi con được điểm Đạo rồi, con phải giữ gìn từ lời nói, vì sợ e không được kín miệng.
Đừng ham nói chuyện tầm phào vô vị. Nó làm mất ngày giờ và không ích lợi vào đâu cả. Nếu kéo ra chuyện nói hành thiên hạ thì thành ra chuyện hung ác.
Vậy con tập cho quen tánh “nghe” hơn là “nói”, nếu người ta không cần hỏi ý kiến của con thì con đừng tỏ ra. Có một câu gồm hết các đức tánh phải tập là: “Trí, Cảm, Nguyện, Mặc” (nghĩa là: phải hiểu biết, phải gan dạ, phải chí quyết và phải nín thinh: Savoir, oser, vouloir, se taire). Mà cái đức tánh chót, nín thinh là khó hơn hết.
V - HÃY LO LẮNG VIỆC NÀO CÓ CAN HỆ ĐẾN MÌNH (Occupez vous de ce qui vous regarde)
Còn một sự ham muốn thông thường, phải bài trừ một cách nghiêm khắc là xen vào công chuyện thiên hạ. Cái điều nào người khác làm đặng, nói đặng hay tin đặng, thì không ăn nhập chi với con, con hãy tập quen tánh để cho va làm một mình va, trọn vẹn theo ý va muốn. Ngày nào va không dự vào chuyện thiên hạ, thì ngày đó va còn quyền tư tưởng, nói năng và hành động tự do. Con đây cũng vậy, con yêu cầu đặng quyền tự do làm cái chi mà con tưởng rằng tốt, vậy thì con cũng phải để cho kẻ khác được tự do như con vậy; và nếu người ta dùng quyền tự do của người ta, thì con không đặng phép nào kích bác. Nếu con tưởng rằng va làm quấy và như gặp dịp tỏ riêng với va thì con phải nói cho có lễ phép hết sức vì cớ nào con không đồng ý với va. Có lẽ con làm cho va tin được, nhưng mà có nhiều trường hợp khi can thiệp như thế cũng còn không phải cách nữa. Dầu thế nào, con cũng đừng đem chuyện đó nói với người khác, vì làm như vậy thật quấy lắm.
Nếu con thấy ai làm hung ác với một đứa con nít hay một con thú vật, thì bổn phận con phải ngăn cản. Nếu con thấy ai làm nghịch với phép nước thì con phải tố cáo với nhà chức trách. Nếu con lãnh phần giáo hóa người nào, thì bổn phận con phải chỉ cho va biết lỗi của va một cách êm ái. Trừ ra mấy lẽ nói trên đây, thì con phải lo việc riêng của con và tập tánh làm thinh.
THIÊN THỨ BA
---0O0 ---
HẠNH KIỂM TỐT (La bonne conduite)
Chơn Sư kể sáu điểm thuộc về hạnh kiểm tốt, buộc phải có như sau nầy:
* Một là Tự chủ trong khi tư tưởng
(La Maitrise de soi quant au mental)
* Hai là Tự chủ trong lúc hành động
(La Maitrise de soi dans l’action)
* Ba là Đức khoan dung (La tolérance)
* Bốn là An phận (le contentement)
* Năm là Đi thẳng một đường tới mục đích (Unité de direction vers le but)
* Sáu là Lòng tin cậy (La cofiance)
(Tôi vẫn biết có chỗ dịch tên vài khoản tôi mới kể ra đây khác hơn tôi và cũng dịch khác các đức tánh buộc phải có nữa. Nhưng tôi luôn luôn lấy những tên mà Chơn Sư dùng trong lúc Ngài cắt nghĩa cho tôi nghe)
I - TỰ CHỦ TRONG KHI TƯ TƯỞNG
Tánh dứt bỏ dạy phải thống trị cái vía, mà cũng phải làm chủ cái trí nữa. Cái nầy nghĩa là: Dằn cái tánh làm sao đừng giận hờn hay nóng nảy; chế phục cái trí thế nào cho tư tưởng yên tịnh và thanh bạch luôn luôn; và dùng cái trí trấn áp mấy dây thần kinh đặng chúng nó ít nhức nhối chừng nào tốt chừng ấy. Điểm sau chót hết khó làm được, bởi vì khi con tập luyện đặng bước vào đường Đạo thì con chẳng có thể nào ngăn cản thân con không cho nó cảm giác hơn khi trước đặng; vì vậy mỗi tiếng hay mỗi lần đụng chạm đều làm cho mấy dây thần kinh của con rung chuyển dễ dàng, và dầu bị một vít nhẹ đi nữa, chúng nó cũng làm cho con đau đớn nhức nhối vô cùng. Song con hãy rán làm sao được thì làm.
Cái trí yên tịnh rồi thì mới có gan dạ đặng chống chỏi với những cách thử lòng và những sự khó khăn trong đường Đạo mà không nao núng; mới bền lòng chịu đựng dễ dàng những chuyện buồn bực thường ngày và tránh khỏi những sự lo lắng không ngớt những việc nhỏ mọn, nó làm cho nhiều người mất hết ngày giờ.
Chơn Sư dạy rằng: “Con người phải coi những việc bên ngoài xảy đến cho mình, như là sầu não, những chuyện khó khăn, bịnh tật cùng là những việc hao tổn đều không có quan hệ chi cả; phải coi chúng nó chẳng ra chi và đừng để cho chúng nó làm rối trí.
Chúng nó là cái kết quả những việc làm hồi trước, chừng chúng nó đến thì phải vui lòng lãnh lấy. Con hãy nhớ rằng: mọi việc khổ não trên thế gian nầy đều là tạm thời, bổn phận con phải vui vẻ và giữ lòng thanh tịnh luôn luôn.
Những việc đó thuộc về mấy kiếp trước của con chớ không phải kiếp nầy; con không thể sửa đổi cái gì đặng, bận lòng vì chúng nó tất vô ích. Tốt hơn hết là hãy nghĩ đến những việc làm của con làm bây giờ đây, chúng nó định phần số kiếp sau của con, con có thể sửa đổi chúng nó được.
Đừng buồn bực hay rủn chí. Thói rủn chí rất xấu xa, bởi vì nó làm nhiễm những kẻ khác và làm cho đời sống của họ khó khăn; con không phép làm điều đó đâu. Con phải xua đuổi nó đi xa coi lần con biết nó đến. Con còn phải làm chủ tư tưởng con một cách khác nữa: đừng cho nó vởn vơ. Bất kỳ việc nào của con làm, con cũng phải chú ý vào đó đặng làm cho hoàn thiện. Chẳng nên để trí con ở không; con phải có sẵn nhiều tư tưởng tốt đẹp đặng khi nào cái trí con không lo cái chi hết thì con nhớ tới chúng nó liền. Mỗi ngày con hãy dùng trí lực của con đặng làm những công việc tốt lành.
Hãy hình thành một lực lượng hướng về sự tấn hóa. Mỗi ngày con hãy nhớ đến một người nào mà con biết đang buồn bực hay đau đớn cùng là cần sự giúp đỡ, con hãy rải những tư tưởng yêu thương cho va. Con đừng có tư tưởng kiêu căng vì sự kiêu căng luôn luôn ở trong sự dốt nát sanh ra.
Người chưa hiểu biết, tưởng là mình lớn và làm được việc lớn lao nào đó; người khôn ngoan biết rằng duy có một mình Thượng Đế là lớn và việc lành nào cũng đều là Thượng Đế làm cả.
II - TỰ CHỦ TRONG LÚC HÀNH ĐỘNG (La Maitrise de soi dans l’action)
Chừng nào tư tưởng của con thật đúng đắn rồi thì con hành động rất dễ dàng. Nhưng con hãy nhớ rằng: muốn giúp đời thì tư tưởng phải biểu diễn ra hành động. Không được biếng nhác, phải cần mẫn làm việc hữu ích luôn luôn. Phải làm việc chi thuộc về bổn phận của con chớ không phải thuộc về bổn phận của người khác, trừ ra khi nào người đó cho phép và ý con muốn giúp đỡ va.
Hãy để cho mỗi người làm công việc riêng của mình theo ý mình muốn. Nếu cần thì con hãy sẵn lòng giúp đỡ, nhưng con đừng xen vào việc của thiên hạ. Đối với nhiều người, thì ở trong đời chuyện khó hơn hết là sự tập lo lắng công việc riêng của mình. Mà thật vậy, đó chính là điều con phải làm.
Bởi con tập làm thử một công việc cao thượng, thì con không nên vì cớ đó mà bỏ phế công việc thường ngày của con; nếu con làm mấy chuyện nầy không rồi, thì con đâu có rảnh rang đặng làm chuyện khác.
Đối với đời thì con đừng nhận lãnh những nghĩa vụ nào mới cả, mà những công việc của con đang đảm đương thì con phải làm cho hoàn thiện. Thầy muốn nói những nghĩa vụ mà con biết rằng chính chắn và hữu lý chớ không phải nghĩa vụ của mấy kẻ khác tưởng tượng và rán kiếm thế buộc con thi hành đâu. Nếu muốn một ngày kia được Chơn Sư thâu làm đệ tử thì phải làm công việc thường ngày giỏi hơn mấy kẻ khác, chớ không phải tệ hơn, bởi vì việc của con làm nhơn danh Ngài.
III - ĐỨC KHOAN DUNG (La tolérance)
Phải hết lòng khoan dung cho mọi người và thật tình kính trọng những tín ngưỡng của kẻ khác như những tín ngưỡng của con vậy. Bởi vì Đạo của họ giữ hay là Đạo của con giữ cũng là một con đường dắt đi thẳng tới Đức Thượng Đế. Muốn giúp tất cả mọi người thì phải thông hiểu hết mọi việc.
Nhưng mà muốn thật hết lòng khoan dung, thì trước nhứt con phải tự giải thoát thói mê tín và tin dị đoan. Phải hiểu rằng chẳng có lễ bái nào cần thiết cả, bằng không thì con tưởng rằng con giỏi hơn mấy người nào không hành lễ. Nhưng con cũng đừng chê trách những người nào còn ưa mến lễ bái. Họ muốn làm gì thì làm, nhưng họ cũng phải để cho con tự do, vì con đã biết chơn lý rồi. Người ta không nên dùng cường lực ép con phải trở lại chỗ con đã đi qua khỏi. Trong mọi việc con phải khoan dung tử tế. Bây giờ con đã thông hiểu, thì có vài điều tín ngưỡng, vài cách lễ bái của con hồi trước kia dường như phi lý lắm vậy. Có lẽ mấy việc đó phi lý thật. Dẫu rằng bây giờ con không thể dự vào mấy cuộc ấy nữa, con cũng phải kính trọng vậy, bởi vì lòng con thương xót mấy kẻ thật thà còn cho việc lễ bái quan trọng lắm. Mấy cuộc lễ bái ấy có chỗ dùng và cũng có ích. Nó giống như những hàng đôi để giúp con hồi nhỏ viết cho đều đặn và ngay thẳng, cho tới khi nào con viết tốt và dễ dàng rồi, con sẽ không nhờ đến chúng nó giúp nữa. Hồi trước có một lúc con cần dùng chúng nó mà bây giờ đây thời kỳ ấy đã qua rồi.
Một ngày kia, có một vị đại Giáo Chủ đã viết một câu như vầy: “Hồi tôi còn nhỏ, tôi nói theo lối trẻ con, tôi tưởng theo thói trẻ con. Tới chừng tôi trở nên người, tôi bỏ hết các thói trẻ con”.
Nhưng, người nào quên lúc tuổi thơ của mình và không có thiện cảm với mấy đứa trẻ thì không thể nào dạy dỗ và giúp đỡ chúng nó được. Phải đối với mọi người cho tử tế, hiền hậu, độ lượng khoan hồng và coi ai nấy cũng như nhau, dầu họ là người Phật Giáo hay là người Ấn Giáo, người Gianh (Hỏa Thần Giáo) hay là người Do Thái Giáo, người Thiên Chúa Giáo, hoặc Hồi Giáo cũng vậy.
IV - AN PHẬN (Le cotentement)
Phải vui lòng trả quả của con, dầu cách nào cũng vậy. Phải nhận lãnh sự đau đớn khổ sở như một vinh diệu vì nó chứng rằng Đức Nam Tào, Bắc Đẩu thấy con đáng giúp đỡ. Dầu quả báo của con nặng nề thế mấy đi nữa, con cũng phải cám ơn các Đấng Chí Tôn không cho con trả nhiều hơn cái đó. Hãy nhớ rằng: Ngày nào quả xấu của con chưa tiêu và con chưa giải thoát được nó, thì ngày đó con chưa giúp ích cho Thầy bao nhiêu. Khi con hiến thân cho Thầy thì con xin nhồi quả cho con đặng làm sao trong một hai kiếp con trả sạch nhân quả của con; không vậy thì cả trăm kiếp nữa con trả mới hết. Nếu muốn lợi dụng cách trả quả báo ấy, thì con phải bằng lòng nhận lãnh nó một cách vui vẻ. Còn một điểm khác nữa: hãy diệt ý muốn bảo thủ những cái chi thuộc về quyền sở hữu của con.
Có lẽ nhân quả làm cho con mất những vật mà con quí chuộng hơn hết hoặc là những người con yêu mến hơn hết. Vậy thì con phải sẵn sàng vui lòng chia lìa bất cứ người nào hay vật nào. Thường thường Chơn Sư cần dùng học trò làm trung gian đặng sang thần lực cho kẻ khác. Nếu trò ngả lòng rủn chí thì Thầy không làm chi đặng. Bởi vậy phải có tánh an phận.
V - ĐI THẲNG MỘT ĐƯỜNG TỚI MỤC ĐÍCH (Unité de direction vers le but)
Có một việc con phải nhớ mãi là làm công việc của Chơn Sư. Dầu cho có chuyện nào tới cho con đi nữa con cũng đừng quên công việc đó. Kỳ thật, không có việc gì khác tới được… Về các công việc hữu ích và vô tư lợi đều là công việc của Chơn Sư; và con phải làm cho Ngài.
Phải hết sức chăm chỉ vào mỗi phần việc con làm, đặng cho khéo léo. Vị đại Giáo Chủ hồi nảy có viết câu nầy:
“Dầu làm việc chi cũng vậy, con phải vui lòng mà làm, bởi vì làm đó cũng như làm cho Đức Thượng Đế chớ không phải làm cho con người”.
Con phải tự hỏi con phải làm công việc thế nào nếu con biết chút nữa Chơn Sư sẽ đến xem coi. Con phải nghĩ như thế đặng làm cho trọn công việc của con. Những người khôn ngoan hơn hết mới hiểu thật hết nghĩa đoạn nầy. Nhưng còn một đoạn nầy xưa hơn đoạn trước nữa song cũng là một nghĩa:
“Dẫu tay con làm việc nào cũng vậy, con cũng phải hết sức chú ý vào đó”.
Đi thẳng một đường tới mục đích, cũng có nghĩa là khi con bước vào đường Đạo rồi thì không có chi làm cho con lìa bỏ Đạo được. Dầu là trong giây phút thôi.
Không nên để những sự cám dỗ, những cuộc vui vẻ của thế gian, những sự mến yêu dưới hồng trần làm cho con lạc bước. Bởi vì con với Đạo phải nhập lại làm một mà thôi. Phải làm sao đạt tới quan điểm đó, Đạo tức là con. Con bước trên đường Đạo mà không cần tưởng tới Đạo mà con cũng không bao giờ rời Đạo được nữa. Con là Chơn Thần, con đã nhứt quyết như vậy. Nếu con lìa Đạo tức là con chia lìa con ra.
VI - LÒNG TIN CẬY (La confiance)
Con phải có đức tin vào Chơn Sư mà con cũng phải tự tin con nữa. Nếu con thấy Ngài rồi thì dầu đầu thai mấy kiếp đi nữa, con cũng hết lòng tin cậy Ngài luôn luôn. Như con chưa thấy Ngài thì ít nữa con cũng rán tưởng Ngài và hằng tin Ngài, bằng không vậy, Ngài không thể giúp con được. Vì nếu con chẳng đặt hết đức tin thì từ ái và thần lực không thể truyền sang qua hết cho con được. Con phải tự tín nữa. Con nói rằng con biết con lắm nên con chắc ý. Nhưng nếu đó là tánh tình của con thì con chưa tự biết con đâu. Con chỉ biết cái vỏ ở ngoài thường vấy bùn lấm. Còn con, thật con là một điểm linh quang của Thượng Đế, bởi vậy Đức Thượng Đế pháp lực vô biên ở trong mình con. Vì cớ đó nếu con thật có chí khí thì không có chuyện nào mà con không làm được.
Con hãy tự hỏi như vầy: “Cái điều nào con người đã làm rồi thì con người làm lại được. Tôi là con người mà tôi cũng là Đức Thượng Đế ở trong tôi nữa. Tôi có thể làm đặng một việc nào đó và tôi quyết thật hành nó”.
Nếu con muốn bước vào đường Đạo thì ý chí của con phải cứng cỏi như thép đã trui vậy.
THIÊN THỨ TƯ
---000---
LÒNG TỪ ÁI (L’amour)
Lòng từ ái chia ra làm sáu điểm:
* Một là Thoát kiếp luân hồi (La libération).
* Hai là Lòng từ ái trong sự sanh hoạt hằng ngày (L’amour dans la vie quotidienne).
* Ba là Nói chuyện hành (La médisance).
* Bốn là Sự hung ác (La cruauté).
* Năm là Thói dị đoan (La superstition)
* Sáu là Phụng sự (Le ser-vice).
I - THOÁT KIẾP LUÂN HỒI (La libération)
Trong mấy đức tánh buộc phải có, thì lòng từ ái trọng hệ hơn hết: bởi vì nó mạnh mẽ thì nó khuất phục mấy tánh kia, mà nếu có mấy tánh tốt khác mà không có lòng thương yêu thì chẳng đủ vào đâu.
Người ta thường giải thích rằng có lòng thương yêu cao cả là ý muốn nhiệt liệt thoát khỏi vòng sanh tử và được “phản bổn huờn nguyên” Song giải thích như thế thì xen tánh ích kỷ vào và cắt nghĩa chỉ có một phần. Còn hơn là ý muốn, ấy là ý chí, sự quyết định.
Muốn có hiệu lực thì sự quyết định nầy phải thấm nhuần lòng con cho tới chừng nào không còn chỗ chứa một tình ý nào khác nữa.
Nói cho đúng thì sự quyết chí hiệp nhứt với Thượng Đế (phản bổn huờn nguyên) không phải để tránh sự mệt nhọc và khổ não, nhưng mà để phụng sự Đức Thượng Đế và làm in như Ngài vậy, vì lòng con rất yêu kính Ngài. Đức Thượng Đế vốn đại từ bi, vậy con muốn hiệp nhứt với Ngài thì con phải thật hết sức nhơn từ và chẳng hề có một chút gì tư lợi.
II - LÒNG TỪ ÁI TRONG SỰ SANH HOẠT HẰNG NGÀY (L’amour dans la vie quotidienne)
Trong sự sanh hoạt hằng ngày thì lòng từ ái có hai nghĩa: một là phải tránh cho khéo, đừng làm cho sanh vật đau đớn; hai là phải lừa dịp giúp đỡ.
Trước hết đừng làm cho đau khổ. Trên đời, có ba tội làm hại hơn mọi việc:
* Tội thứ nhứt là Chuyện nói hành.
* Tội thứ hai là Điều hung ác.
* Tội thứ ba là Thói dị đoan.
Ấy là những tội nghịch với lòng từ ái. Người nào muốn tấm lòng chan chứa tình thương Đức Thượng Đế, thì phải tránh ba tội đó luôn luôn.
III - SỰ NÓI HÀNH (La médisance)
Con hãy xem coi sự nói hành làm hại là thế nào. Trước hết nó sanh các tư tưởng xấu, đó là một trọng tội rồi; bởi vì trong mỗi người và mỗi vật đều có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta có thể tăng sức cho sự tốt hay sự xấu khi ta tưởng tới chúng nó và làm như vậy ta có thể thúc giục hay làm chậm trễ sự tiến hóa. Chúng ta có thể vâng lời Thượng Đế hay chống lại Ngài.
Nếu con nghĩ đến điều xấu của người khác thì con làm ba điều quấy một lượt:
- Một là con sanh sản chung quanh chỗ con ở những tư tưởng xấu xa, chớ không phải tư tưởng tốt lành. Vậy là con thêm điều khổ não cho đời.
- Hai là nếu người đó thật có tánh xấu xa, thì con bồi dưỡng tánh xấu đó và thêm sức cho nó. Vậy thì con làm cho người đó trở nên tồi tệ thêm chớ không phải trở nên tốt. Thường thường người đó không có tánh xấu đó, tại con tưởng tượng đó thôi; con làm như thế thì tư tưởng xấu của con đưa đến xúi giục va làm quấy. Nếu va chưa trọn lành thì con sẽ làm cho va thực hiện điều xấu giống in như ý tưởng của con vậy.
- Ba là con để những tư tưởng xấu sanh sản trong trí, chính con làm trì hoãn sự tiến hóa của con và phô bày trước người có mắt thánh những hình ảnh xấu xa buồn bực, chớ không phải đẹp đẽ, vui tươi.
Kẻ nói hành đã làm hại cho bản thân mình và người bị nói hành. Nhưng họ chưa vừa lòng, họ còn rán hết sức kiếm thế nầy thế kia, quyến rũ người khác vô, chia sớt tội lỗi với họ. Họ lật đật đem chuyện hung dữ của họ nói cho mấy người khác nghe để cho họ tin. Rồi cả thảy xúm nhau rải một dọc tư tưởng xấu vào trí của người bị nói hành. Ngày nầy qua ngày khác, cả ngàn người làm như vậy, chớ không phải chỉ một người thôi đâu. Bây giờ con bắt đầu thấy chuyện nói hành xấu xa và gớm ghiếc thế nào chăng ? Con chớ bao giờ phạm tội ấy. Con đừng nói xấu ai, con cũng đừng nghe người ta nói việc xấu của người khác. Và, hãy bảo cho người ta biết một cách êm ái như vầy: “Có lẽ việc đó không có thật, mà dầu có thật cũng đừng nói đến mới thiệt có lòng nhơn hơn nữa”.
IV - ĐIỀU HUNG ÁC (La cruauté)
Về sự hung ác thì có thể có hai thứ: một là cố ý, hai là vô tình. Cố ý ác là nhứt định làm cho sinh vật đau đớn. Tội nầy lớn hơn hết, trong các tội đáng lẽ của bọn quỉ ma làm, chớ không phải của con người làm đâu. Con cho rằng có lẽ con người không làm như vậy được, nhưng mà có nhiều người đã thường làm ác và mỗi ngày họ lại càng làm thêm nữa. Những vị pháp quan của tòa án tôn giáo thuở xưa làm ác. Biết bao nhiêu người nhơn danh đạo mình mà làm ác! Những người giải phẩu sanh thể (mổ xẻ thú vật còn sống để thực nghiệm môn sinh lý học) đã làm ác; Nhiều vị giáo chức có thói quen làm ác lắm. Mấy vị đó kiếm cách bào chữa tánh tàn nhẫn của mình bằng cách nói rằng: “Cái đó là tại tục lệ.” Nhưng, không phải vì nhiều người đồng phạm một trọng tội mà trọng tội đó được coi như hết còn là một tội nữa. Quả báo không dính đến tục lệ đâu, mà quả báo của sự hung ác gây ra thì càng nặng nề hơn các tội khác. Bên Thiên Trúc thì không thế nào chữa lỗi về tục lệ hung ác đó được. Bởi vì ai nấy đều biết bổn phận mình không nên làm cho con người hay con vật đau khổ. Những kẻ nào viện cớ vì mục đích thể thao mà ưa sát hại loài vật của Trời sanh ra, thì kẻ đó sẽ bị Trời phạt về tội hung ác.
Thầy biết rằng con sẽ không làm như vậy được, và bởi vì lòng con thương Đức Thượng Đế, nên khi gặp trường hợp nầy tức thì con sẽ phản kháng ngay.
Trong lời nói có sự hung ác cũng giống như làm ác. Người nào trong lời nói có ý muốn nhục mạ thì cũng phạm tội ác vậy. Điều đó con sẽ không làm đâu. Tuy nhiên, một lời nói ra, không lượng trước cũng làm hại như một sự hung dữ. Vậy thì phải tránh sự vô ý ác. Thường thường vì không kịp suy nghĩ mới phạm tội vô ý ác nầy.
Một kẻ tham lam bỏn xẻn kia không hề tưởng đến sự đau khổ do hắn gây ra cho những người bị hắn trả tiền công hẹp hòi hay là sự khổ não của vợ con người đó bị bỏ đói.
Một người khác cứ tưởng cuộc vui riêng của mình và bởi muốn cho được toại lòng nên ít quan tâm tới những linh hồn và những thân thể bị hắn làm hư hoại. Một kẻ khác nữa, muốn tránh vài phút buồn bã nên đúng ngày mà không trả tiền công cho thợ thầy, và không thèm kể đến sự khó khăn của mấy người nầy vì bởi đó mà sanh ra. Có biết bao nhiêu sự đau khổ chính là do bởi tánh vô tư mà sanh ra, và vì quên phứt rằng việc làm có quan hệ tới những người khác.
Mà con người dầu chẳng nhớ tới đi nữa, quả báo cũng không hề quên đâu. Nếu con muốn bước vào đường Đạo thì con phải nghĩ đến ảnh hưởng những việc con làm, vì sợ e mang tội vô ý ác.
V - THÓI DỊ ĐOAN (La superstition)
Thói dị đoan là một mối hại khác rất lớn. Nó sanh ra biết bao nhiêu điều hung ác rùng rợn. Kẻ nào làm nô lệ cho nó rồi thì khinh khi mấy kẻ khôn ngoan hơn mình và rán kếm thế dụ mấy người đó làm in như mình vậy. Hãy tưởng đến những sự tàn sát ghê gớm vì thói dị đoan đòi hỏi sự giết thú vật để cúng tế. Còn một thói dị đoan độc địa hơn nữa, đó là tưởng rằng con người cần phải ăn thịt mới sống được. Hãy tưởng tới những đau khổ mà do sự dị đoan đã gây ra cho các hạng dân bị áp chế bên nước Thiên Trúc yêu quí của chúng ta, và hãy xem coi sự dị đoan nầy sanh ra biết bao nhiêu sự độc ác lạnh lùng trong đám người đã biết tình hữu ái rồi. Thói dị đoan mộng mị xúi giục con người nhơn danh Đức Thượng Đế từ bi mà làm điều tội ác.
Hãy coi chừng kỹ lưỡng đừng để một mảy dị đoan ở trong lòng con.
Phải tránh ba trọng tội trên, chúng nó là những tội nghịch với lòng bác ái, cho nên cản trở hết các sự tiến hóa.
VI - PHỤNG SỰ (Le service)
Không phải chỉ tránh sự ác mà thôi, con phải cần mẫn làm việc lành mới được.
Trong lòng con phải tràn ngập ý muốn nhiệt liệt phụng sự cho đến nỗi con không hề quên giúp đỡ hết thảy các loài ở chung quanh con, chẳng những là con người mà cho tới loài cầm thú thảo mộc nữa. Phải giúp ích trong công việc nhỏ mọn hằng ngày cho thành thói quen đặng khi gặp cơ hội lớn thì không bỏ qua. Vì con chí quyết hiệp nhứt với Thượng Đế chẳng phải con muốn được phần con, song để con trở thành đường vận hà đem lòng thương yêu của Ngài trao lại cho mấy anh em con. Người nhập Đạo rồi không sống riêng một mình mình, mà chỉ vì những người khác mà thôi.
Có quên mình mới phụng sự được. Nó là cái ngòi viết ở trong lòng bàn tay Thượng Đế, nhờ đó tư tưởng của Ngài mới tuôn xuống phàm trần và nếu không có người trung gian nầy thì không hữu hiệu phô diễn ra được. Đồng thời người phụng sự là một ngọn đuốc linh động rọi khắp trần gian, đức từ bi của Thượng Đế chan chứa ở trong lòng người đó.
Có khôn ngoan mới giúp đỡ được, mà chí khí để dẫn dắt sự khôn ngoan, còn từ ái lại gây ra chí khí. Ấy là những đức tánh mà con bắt buộc phải có.
- CHÍ KHÍ,
- KHÔN NGOAN,
- TỪ ÁI
Là ba trạng thái của Thượng Đế, nếu bạn muốn làm tôi tớ Đấng Chí Tôn thì bổn phận bạn phải biểu lộ ba đức tính đó cho đời thấy.
I
Attendant la parole du Maitre,
Guettant la lumière cachée.
Ecoutant pour saisir ses ordres,
Au milieu même de la bataille.
II
Attentif à son moindre signe,
Au dessus de l’immense foule.
Entendant son léger murmure,
A travers les chants bruyants de la terre.
Dịch nôm:
I
Trông Thầy nhỏ phước phán lời lành,
Sáng ẩn, rình xem, bỏ lợi danh.
Lặng lẽ mong nghe Người hạ lịnh,
Quản bao giữa đám cạnh cùng tranh.
II
Chăm chăm trông dấu chốn linh đài,
Thoát tục mặc dầu thế mỉa mai.
Văng vẳng lời vàng Thầy khuyến thiện,
Ngoài tai rộn rực tiếng trần ai.
Tôi lấy ý nghĩa tám câu chữ Pháp, đặt ra một bài tứ tuyệt như vầy:
Đạo không rời bước chẳng lìa mình,
Chi sá phồn hoa cảnh sắc thinh.
Chăm chỉ xem qua từng nét dấu,
Nghe Thầy dạy dỗ chữ đinh ninh.
Bạch Liên
Tóm tắt Lời giáo huấn của Chơn sư gồm 4 đức tính căn bản:
A.- Tánh Phân biện gồm 5 điều:
- Phân biện mục tiêu chân thật và giả dối - Phân biện 3 hạ thể và chân tâm - Điều lành và điều dữ, việc hệ trọng và không hệ trọng – Phân biện sự chân giả trong tư tưởng, lời nói và việc làm, đừng nghĩ quấy cho người khác – Phân biện những điều ích kỷ và vị tha... Nhìn nhận sự hiện hữu Thượng Đế trong chúng sinh, và giúp họ thức tỉnh được Thượng Đế tính ngay trong họ.
B .- Tánh dứt bỏ gồm 5 điều:
Dứt bỏ dục vọng - Đừng ham muốn vào thiên đường - Đừng ham những phép thần thông – Đừng ham muốn những điều nhỏ nhen như ham danh, ham nói, nhất là đừng nói chuyện tầm phào – Đừng ham xen vào công chuyện của người khác.
C.- Hạnh kiểm tốt gồm 6 điều:
- Tự chủ trong tư tưởng, trong lời nói và hành động – Khoan dung – An phận – Nhắm đi thẳng đến mục đích – Tin cậy Thượng Đế nơi mình.
D.- Lòng từ ái gồm 6 điều:
- Thoát kiếp luân hồi hiệp nhứt với Thượng Đế, không phải để mong tự giải thoát, mà để phụng sự chúng sanh – Từ ái trong sinh hoạt hàng ngày – Không nói hành – Không hung ác – Bỏ thoái dị doan (cực đoan) – Phụng sự cơ tấn hoá vạn linh.
Lòng từ ái là hệ trọng hơn hết, nếu không có lòng từ ái thì tất cả các đức tánh khác xem như không hoàn hảo.
LỜI BẠT
(Phụ chú cuối sách)
Jidd Krishnamurti (1895-1986) sinh trưởng trong một gia đình Bà-la-môn trung lưu ở miền nam Ấn độ, thiếu thơì còn có tên Alcyone. Ông là một bậc Thế giới Đạo sư kiêm Tư tưởng gia vĩ đại nhất hiện đại, sinh tiền Ông không màn quyền lực, tiền tài và danh vọng mà thế nhân dành cho Ông. Ông chỉ tận tụy với lý tưởng “Để cho mọi người được tự do, giải thoát vô điều kiện”. Nên Ông đã chu du khắp thế giới, thuyết giảng các đề tài liên quan đến triết lý về cuộc sống con người. Trong thời đại cơ giới, phần lớn lời thuyết giảng đã được ghi âm thu hình và in thành sách, được dịch ra nhiều thứ tiếng lưu hành khắp thế giới.
Quyển “Dưới chân Thầy” là cuốn sách đầu tay, Ông viết năm 1908 lúc 13 tuổi. Theo lời bà Bác sĩ Anni Besant Hội trưởng hội Thông thiên học thế giới, thì quyển sách nầy Ông viết lại những điều giáo huấn, sau mỗi lần xuất chơn thần lên trực tiếp thọ giáo với Chơn sư (Thầy dạy tâm linh) cuả Ông, là Đại Tiên Kouthoumi, một cách chậm chạp khó khăn, vì lúc đó Ông chưa thông thạo Anh văn. Khi viết xong quyển Dưới chân Thầy, đã được Chơn sư hiệu chính trước khi phổ biến cho đời.
Quyển “Dưới chân Thầy” đã được Bà A. Besant và Giám mục B. Leadbeater là hai vị tiền bối Thông Thiên học thế giới, giảng giải chi tiết trong quyển “Giảng lý quyển Dưới chân Thầy”. Theo các Ngài thì giá trị quyển “Dưới chân Thầy” đối với chúng ta thật là to tác, vì bởi nó hết sức giản dị, trong đó toàn là lời dạy của Chơn sư dành cho một đệ tử còn thơ ấu. Chỉ sau 3 năm, đến năm 1911 sách đã tái bản hơn 40 lần, và được dịch ra 27 thứ tiếng. Hàng vạn độc giả đã gởi thư cho hay: “Đời của họ thay đổi trọn vẹn, và họ thấy mọi vật đều khác hẵn sau khi đọc và ứng dụng quyển sách này” (Theo Giảng lý Dưới chân Thầy).
Ấn phẩm nầy được Ông Bạch Liên dịch ra từ bản Pháp văn, bản dịch này so với bản gốc Anh văn của tác giả cũng rất hay và chính xác. Bác sĩ Anni Besant đã kết thúc mấy lời nói đầu bằng lời nguyện cầu
“Cầu xin tác phẩm nầy giúp ích cho kẻ khác cũng như lời khẩu truyền đã giúp ích cho Alcyone...”
Bà và tác giả cũng lưu ý rằng:
“Những lời giáo huấn nầy có hiệu quả là khi nào người ta ăn ở in như vậy... Nếu mà giữ vẹn những lời giới răn, tức thì cửa Đạo mở rộng, độc giả bước vào đó cũng như tác giả đã bước vô rồi vậy”.
Bởi vì nghiên cứu suông kinh điển để trở thành người trí đạo “năng thuyết bất năng hành”, thì chẳng khác gì con lạc đà trên lưng mang nặng trĩu gổ trầm hương, nhưng chẳng bao giờ nó thưởng thức được hương thơm của trầm cả. Nên trong Phương tu Đại Đạo Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cũng đã dạy rằng:
“Đạo chẳng phải nơi lời nói mà lại nơi kết quả sự thật mình làm, chẳng phải ở nơi câu kệ câu kinh mà tại buộc hành vi người giữ đạo”.
Nội dung quyển “Dưới chân Thầy” rất phong phú, nhưng giản dị, dễ hiểu, dễ thực hành, rất hữu ích cho sự tu tâm luyện tánh, không phân biệt trình độ, tuổi tác tôn giáo, hay bất kỳ khuynh hướng nào dù duy tâm hay duy vật, dù có tín ngưỡng hay bài bác thần linh... Nếu thực hiện những lời khuyên nầy một cách tích cực, thì sẽ có được một thân tâm bình hoà, an lạc, một gia đình yên vui, một xã hội thanh bình. Vì Đức Thích Ca đã xác định rằng:
“Tâm bình, thế giới bình”
Vậy rất mong chư thiện tín không nên chấp nê là sách vở của “ngoại đạo” mà bỏ qua. Vì Thánh giáo ngày 8 tháng 10 Bính dần (Thứ sáu 12-11-1926) Đức Chí Tôn dạy rằng:
“Khi chưa giáng cơ lập đạo tại nước Nam, chớ chư Thần Thánh Tiên Phật đã dùng huyền diệu nầy mà truyền Đạo cùng chư vạn quốc” (TNHT/Q1/trang 68).
Lại nữa Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã tuyên bố rằng:
“Đạo Cao Đài đã được các nhà Thần học Tây phương và Hội Thông thiên học tiên đoán trước” (According to Pham Cong Tac declarede that Caodaism was predictid by the Western spiritism and The Theosophic society / Theo The Caodai: A New Religious Movement - Của Giáo sư Tiến sĩ Sergei Blagov – Đại học viện Nghiên cứu Đông phương Moscow –Nga).
Vì thế, quyển “Dưới chân Thầy” rất đáng được chúng ta nghiên cứu tu học, mỗi ngày cần kiểm điểm, đối chiếu với 4 đức tính căn bản, trong đó gồm 22 điều thiết yếu “phải biết”, “phải làm” và “phải tránh” của Chơn sư đã dạy, xem những điều nào đã làm được và chưa được để phát huy và khắc phục. Chúng ta nên coi đây là một quyển Cẩm nang tu luyện để giác ngộ.
Dã Trung Tử
- Nuôi kẻ nghèo là một việc tốt, cao quí và hữu ích. Nhưng mà nuôi linh hồn mấy người đó lại còn cao quí và hữu ích hơn nữa. Người nào giàu cũng nuôi xác thịt được hết, mà duy có một mình người hiểu biết mới nuôi được linh hồn. Nếu con hiểu biết rồi, thì bổn phận con phải giúp kẻ khác giác ngộ.
- Đức Thượng Đế vốn minh triết và cũng là từ ái vô biên; hễ con được minh triết nhiều chừng nào thì Ngài càng dễ hiện ra nhiều chừng nấy.
- Phải tập phân biện Đức Thượng Đế trong mình các loài vật, dầu chúng nó thật xấu xa ... Con cũng có thể giúp đồng bào con luôn luôn là nhờ con với họ trong mình đồng chung có Chơn Thần của Đức Thượng Đế. Con hãy học hỏi cách thức tỉnh chơn thần đó trong người họ..
Năm Hình Ảnh Trước Cửa Tử
Năm Hình Ảnh Trước Cửa Tử [1]
Nguyên tác: Hòa Thượng Rastrapal
Việt dịch: Cư sĩ Hải Trần
Cuộc sống sau cửa tử và sự hiện hữu của không gian bốn chiều [2] là hai nan đề đã làm điên đầu bao triết gia, tâm lý gia, và các học giả về bản chất con người. Có nhiều quan điểm khác biệt đã được nêu lên, nhưng tựu trung, tất cả đồng ý rằng chúng ta đều phải chết. Thêm vào đó, người hấp hối thường có những cử chỉ lạ lùng như thể họ đang sống trong một thế giới nào khác mà chúng ta không cảm nhận được. Lúc đó, dường như họ đang sống trong ảo tưởng. Thế nhưng, nếu quan sát một cách tường tận, chúng ta có thể sẽ thấy rằng những "ảo tưởng" đó tuy khó tin nhưng có thật. Nhiều năm trước đây, là một nhà sư, tôi chứng thực được điều đó khi đứng cạnh giường của một người đang hấp hối. Kinh nghiệm này đã chấn động tinh thần tôi đến độ sau đó tôi phải bỏ công tìm tòi học hỏi thêm các khái niệm về chư Thiên trong Kinh Tam Tạng Phạn ngữ (Pali). Qua lời thỉnh cầu của chư Phật tử bốn phương, tôi xin viết lại câu chuyện trên với hy vọng rằng câu chuyện này sẽ trả lời được phần nào các thắc mắc đó. Nơi đây, tôi xin cám ơn sự khích lệ và đóng góp vào cuốn sách nhỏ này của các Ngài Thiền sư Munindra, Tiến sĩ Arabinda Barua, Giáo sư Sunil Barua, và Bà Krishna Barua.
Tỳ Kheo Rastrapal
* * *
Câu chuyện tôi sắp kể ra đây xảy ra vào năm 1957. Lúc đó tôi thọ giới Tỳ kheo được bốn năm. Tôi hoan hỉ hăng say học Phật Pháp. Trong đó, có câu chuyện về Phật tử Dhammika trong quyển Chú giải Kinh Pháp Cú làm tôi quan tâm hơn cả.
Cư sĩ Dhammika là một Phật tử tín tâm thời Đức Phật còn tại thế. Toàn thể gia quyến ông thực hành Phật Pháp rất nghiêm túc. Khi thọ bệnh, và nhận thấy mình sắp từ giã cõi đời, ông thỉnh cầu Đức Phật cho phép Tăng chúng đến tụng kinh bên giường bệnh. Lời thỉnh cầu của ông được Đức Phật chấp nhận. Ngài cử một số chư Tăng đến gia thất ông, và chư Tăng bắt đầu trì tụng Kinh Tứ Niệm Xứ. Khi chư Tăng đang tụng kinh, thình lình ông la lớn:
"Ngừng lại! Ngừng lại!".
Nghe vậy, chư Tăng rất lấy làm ngạc nhiên. Vì nghĩ rằng ông Dhammika yêu cầu đừng tụng kinh nữa, chư Tăng bèn ngưng tụng và trở về tinh xá trình với Đức Phật. Đức Phật hỏi sao chư Tăng về sớm vậy. Chư Tăng thưa rằng đó là vì cư sĩ Dhammika yêu cầu ngưng, và do đó chư Tăng quay trở về tuy chưa tụng hết bài kinh. Đức Phật nói rằng mọi người đã hiểu lầm ý người bệnh. Ngài giảng giải thêm rằng ý của ông ta hoàn toàn khác hẳn. Ông muốn chư Thiên đang đem xe đến đón ông về thiên giới hãy ngừng lại, đừng đưa ông đi vội, vì ông đang nghe kinh. Ông ta không hề có ý yêu cầu chư Tăng ngưng tụng kinh.
Trong Tam Tạng Kinh Điển và trong các sách Chú Giải, tôi cũng từng đọc được nhiều câu chuyện về sự xuất hiện của chư Thiên và ngạ quỷ trong giờ phút lâm chung, tùy thuộc vào nghiệp quả đã làm trong suốt cuộc đời của người hấp hối. Tôi rất thắc mắc, vì những câu chuyện này đi ngược lại với đường lối tôi lý luận lúc đó. Tôi tìm đến Hòa Thượng Jnanishwar, một học giả uyên thâm về Phật học trụ trì tại một ngôi chùa nổi tiếng ở vùng Unainpura tại quốc gia Bangladesh, và trình lên Ngài nỗi thắc mắc của mình. Ngài bèn niệm bài kệ sau:
"Niraye aggikkhandho ca petalokanca andhakam,
tiracchanayoninca mamsakkhandhanca manusam,
vimanam devalokamhi nimittam panca dissare."
Có nghĩa là:
"Ai bị đọa xuống Địa Ngục sẽ thấy lửa; ai bị đọa làm ngạ quỷ sẽ thấy xung quanh mình tối tăm; ai sinh làm thú vật sẽ thấy rừng rú, súc vật và muông thú; ai sinh làm người sẽ thấy thân nhân đã khuất; và ai sinh lên cõi Trời sẽ thấy cung điện trên Thiên giới. Thường thường, năm hình ảnh này sẽ hiện ra cho người hấp hối." [3]
Ngài Hòa Thượng đã cố công giải thích câu kệ trên cho tôi rất cặn kẽ, nhưng tôi vẫn không đồng ý cho lắm. Phải có một kinh nghiệm thực chứng nào đó họa may mới có thể thuyết phục tôi hoàn toàn tin tưởng vào câu kệ trên. Sau đó không lâu, tôi đã chứng thực được điều mình đang mong mỏi. Lúc ấy, tôi đang ở tại một ngôi chùa trong làng Tekota thuộc hải cảng Chittagong , nằm trong quốc gia Bangladesh. Một ngày kia, khi đi học về từ ngôi trường đại học cách chùa khoảng năm dặm, tôi cảm thấy rất mệt mỏi và muốn lên giường nằm nghỉ chốc lát. Bỗng đâu, có một cư sĩ ở làng bên đến chùa nhờ tôi đi thăm người anh rể tên là ông Abinash Chandra Chowdhury, vì ông này đau nặng và đang cơn hấp hối. Ông Chowdhury được năm mươi sáu tuổi, và là một Phật tử tín tâm, ai cũng biết đến tâm đạo của ông ta. Tôi đứng dậy và đi theo vị cư sĩ đến nhà người anh rể của ông ấy. Đến nơi, tôi thấy nhà ông đã đông đủ bạn bè thân quyến. Tất cả đều nhường lối cho tôi tiến đến gần người hấp hối. Ông ta đang nằm trên một tấm nệm trải trên sàn. Lúc ấy khoảng 8:30 tối. Có người mang ghế lại mời tôi ngồi. Cả nhà trở lên im lặng khi tôi sửa soạn tụng kinh. Ai nấy đều hồi hộp vì trước đó, tôi đã từng ngỏ ý trong các bài thuyết pháp rằng tôi ước ao được kiểm chứng lại năm hình ảnh thường hiện ra trước giây phút lìa đời của người sắp chết. Giờ đây, giây phút quan trọng được mong chờ này đã đến.
Tôi bắt đầu tụng kinh. Sau khi tụng xong vài bài, tôi nghe người hấp hối thì thào một cách thành kính những chữ "Phật - Pháp - Tăng, Vô thường - Đau khổ - Vô ngã" và "Từ - Bi - Hỷ - Xả". Thế rồi, tôi nhận thấy ông ấy suy nhược hẳn đi. Để nhìn ông ta cho rõ, ngõ hầu chứng minh câu kệ về năm hình ảnh nọ, tôi yêu cầu mọi người cho tôi ngồi xuống sàn, cạnh người sắp quá vãng. Mọi người liền tuân theo ý tôi ngay. Người hấp hối nằm nghiêng về phía tay trái đối diện tôi. Tôi đặt bàn tay phải của mình lên cánh tay phải của ông ta và hỏi thăm sức khỏe. Ông trả lời rằng giây phút lìa đời đã đến, và không còn hy vọng gì sống thêm nữa. Tôi cố gắng an ủi ông rằng ông mới có năm mươi sáu tuổi và không thể nào chết sớm như vậy. Suốt đời ông đã làm rất nhiều việc thiện, nêu lên bao nhiêu gương sáng cho mọi người trong làng, cho nên cuộc đời ông không thể bị vắn số như vậy được. Thế rồi tôi hỏi ông có muốn thọ trì Ngũ Giới và nghe thêm kinh không. Ông ta bằng lòng. Sau khi cho ông thọ giới, tôi tụng kinh và nhận thấy ông ta lắng nghe với tất cả lòng thành kính. Khi ngừng tụng, tôi muốn biết ông có thấy hình ảnh nào không. Suốt thời gian tôi ngồi cạnh, cặp mắt ông ta nhắm nghiền. Cứ mỗi khoảng thời gian ngắn là tôi nhắc lại câu hỏi của mình. Ông ta cho biết rằng ông không nhìn thấy gì cả.
Khoảng 11:30 tối, đôi môi ông bắt đầu mấp máy. Những người đứng cạnh giường nhận ra rằng ông đang nói thấy cây Bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật thành đạo. Có lẽ ông ta thấy cây Bồ đề vì đang nhớ lại chuyến hành hương của mình tại Bồ Đề Đạo Tràng. Tôi hỏi ông còn thấy gì khác. Ông nói một cách ngạc nhiên rằng hai vị sinh thành ra ông cũng ở đó và đang dâng hoa lên Vajrasana (Kim Cương Tọa) dưới cội cây Bồ đề. Ông ta nói như thế đến hai lần. Tôi nhờ ông hỏi song thân ông có muốn thọ Ngũ Giới không. Ông ta trả lời có và hai người đang chắp tay nhận giới. Sau khi truyền Ngũ Giới cho song thân ông, tôi lại hỏi ông xem hai vị ấy có muốn nghe kinh không. Khi được trả lời rằng có, tôi bèn tụng bài Từ Bi Kinh. Tôi cảm thấy rất kích động với những diễn tiến vào lúc đó, vì chúng đã xảy ra giống câu kệ về năm hình ảnh nọ. Những người xung quanh cũng bị kích động không kém vì họ đang chứng kiến một sự kiện không thể ngờ. Theo như lời kệ, tôi hiểu rõ rang rằng hình ảnh cha mẹ quá vãng cho tôi biết ông sẽ tái sinh làm người và trong điều kiện sống rất cao đẹp, vì có hình ảnh của cây Bồ đề cùng với song đường. Thế nhưng, tôi cảm thấy với đức tin trong sạch, ông xứng đáng lên cõi cao hơn. Tôi tiếp tục hỏi ông còn thấy gì nữa. Một lúc sau, tôi nhận thấy ông ấy có sự thay đổi. Hình như ông ta bắt đầu lo lắng cho cuộc sống trần thế và yêu cầu họ hàng giải nợ cho ông. Tôi hỏi ông thấy gì. Ông trả lời một cách yếu ớt rằng ông thấy một bộ tóc dài. Lúc ấy khoảng 1:40 sáng. Tôi hỏi:
"Ông có thấy mắt không?"
Thì được trả lời rằng:
"Không, vì bộ tóc đen phủ kín từ đầu đến gót."
Tôi không biết hình ảnh ma quái này có nghĩa gì, nhưng cũng đoán chừng rằng nếu ông ta chết vào lúc này thì sẽ tái sinh vào một cảnh giới thấp, nên tôi bắt đầu tụng kinh để xua đuổi con ma. Quả nhiên công hiệu, vì khi tôi hỏi con ma còn đó không, ông nói con ma đã biến mất. Ít lâu sau, khi tôi nhờ Hòa Thượng Jnanishwar và Hòa Thượng Silalankara giải thích, cả hai đều nói rằng nếu qua đời vào lúc bấy giờ ông ta sẽ tái sinh làm ngạ quỷ. Hình như ông vẫn còn quyến luyến sự sống trên cõi thế gian vì ông nài nỉ thân nhân cất giữ tấm nệm dưới giường ông nằm cho người con trai duy nhất mang tên là Sugata Bikash Chowdhury. Người con trai này còn kẹt ở xa, tận tỉnh Durgapur thuộc Ấn Độ. Ông không muốn tấm nệm bị hỏa thiêu theo xác ông theo tục lệ của nhiều Phật tử ở hải cảng Chittagong thuộc quốc gia Bangladesh . Sau đó, ông bị kiệt sức rất nhiều. Tôi hỏi ông còn thấy những gì. Ông ta trả lời rằng ông thấy hai con chim bồ câu đen. Tôi hiểu tức thì rằng đó là hình ảnh của thế giới loài thú, nơi ông sẽ tái sinh. Lúc này đã 2:00 giờ sáng. Tôi không muốn ông thọ sinh làm kiếp thú nên tiếp tục tụng kinh. Khi tụng xong vài bài, tôi lại hỏi ông thấy gì. Lần này, ông trả lời rằng không thấy gì cả. Tôi tiếp tục tụng kinh. Một lúc sau, tôi hỏi ông có thấy gì nữa không. Tôi phải nhắc lại câu hỏi nhiều lần. Cuối cùng, ông ta nói một cách ngạc nhiên rằng ông thấy một cỗ xe từ thiên giới đang tiến đến gần. Mặc dù biết rằng không một chướng ngại vật nào có thể ngăn cản được cỗ xe đó, nhưng vì lòng tôn kính đối với chư Thiên, tôi yêu cầu thân quyến của người hấp hối đứng xa ra, nhường chỗ cho cỗ xe đậu lại. Xong, tôi hỏi ông cỗ xe đó cách xa ông bao nhiêu. Ông đưa tay ra dấu cho biết cỗ xe đó đang ở sát cạnh giường. Khi được hỏi có thấy ai trong xe không, ông ta trả lời rằng có những vị thiên nam và thiên nữ trong xe. Tôi nhờ ông hỏi ý chư Thiên có muốn thọ Ngũ Giới không, vì tôi được biết qua kinh điển rằng chư Thiên rất vâng lời và kính trọng chư Tăng và các vị cư sĩ tại gia có đạo tâm. Khi được trả lời rằng có, tôi liền làm lễ truyền Ngũ Giới cho chư Thiên và hỏi các Ngài có muốn nghe Từ Bi Kinh không. Khi biết chư Thiên đồng ý, tôi bèn tụng hết cả bài kinh. Tôi lại hỏi chư Thiên có muốn nghe Hạnh Phúc Kinh (Mangala Sutta) không, và tôi tụng bài này khi chư Thiên tỏ ý bằng lòng.
Khi tôi hỏi các Ngài có muốn nghe thêm bài Linh Bảo Kinh (Ratana Sutta) không, thì người hấp hối xua tay ra dấu rằng chư Thiên bảo không còn thì giờ nghe kinh nữa. Sau đó, ông ta cho biết chư Thiên muốn tôi trở về chùa. Tôi hiểu rằng chư Thiên nóng lòng muốn rước người bệnh lên thiên giới, nhưng tôi tìm cách ngăn cản để kéo dài sự sống cho ông ta trên mặt đất này. Tôi nhờ ông mời chư Thiên lui gót vì chưa đến lúc ông ấy chết. Tôi lý luận rằng ông ta mới có năm mươi sáu tuổi, cho nên tôi dám chắc rằng chư Thiên đã lầm lẫn. Tất cả mọi người có mặt và cả tôi nữa sẵn lòng hồi hướng phước báu của mình đến các Ngài để đổi lấy sự sống cho ông ta. Tôi lại hỏi người hấp hối còn thấy hình ảnh gì nữa không. Ông trả lời rằng song thân ông còn quanh quẩn bên cây Bồ đề. Như vậy, chỉ có nghĩa là tâm ông còn vướng bận cảnh trần rất nhiều và ông sẽ tái sinh làm người. Một lần nữa, tôi đề nghị tất cả chúng tôi hồi hướng phước báu đến cha mẹ ông đã quá vãng, và sau khi thọ hưởng rồi, hai ông bà phải ra đi như chư Thiên đã ra đi vậy. Theo dấu hiệu của người hấp hối thì hình như người cha đồng ý, nhưng người mẹ thì không. Tôi tỏ vẻ nghiêm cẩn với bà mẹ vì chư Thiên đã đồng ý với tôi thì hai người không nên từ chối. Tôi nói rằng nếu hai người vẫn có hành động như thế, e rằng sẽ gây ra các hậu quả không tốt cho hai người mà thôi. Tôi phải nói mãi họ mới chịu nghe. Cuối cùng, cả hai biến mất. Bây giờ thì không còn bóng hình nào lảng vảng trong tâm người bệnh nữa. Trông ông ta thay đổi hẳn. Ông ta hít một hơi dài và có nhiều sức sống. Khi có người cầm đèn đến gần để soi mặt ông, ông ta nói:
"Đừng lo nữa, tôi không chết đâu."
Nhận thấy ông đã khỏe hẳn, tất cả chúng tôi đều cảm thấy nhẹ nhõm và vui mừng. Chúng tôi đều bị kích động với những diễn tiến vừa qua. Lúc đó đã 5:00 giờ sáng. Mọi người vừa trải qua một đêm không ngủ, nhưng không ai tỏ ra mệt mỏi, vì sự kiện trên quá hấp dẫn và thu hút. Tôi từ giã mọi người, quay trở về chùa, đi tắm, ăn sáng, và sau cùng lên giường chợp mắt.
Khoảng 10:30 sáng, nghe tiếng động ngoài phòng, tôi đi ra xem chuyện gì thì thấy ông khách tối qua. Tôi hỏi ông nguyên do trở lại chùa thì được biết ông ta đến đón tôi vì sau năm tiếng đồng hồ khoẻ mạnh, ông Chowdhury lại bị đuối sức và cái chết lại cận kề. Tôi vội vàng theo người khách trở lại nhà ông Chowdhury. Trên đường, tôi gặp rất nhiều người trong làng lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng với tôi, và khi đến nhà ông Chowdhury, tôi thấy rất đông người đứng chật cả nhà. Đó là vì tiếng đồn về sự kiện xảy ra từ đêm trước. Mọi người rẽ ra nhường lối cho tôi tiến đến giường bệnh. Tôi ngồi bên cạnh người hấp hối hỏi thăm sức khỏe. Ông ta trả lời rất yếu ớt rằng ông không sống được nữa. Tôi khuyến khích ông và nhắc nhở ông những việc thiện ông đã làm trong đời. Lâu lâu tôi lại hỏi ông có thấy ai không, nhưng ông ta không thấy gì cả. Khoảng 11:20 sáng, một cụ lão tên là cụ Mahendra Chowdhury khoảng 86 tuổi nhớ ra giờ ăn chót trong ngày của tôi sắp qua nên nhắc tôi độ ngọ. Tôi cương quyết từ chối vì không thể rời giường bệnh vào lúc đó cho dù là để ăn cơm. Câu nói của tôi làm bầu không khí căng thẳng thêm vì ai cũng chờ đợi những diễn tiến tiếp theo tối trước ra sao. Tôi lại hỏi người hấp hối thấy gì không. Lần này, ông ta trả lời:
"Có, chư Thiên lại đem xe đến nữa."
Sự xuất hiện của chư Thiên ngay sau khi tôi từ chối ăn trưa làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Sau này, khi tôi nhờ Hòa Thượng Jnanishwar và Hòa Thượng Silalankara giải thích, cả hai đều nói rằng chư Thiên chờ tôi đi độ ngọ, để khi tôi vắng mặt là chư Thiên đón ông ta về trời ngay. Thế nhưng vì tôi không chịu bỏ đi, nên các Ngài đành đến rước ông ta vậy. Người bệnh cho tôi biết chư Thiên thỉnh cầu và năn nỉ tôi trở về chùa. Khi tự hỏi tại sao, tôi bỗng hiểu sở dĩ các Ngài ngần ngại không rước người bệnh đi khi tôi còn ở đó vì các Ngài mang ơn tôi đã ban Ngũ Giới và tụng kinh cho các Ngài. Sau này, nhị vị Hòa Thượng cũng nói thế. Vì cảm thấy người bệnh không thể trốn tránh cái chết được nữa, tôi nhờ ông thưa cùng chư Thiên rằng:
"Xin chư Thiên tự nhiên rước ông ta đi, cho dù tôi đang có mặt tại nơi đây. Tôi không phản đối nữa. Tôi rất hoan hỉ cho phép ông ta ra đi."
Sở dĩ tôi nói vậy vì ông ta sẽ đi về thiên giới, rất xứng đáng với các công đức ông đã làm và đó là điều tôi chân thành ao ước cho ông. Tiếp theo, tôi yêu cầu bà vợ và thân quyến của ông nói lời giã biệt một cách vui vẻ. Đây là lúc mọi người sửa soạn cuộc hành trình cuối cùng trong đời của người hấp hối. Trước khi ra đi, ông nói:
"Thôi, tôi đi dây."
Vẻ mặt ông rất hân hoan và xán lạn. Tôi bèn nâng đầu và vai ông, còn người khác nắm chân. Chúng tôi đặt ông nằm ngửa cho thẳng thắn. Tôi nhỏ vài giọt nước đường vào miệng ông. Tiếp theo, tôi đặt bàn tay phải của mình lên ngực ông ta. Tôi cảm thấy còn rất nhiều hơi ấm. Người đang chết hình như còn tỉnh thức và đang lẩm nhẩm những câu kinh nhật tụng. Thế rồi, ông ta giơ bàn tay phải lên như đang tìm kiếm một vật gì. Tôi không hiểu ông muốn gì. Có người trong đám đông đề nghị có lẽ ông muốn sờ chân tôi như đêm trước ông đã từng làm như vậy, vì tôi đang ngồi trên sàn cạnh ông. Tôi đưa chân phải của mình đến gần để ông ấy có thể đưa tay ra sờ được. Khi sờ được chân tôi xong, trông ông có vẻ mãn nguyện. Sau đó, ông giơ bàn tay vừa đụng vào chân tôi lên trán mình và sau cùng xuôi thẳng tay đặt bên hông. Tôi cảm thấy hơi ấm ở ngực ông bớt dần. Khoảng một hay hai phút sau, cơ thể ông ấy giật lên và trút hơi thở cuối cùng. Khi xác ông hoàn toàn lạnh, tôi rút tay về và nhìn quanh. Mọi người xung quanh ngồi hay đứng đều hoan hỉ và an nhiên tự tại. Cả nhà không một tiếng khóc. Đó là một cuộc tiễn đưa người chết rất hay, theo đúng lời tôi căn dặn trong các buổi thuyết giảng. Tôi từ giã mọi người...
Câu chuyện trên đã đánh tan mọi mối nghi ngờ từ trước về câu kệ diễn tả năm hình ảnh xuất hiện trong trí người sắp chết do Hòa Thượng Jnanishwar đọc và tôi cũng từng thấy những câu tương tự trong kinh điển. Sau này, khi phân tích về cái chết của ông Chowdhury, tôi nhận ra rằng mỗi giai đoạn đều có một hình tướng (nimitta) tương xứng với trạng thái của tâm (citta). Cảnh cây Bồ đề và cha mẹ đã khuất là kết quả của nghiệp tướng (kamma nimitta). Đó là yếu tố quan trọng trong tâm thức do thiện nghiệp gây ra. Thế nhưng, sau này, ông ta thấy người tóc dài và hai con chim bồ câu hoặc hình ảnh ngạ quỷ. Đó là dấu hiệu của những việc bất thiện ông đã làm. Nghe kinh tụng đã xua đuổi được tư tưởng bất thiện và kết quả là hình ảnh ma quái lẫn muông thú biến mất. Tâm trở nên an tịnh nhờ nghe kinh kệ và thọ Ngũ Giới nên hình ảnh chư Thiên xuất hiện. Cho đến phút cuối, trạng thái tâm trong sạch này mạnh hơn hết. Tâm này còn mạnh hơn cả tâm khi thấy song thân. Hình ảnh cha mẹ đã biến mất để cuối cùng con đường lên thiên giới hiển lộ cho người hấp hối thư thái ra đi.
Kết luận câu chuyện này là giây phút cuối trong đời sẽ có ảnh hưởng mạnh đưa chúng ta về cảnh giới cao hơn hay thấp hơn. Vì thế, bổn phận của thân nhân người đang hấp hối là hãy nhắc nhở cho người đó những việc thiện đã làm trong đời và tụng kinh niệm Phật luôn luôn. Chúng ta không nên làm tâm thức người đó mê mờ qua sự khóc than hay khiến họ lo nghĩ đến chuyện thế tục. Tôi cũng hiểu thêm rằng cho dù mộ đạo hay làm việc thiện đến đâu chăng nữa, chúng ta không thể đạt được giải thoát hoặc lên cõi Niết bàn. Mọi hành vi thiện chỉ có thể giúp chúng ta tái sinh lên cõi an vui như cõi trời hoặc Phạm thiên chẳng hạn. Chỉ khi hành thiền Tuệ Quán (vipassana-bhavana) chúng ta mới thoát khỏi được mười kiết sử (dasa samyojana) và đạt được bốn quả Thánh đưa đến Giải Thoát. Bốn quả Thánh đó là Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai và A-la-hán.
Ba kiết sử đầu tiên là thân kiến (sakkaya-ditthi), hoài nghi (vicikiccha), và giới cấm thủ (silabbata-paramasa) chỉ vượt qua được khi đạt quả Nhập Lưu. Ai đã đạt được quả vị này sẽ không tái sinh vào bốn khổ cảnh: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, và A -tu-la [3]. Không những thế, các Ngài không tái sinh quá bảy lần. Khi lâm chung, các Ngài chỉ thấy hình ảnh cõi người hay cõi trời mà thôi. Ai hành thiền tiến xa hơn nữa sẽ đạt được quả vị Nhất lai khi kiết sử thứ tư là dục ái (kamaraga) và thứ năm là sân hận (patigha) đã bị suy yếu. Các Ngài chỉ còn tái sinh thêm một lần mà thôi. Hình ảnh hiện ra khi hấp hối cũng là hình ảnh cõi người hay cõi trời. Người nào hành thiền và diệt được hoàn toàn kiết sử thứ tư và thứ năm, nghĩa là dục ái (kamaraga) và sân hận (patigha), sẽ không tái sinh lại cõi người nữa. Các Ngài sẽ tái sinh vào thiên giới gọi là Tịnh Cư Thiên, và sẽ nhập Niết bàn sau đó. Những vị này chỉ nhận được hình ảnh chư Thiên khi hấp hối. Khi hành thiền nếu tiến được xa hơn, chúng ta có thể đạt được quả A-la-hán khi loại trừ năm kiết sử còn lại. Đó là sắc ái (rupa-raga), vô sắc ái (arupa-raga), mạn (mana), trạo cử (uddhacca), và vô minh (avijja). Các Ngài đã đạt được quả vị cuối cùng, và khi lìa cõi đời sẽ không thấy hình ảnh gì cả.
Niết bàn là đích cuối cùng do Đức Phật tìm thấy qua thiền Tuệ Quán. Các đệ tử của Ngài đi trên con đường do Ngài chỉ dạy, và phải nhờ thiền Tuệ Quán mới đạt đến Niết bàn. Những hình ảnh hiện ra chỉ là những ánh đèn khi mờ khi tỏ tạm soi kiếp sống con người. Mục tiêu cuối cùng, ngọn đèn sáng thật sự ở cõi Niết bàn, chỉ đạt được qua thiền Tuệ Quán mà thôi.
Chú thích:
-----------------------------------
[1] Lời người dịch: Nguyên bản "Five Visions of a Dying Man", tác giả Hòa Thượng Rastrapal, thuộc loạt sách Lá Bồ đề, số 150 (Bodhi Leaves No. 150) do Hội Ấn tống Kinh sách Phật giáo (Buddhist Publication Society) tại Tích Lan xuất bản, năm 2000.
[2] Lời người dịch: Chiều thứ tư thuộc về thời gian, ba chiều kia là chiều ngang, chiều dọc và chiều sâu. Thế giới chúng ta đang sống có ba chiều. Theo giả thuyết, nếu được sống trong không gian bốn chiều, chúng ta có khả năng đi ngược về quá khứ hay tiến thẳng đến tương lai rất dễ dàng.
[3] Lời người dịch: Tỳ kheo Tịnh Đức có bình luận thêm rằng nếu người hấp hối thấy máu, đâm chém hoặc hình ảnh nào có sắc thái giận dữ thì sẽ tái sinh trong cõi A-tu-la. Có hai loại A-tu-la (Asuras): A-tu-la Thiên và A-tu-la thọ khổ.
Nguồn:thienlybuutoa.org
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.
10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS) Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides