PHỤC HỒI SỨ MỆNH
(Trích SỰ NGHIỆP TRUNG HƯNG)
PHẠM VĂN LIÊM
Tiếp tục củng cố quyền pháp Trung Tông Đạo, phục hồi sứ mệnh trung hưng, Ơn Trên cho tuôn chảy về dòng suối giáo pháp, mở lối xây móng đắp nền từ cơ sở thánh thất với mô hình Đầu Họ, Ban Cai Quản gồm Hành Chánh, Phổ Tế, Phước Thiện, Minh Tra, Nữ Phái, các Ban Trị Sự. Ơn Trên minh thị đường lối quyền pháp, bắt đầu là thánh thất Trung Thành rồi lan dần đến các thánh thất Trung Đức, Trung Kiên, Trung Khánh, Trung Mỹ…
Đàn tại Tịnh Đường ngày 08-7 Giáp Thìn (15-8-1964):
THI
NGÔ khai chánh giáo độ quần sanh
MINH lãng ([1]) nhờ nơi ở chí thành
CHIÊU dụ chơn linh về một cội
Mừng cho vạn loại được hòa thanh.
Bần Đạo chào chư môn đệ.
BÀI
Đêm thu rảo bước lại đàn
Để lời nhắn nhủ luận bàn Đạo thâm
Nền chánh pháp mấy năm truyền bá
Chưa bao người lòng dạ chăm lo
Chỉ tranh phẩm vị nhỏ to
Theo phần sắc tướng nào lo tu hành
Cho quyền tước lợi danh là quý
Mối Đạo mầu khắc kỷ lờn khinh
Chạy đua theo bả thế tình
Nơi lòng đen tối sao minh lẽ Trời
Mải hụp lặn cõi đời vật chất
Điểm linh quang làm mất nào hay
Mùi đời say đắm đắm say
Ôi thôi mãn kiếp đọa đày trầm luân
Nơi trần thế vui mừng sung sướng
Không lo tu phải vướng tội tình
Đến ngày sa đắm ngục hình
Bấy giờ mới rõ là mình khờ ngây
Đường tu học có Thầy có bạn
Sao không lo ngày tháng dồi trau
Đã cùng một Đạo với nhau
Không thương sao lại ghét nhau cho đành
Cho thánh thể phui phanh nhiều mối
Càng thị phi tội lỗi càng thêm
Nỡ nào đoạn nghĩa anh em
Không thân sao lại nỡ đem oán thù
Dù chi cũng bạn tu một Đạo
Nỡ lòng nào cơn khảo mà xa
Làm cho mất vẻ thân hòa
Thiên Cung đến nỗi Trời Cha buồn lòng
Tu sao được Hoa Long dự bảng
Tu sao mà được rạng tuổi tên
Đạo mầu xây dựng móng nền
Móng nền xây dựng mới nên thân trò
Dù ở thế quyền to chức trọng
Không tu thì chớ mộng gần Ta
Kẻ nào chánh pháp lánh xa
Thì là phải chịu quỷ ma giựt giành
Kẻ nào biết luyện phanh hằng bữa
Thì Ngọc Kinh mở cửa đón mời
Nhẹ nhàng Cung Ngọc dạo chơi
Thoát vòng sanh tử đời đời an vui
Tu hành còn ham mùi tục lụy
Không chịu lo khắc kỷ luyện phanh
Làm sao tâm thể tịnh thanh
Tịnh thanh mới được an lành Trời ban
Muốn được đứng vào hàng thuần phác
Đường lợi danh phải tránh cho xa
Chớ ham cái cảnh phồn ba
Để thân bạn với quỷ ma giựt giành
Đời mạt tận chiến tranh năm cõi
Có mấy ai tránh khỏi nghiệp trần
Mấy ai khỏi bảng Phong Thần
Trả vay vay trả duyên nhân một thời
Tai vạ đến bầu trời chung chịu
Bởi nghiệp căn chuyền nối từ xưa
Gần đây tội ác chẳng chừa
Ác lai ác báo nào ai nó từ
Đấng Thượng Đế vô tư hằng sống
Lòng từ bi đức rộng thi ân
Xót thương sanh chúng ở trần
Đạo mầu truyền khắp xa gần cứu nguy
Thương những kẻ ù lỳ chậm chạp
Tu mà còn đạo pháp chưa thông
Làm sao bờ giác được trông
Làm sao cho được Tiên Bồng bước lên
Ai là kẻ gan bền chí nhẫn
Thì từ đây tinh tấn bước tu
Một lòng công quả, công phu
Độ tha, độ kỷ chu du tháng ngày
Tu như kẻ nghiện say mới đúng
Tu sao cho diệu dụng thâu về
Tu cho giác tỉnh đừng mê
Tu sao cho được Cung Nê ([2]) sáng ngời
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ([3])
Hằng giờ giao cảm Phật Trời
Độ mình được trọn độ đời được nên
Ngày bốn buổi chớ quên đừng lảng ([4])
Để hồn linh làm bạn Thần Tiên
Được vầy mới gọi pháp quyền
Pháp quyền được trọn mới yên được người.
Nền trung hưng chánh pháp đã được ban ơn tái lập. Từ đây chư hiền đồ phải có gắng để tâm xây dựng. Hễ đạo pháp đến đâu thì kế chước của quỷ ma cũng đến đó mà giựt giành. Nếu ta thờ ơ chểnh mảng thì sẽ bị chúng nó phỉnh lừa, khiến cho nền đạo pháp phải bị lu mờ, nhơn sinh khó bề tu học. Vẫn biết việc làm phải trải qua nhiều công lao khó nhọc, nhưng cũng cần khó nhọc thì công quả mới được trọng phần. Nếu sứ mạng đã giao cho mà không hết lòng để đi đến thành công thì công đức đã không có, mà tội lại càng nhiều. Cái công đức độ cho người tu hành nó to lớn biết chừng nào. Cứu được một linh hồn bằng cứu trăm ngàn xác thịt. Vì xác thịt có sống cũng chỉ sống trăm tuổi là cùng, còn linh hồn thì sống muôn đời bất diệt.
Mọi việc chiếu theo thánh ý lâu nay mà thi hành.
Theo dòng chảy của nguồn ơn tái lập, các Đấng đã dồn điển lực giáo hóa các Thiên ân phải cố gắng để tâm xây dựng về hạ tầng. Nhiều thánh thất mở các khóa tu hướng dẫn nhân sinh từng bước vào đường chánh pháp, từ công truyền sang tâm pháp. Quý Thiên ân Nguyễn Hậu, Hồ Tân Sinh, Huỳnh Minh Tuyến, Ngô Thanh Toàn được lệnh Ơn Trên mở các đợt tu tịnh xây dựng nề nếp. Nơi nào gặp khó khăn, đức tin lỏng lẻo thì Tiếp Cơ Quân Liên Hoa đến lập đàn để củng cố thiện duyên trong cơ vận chuyển.
Song song với việc truyền pháp và thọ pháp tu, chương trình Phước Thiện được Thiêng Liêng nhắc nhở để tín chúng giữ gìn cái tâm háo đức lạc thiện, cái chí giải thoát cho thân, thành công cho chánh pháp. Phước Thiện là mạch sống của nhân sinh, một phần trong cơ tận độ được Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn (Huỳnh Ngọc Trác) hộ trì phần vô vi. Đức Chí Tôn ân phong tiền bối Nguyễn Hồng Phong (1894-1947), nguyên Học Viện Trưởng Quyền Hội Thánh, là Định Quang Phổ Diệu, và tiền bối Tuệ Minh Nguyễn Như Phương (?-1945), chức sắc Phước Thiện tại thánh thất Trung Đức, là Định Minh Phổ Chiếu. Hai vị cùng với Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn hộ trì Phước Thiện.
Tại chi hội Phước Thiện, đàn ngày 10-7 Giáp Thìn (17-8-1964), Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn dạy:
Đứng trước tình thế rối ren, nhơn dân đồ thán, cảnh huống tương tàn tương sát, đồng bào, Tổ Quốc nằm trong trạng thái phiêu linh. Trong nước không người hiền lương quân tử dẫn đạo cho chủng tộc, xã hội. Vận nước yếu, dân hèn trông cậy sức mạnh bên ngoài, không tự chủ tự cường để bị động, gây máu xương bằng nồi da xáo thịt. Đời như thế, cải tạo cuộc đời cho Nam Bắc thân hòa, cho cả Á Âu lành mạnh. Cuộc đời đỏ đen tranh cạnh đủ mưu mô, xảo quyệt, đưa cả thế giới loài người vào cảnh hắc ám khổ đau. Nếu pháp quyền đạo đức không cao, thiếu mặt Thánh Hiền, lấy đâu để tài thành cho Tạo Hóa? Nên người Thiên ân xứng đáng để từ bi hỷ xả mới hiểu sao, và cảm hóa làm sao?
Vậy đại ý Bản Thánh muốn các em hiện nay đã qua thời kỳ lý thuyết, đi đến thực hành, phải bỏ công bỏ của mà cứu nhơn sanh để giải nghiệp giải oan, phá vô minh phiền não, mới nhẹ bước mà sang qua cửa đạo học vô vi bí giáo chứng pháp quyền.
Đàn ngày 15-7 Giáp Thìn (22-8-1964), Đức Chí Tôn dạy:
Từ đây con làm xong bổn phận
Từ đây con lẩn thẩn sao nên
Sẵn đà con gắng tiến lên
Sẵn cơ vận chuyển con nên tu hành
Đứa còn phải chạy quanh trong tục
Thì cũng đành thôi mất giờ tu
Đứa nào bước đến công phu
Chuyên tâm trì chí cho mau hội này.
Cơ vận chuyển đặt lại quyền pháp từ quý Thiên ân ở Tịnh Đường đến các họ đạo Trung Thành, Trung Đức, Trung Khánh, Thái Hòa, Trung Kiên, Từ Quang. Các họ đạo nầy được ơn xây dựng làm chỗ thông giao bủa gieo hồng ân cho toàn đạo. Đức Giáo Tông củng cố tinh thần Đầu Họ Đạo Thượng Khải Thanh để hậu thuẫn cho việc lập Cơ Quan Giáo Pháp và hướng dẫn Thừa Sử Hồ Tân Sinh thực hiện hồ sơ cho bộ máy giáo pháp.
Đàn ngày 15-7 Giáp Thìn (22-8-1964), Đức Giáo Tông dạy:
Hiền Thừa Quân xếp cho một hồ sơ để lưu giữ nơi Trung Tông. Hồ sơ nầy, ngoài cái áo bọc [chemise], chư hiền đề sao?
[Thừa Quân bạch …]
Hồ sơ số 1: Đặt lại vấn đề quyền pháp trong mấy bản:
1. Cáo lệnh;
2. Trích thánh ý Thượng Chánh Phối Sư (23-6);
3. Vi bằng;
4. Lời cáo bạch.
Cáo lệnh dâng hồ sơ. Hồ sơ nầy lấy chữ ký đủ các hàng Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự ở Trung Thành và các Thiên ân tương quan trong bộ máy Giáo Pháp rồi sẽ ban hành. Phải đầu tháng 9 nhưng chậm được thì nhẹ một đôi phần khảo đảo. Vì chờ thái vận ứng vào (đệ tam thập cửu châu niên). Ngày đặt bộ máy cầu Thầy ban ân ở nơi giáo đường, thì chừng đó có khởi công cũng không lo ngại lắm.
Việc tái ban sứ mạng trung hưng, Ơn Trên cho xây dựng quyền pháp ở cơ sở thánh thất. Đàn tại thánh thất Trung Mỹ ngày 08-8 Giáp Thìn (13-9-1964), Đức Giáo Tông dạy:
Cũng vì quyền pháp của Hội Thánh Trung Hưng bị suy yếu, mất mát đã nhiều rồi, nên Thầy mới ra lệnh tái lập. Lão đã gởi gắm nhơn sanh cho người có trách nhiệm, nghĩa là Lão cho phép các thánh thất được độc lập hành đạo.
Độc lập nghĩa là đứng một mình, không còn chịu dưới quyền điều khiển của Hội Thánh… Ấy cũng là một phương cách xây dựng một Hội Thánh lành mạnh.
Nếu thấy sai mà cứ a tùng tức ta giúp cho cái sai ấy to lớn thêm lên, để rồi đem lại cho nhau một hậu quả tai hại cho toàn đạo.
Độc lập đây không nghĩa là chia phe rẽ phái. Độc lập là một yêu sách đòi hỏi chức sắc bề trên phải cải đổi lỗi lầm. Trong thời gian độc lập, ta muốn cho có một hiệu lực, các hiền cũng như toàn đạo phải triệt để thi hành chủ trương bất hợp tác. Có thế mới làm cho người thừa nhận con đường chánh pháp của Thầy.
Với quyền hạn là Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Lý Thái Bạch minh định:
Quyền pháp đặt ra có tôn ti trật tự là để cho nhơn sanh nương bước tự lập vị mình. Trong Hội Thánh có ba quyền:
1. Quyền Thượng Hội từ phẩm Đầu Sư, Chưởng Pháp đến Giáo Tông là ngôi vị trọn lành. Đức rộng đạo cao, trên thay quyền Trời, dưới thể nguyện nhơn sanh mà điều hành cơ đạo. Phẩm vị ấy dưới trần gian nầy chưa có người tu chứng mà giữ lấy quyền pháp đó.
2. Quyền Hội Thánh từ Giáo Hữu, Giáo Sư đến Phối Sư chịu mệnh lệnh của Thượng Hội mà ban đặt chỉ thị an bài nội bộ dưới trên. Những hàng phẩm nầy phải là người thượng thừa xuất gia ly tục, không còn dính mắc danh lợi ở thế gian. Vì vậy Pháp Chánh Truyền đã ấn định không một ai vượt khỏi luật lệ mà giữ lấy chức vị cao trọng của giáo quyền. Nếu kẻ phạm phải luật hình thì quyền pháp buộc phải đưa ra. Nên Cơ Quan Giáo Pháp, Lão khuyên chư hiền nếu ai ở trong hàng đẳng Giáo Hữu trở lên là người phải giải thoát hoàn toàn. Nếu phạm vào Ngũ Giới Cấm, Tứ Đại Điều Quy, phạm Pháp Chánh Truyền thì không thể vị tình riêng mà để yên trong Hội Thánh làm trở ngại cho bước tiến của nhân sinh.
3. Hạ Hội thì từ tín đồ mới vào Đạo. Tất cả phải trọn tin ở quyền pháp đã ấn định. Phải giữ năm giới, hai mươi bốn điều Thế Luật, được sống trong sự che chở của Thầy. Ví như nhứt bất sát sanh, tuy giữ sáu ngày chay nhưng không sát hại sinh linh, tiến lên không sát mà phóng sanh và cứu độ chúng sanh, chỉ cách giải thoát cho người.
Người đạo hữu an phận trong đơn vị xã đạo, dưới quyền dìu dẫn của Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự.
Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự tiến thêm một bước nữa giữ mười ngày chay trở lên, hy sinh chút quyền lợi gia đình, đem thân đóng góp với Giáo Hội bằng sự lập công, chịu trách nhiệm một xã đạo dưới quyền Lễ Sanh.
Đầu Họ là người được sắp dự vào hàng Thiên phong, phải trường trai, giới hạnh, tỏ ra xứng đáng làm đàn anh trong đám nhơn sanh; phải có bản lãnh đúng đắn, bản sắc hơn người, để giải thoát thô lậu mà bước lên hàng chức sắc của Hội Thánh.
Thì từ đây toàn đạo cũng nên ghi nhớ lời Lão mà xây dựng bản thân, xây dựng hàng ngũ nhơn sanh và nội bộ quyền pháp, thì quyết rằng ơn che chở, dầu đạo hữu sống trong cảnh ngộ biến đổi, tao loạn như thế nào, lòng cũng yên như bàn thạch…
Vì vậy từ nay trở đi, một lần nữa Lão khuyên nên vì đại cuộc mà làm tròn bổn phận. Về hồng ân chảy đến mà đạo hữu có hưởng được hay không là tại ở lòng đạo hữu. Đạo hữu phải thanh tịnh, đừng vọng loạn, điên đảo mà khó nhận lấy ơn phước từ Trời.
Như các đạo hữu là những cây kim. Kim phải để yên chỉ kia mới luồn qua được. Nên lúc nầy cần tập tịnh tu, hoặc quỳ hương cúng nước, luyện châu tịnh thần để lòng không lo sợ.
Song trong hồi bát loạn, ma quỷ lộng hành, các hiền cũng không đủ trí tuệ mà nhận xét đâu phải đâu trái, đâu đúng đâu sai. Cứ dễ hơn là lấy giới hạnh làm thầy, căn cứ đó mà đo mà đánh giá.
Song ma quỷ có nhiều yêu thuật khó lường. Nhưng mỗi người đã ở yên phận vị, đừng buông đây bỏ đó, thì làm gì chúng lừa phỉnh được ai. Ngặt có người lòng hay ngờ vực. Phải nói không, không nói phải; bắt được lại buông, buông rồi lại bắt. Lòng không tỉnh định, nên vọng thức che án linh năng.
Có một điều, hiện nay đạo hữu phân vân nhất là cơ bút. Cơ bút chỗ này chỗ kia, ở đây ở đó không duy nhất, không rõ ràng mà còn chống đối nhau thì làm sao tin được. Đó cũng là duyên phần, mà cũng ở cơ chọn lựa. Dầu không phải của ma quỷ, cũng có chỗ không đồng hòa duy nhất là vì trình độ tâm đức hơn kém, xu hướng nhiều nơi không đồng mà có lời dị biệt.
Ví như luồng điện phát ở một chỗ mà sự hình hiện tùy theo dụng cụ như đèn thì sáng, như quạt thì xoay. Cũng có thể nói không khí ở thành phố náo nhiệt đông đúc thì khí chất nhơ bẩn đen đục, hít vào có hại cho phổi cho gan. Nếu ở thôn quê thì tương đối điều hòa, khí lành trong trẻo. Nếu vượt ra ngoài trần tục thì không khí biết bao thanh sạch tươi lành. Thì cơ bút cũng vậy, do người đồng tử và do trình độ nhân sinh.
Lão cũng thấy lòng toàn đạo chọn lấy đường để đi, tìm lấy nơi để tựa, mong sống trong ơn cứu độ của buổi Tam Kỳ, nên nhận một đạo Cao Đài là mục đích, nên y ỷ phát tâm, tin trên có sự vận chuyển của vô hình, bằng đủ cách để độ dẫn nhân sanh, nhứt là thường đến với huyền diệu cơ bút.
Vì lòng người thường hay quên, sự đời thường ám ảnh, sống trong cảnh đen tối đau khổ, nhứt là cảnh tang thương biến loạn trong lúc nầy, nếu không có sự nhắc chừng, sự an ủi, sự dạy khuyên của Thần Lẽ Thật của Đấng Cha vô hình thì làm sao tu được. Vì vậy cần có cơ bút để dẫn đạo, mà cũng nương cơ bút để quyền pháp Thượng Hội chỉ thị dạy bày. Cũng nhờ trong khi bước vào cảnh biết được cảnh mà đề phòng, biết được sự chỉ dẫn của Thiêng Liêng mà tùy cơ ứng biến trong cơn bối rối. Song cũng có nhiều nơi lạm dụng cơ bút để làm lợi khí cho hành động của mình… Nhưng “nhơn nguyện như thử như thử, Thiên lý vị nhiên vị nhiên”.([5])
Hiện nay nhơn loại trên hoàn cầu đã trải qua nhiều thử thách, lòng người lo âu, lòng người e sợ. Họ đương loanh quanh để tìm một lối đi về ai và đến đâu là phải. Nga chăng? Mỹ chăng? Âu chăng? Á chăng? Thiên Chúa, Tin Lành hay Phật Đà, Khổng Mạnh? Khó thay!
Xét về lịch sử đã qua, tấn tuồng hiện tại, làm sao dám quyết đó là phải hay trái. Nói phải trong có trái , nói dở trong có hay thì phần nào cũng đáng nghi ngờ lo ngại. Con đường còn xa xăm chưa quán thông, mà ý thức con người trở lại đánh giá bằng cách tương đối thế gian. Vì nó phát xuất từ một nước nhược tiểu, một dân tộc nhỏ nhoi, không quyền chẳng vị. Nên chỉ có người chán với danh nhàm với lợi, ngán với thế, sợ với quyền thì mong vào Cao Đài học đạo mà thôi. Còn đám cậy mong quyền đời thì có ai để ý.
Về quyền pháp thì chư đạo hữu cũng như toàn bộ Cơ Quan Giáo Pháp tin ở Lão có đủ sức che chở, có đủ cách dìu dắt thì có ngại gì mà thối thác, ngại gì mà âu lo. Miễn phận vị mỗi người ở cấp bực nào làm tròn xứng với bổn phận của nó là đủ. Nên nói để Khải hiền đệ cảm thông và toàn đạo tâm biết mà lo lập công tu học.
Hôm nay Lão cũng chứng kiến sự thành hình một Cơ Quan Giáo Pháp để dìu dắt nhơn sanh trong hồi tao loạn. Trong khi Hội Thánh chưa được cảm thông thì các hiền đệ vô tâm đứng trên tinh thần tự giác giác tha mà đảm đương quyền pháp. Chờ một ngày sự vận chuyển của Ơn Thầy đâu đó hòa thân, dưới trên liền một, thì ngày đó ta sẽ chào đời một cách huy hoàng, nói lớn với năm châu bốn biển chỉ có Cao Đài mới thật sự hòa bình, thật tâm xây nền thịnh vượng chung cho bốn biển. Cao Đài đến để hàn gắn những sứt mẻ từ xưa đến nay cho nhơn loại bởi phái phe giai cấp, để duy nhất một mối đạo hoàn cầu. Dầu các tôn giáo phải được còn, thì trên mặt đất nầy cũng chia nhau mà chung lo cùng một phận sự. Nên Lão cũng nhắc lại chư hiền cốt là làm sao cho đúng với chánh pháp chơn truyền.
Giai đoạn Khai Cơ Giáo Pháp bắt đầu từ năm Đinh Dậu (1957). Ơn Trên chuyển linh cơ dạy Trung Tông Đạo theo từng hoàn cảnh, từng điều kiện, từng con người. Trải dài hơn sáu năm chìm trong khảo thí chia lìa, chống đối, cơ Giáo Pháp vẫn khế cơ vi diệu để nhơn sanh được sống trong ơn điển độ dẫn của Thiêng Liêng. Đức Lý Giáo Tông cho lập Cơ Quan Giáo Pháp hầu mong đưa Hội Thánh đến ngày tròn ân sứ mạng. Đạo hữu các thánh thất mẫu được dìu dắt theo con đường chỉnh pháp của sứ mạng trung hưng. Các Đấng đã xuống điển hướng dẫn đường tu. Để thích nghi cho hàng tín chúng vào pháp tu châu, Thầy cho truyền Hồi Hướng Linh Châu là tầng bậc tu châu thứ nhất. Đây là bậc tu xây dựng nền móng luyện bảo châu cho hàng đạo chúng do Đức Nam Cực Tiên Ông ban truyền tại thánh thất Trung Khánh ngày 24-8 Giáp Thìn (29-9-1964).
Sau khi chỉ truyền cách luyện và trấn thần chuỗi châu năm mươi bốn hạt cho những đạo hữu giữ chay mười ngày xin thọ, trong phần tiếp cầu, Đức Giáo Tông dạy:
Giờ nầy Lão đến cùng đạo hữu, đạo muội nơi đây với tấm lòng thiết tha giác ngộ. Lão cũng hoan hỷ mà dành riêng một phần thưởng trong cơ Giáo Pháp để mừng với sứ mạng chiều sớm tu học dìu dắt lẫn nhau mà chờ ngày hội ngộ cùng Thầy.
Nói giáo pháp là nói sự truyền đạo, mà giáo pháp đây là giai đoạn thứ nhì của sứ mạng trung hưng để hoàn thành cơ cấu quyền pháp và kinh chương, thì Hội Thánh hay Nhà Tịnh cũng không khác, mà dầu ở Truyền Giáo hay Tây Ninh và các phái kia nữa cũng không phải hai. Dầu nói chung tất cả các phái trong đạo Cao Đài với Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo cũng không phải là hai, mà chỉ có một.
Cơ Giáo Pháp mở ra con đường hồi đầu thị ngạn, con đường chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Tân Luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ quy định về tịnh thất: “Trong hàng tín đồ ai đã xử trọn nhơn đạo và giữ trai giới tứ sáu tháng sấp lên thì được xin vào tịnh thất mà nhập định.” Chuỗi châu năm mươi bốn hạt là con số phục sinh, con số quay về với bến bờ sự sống. Trong kinh cúng Đức Diêu Trì do Thể Liên Tiên Nữ giáng ban có hai câu: Đừng cho xiêu lạc vất vơ / Xin cho biết bến biết bờ sanh sanh. Bến bờ sanh sanh là con số năm mươi bốn hạt châu. Số 5 là thiên ngũ sanh thổ, số 4 là địa tứ sanh kim. Số 5, số 4 đều là hai số thiên sanh địa sanh (sanh sanh chi vi dịch).
Pháp Hồi Hướng Linh Châu được ban truyền, sau đó Trung Tông Đạo tổ chức đợt tu tại Cơ Quan Giáo Pháp (ở Tịnh Đường, cũng là thánh thất Trung Thành). Đàn cơ ngày 08-9 Giáp Thìn (13-10-1964), Đức Ngô Minh Chiêu dạy:
Bần Đạo chào chư môn đồ nam nữ có mặt tại đàn.
Giờ nầy Bần Đạo đến cùng chư hiền đồ với một niềm hân hoan tràn đầy thiên khí.
Chư hiền đồ ôi! Có thấy chăng giữa lúc cảnh đời từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, chỗ nào cũng đầy dẫy ác khí, đương lăm le hút loài người vào hỏa lò nguyên tử? Muôn loài đang sống với cảnh phập phồng lo sợ. Lo sợ không biết cái chết ngày nào nó đến với mình. Đã biết cái chết rất thảm thê đau khổ ấy mà nào có mấy người giác ngộ để tìm lại con đường sống đâu. Họ còn vô minh ngã chấp nên không nhận chân được phương môn cứu độ của Thầy.
Cũng có rất nhiều người đem tất cả tâm não, trí lực suy gẫm, xét đoán mong mỏi đến ngày Giêsu Christ tái lâm, nhưng nào họ có biết Giêsu tái lâm ở nơi nào và đã tái lâm chưa. Cơ cứu chuộc của loài người Lần Ba này ở đâu? Bao nhiêu sự suy nghĩ, mỏi mong, đợi chờ ở đầu óc của mọi người. Họ có ngờ đâu tại nước Việt Nam nhỏ bé nầy mà Đấng Ngôi Hai xuất thế.
Xuất thế độ người buổi loạn ly
Nam bang hạnh ngộ buổi Tam Kỳ
Có duyên gặp Chúa lo tu học
Đắc thọ chơn truyền cứu nạn nguy.
(…)
Từ ngày cơ sở Giáo Pháp được thành lập, người nào thọ lãnh trách nhiệm thì phải làm xong. Ai nấy cũng được sống trong ơn Giáo Pháp.
Cơ Quan Giáo Pháp được Ơn Trên hướng dẫn từ việc hành chánh đến việc thọ pháp. Ví dụ: Một người xin tịnh xin tu phải có đơn. Ban Giáo Pháp phải xét trước khi đưa Tịnh Đường. Tịnh Đường chỉ nhận đơn, không còn xét nữa. Theo luật của tịnh thất thì vào nhập tịnh phải trường trai, nhưng ở đây được chế giảm là thập trai. Tuy nhiên những người ăn chay sáu ngày cũng được khuyến khích cho tập sự. Đức Ngô dạy: “Về số người ăn chay sáu ngày tuy không được thọ pháp tu nhưng cũng được khuyến khích. Đó cũng là bước đầu của con đường học đấy.”
Các bậc Tướng Châu, Tâm Châu, Tam Bảo Hoàn Châu phải nghiêm túc theo quy thức, phải nhẹ bớt công việc thế gian, tuy làm ăn như thường nhưng tâm thì tinh tiến trên đường giải thoát nghĩa là không ham danh chuộng lợi.
Cơ quan Giáo Pháp từ đây được các Đấng liên tục giáng đàn thúc giục việc truyền pháp cứu độ nhân gian. Ngày 08-11 Giáp Thìn (11-12-1964) Đức Ngô giáng đàn điểm danh các vị Liên Hoa, Sinh, Hậu, Huệ Minh, Đức, Cư, Tuyến, Toàn, Yến. Ngài dạy:
Về công việc cứu độ chư linh đã được ơn Thầy chấp nhận, tùy theo căn nghiệp mà được vãng sanh hay tái sanh.
Đứng trước cảnh đời thảm khốc, bổn phận cứu độ của các trò lại thêm nặng nề trọng trách hơn nữa. Mọi người có đủ điều kiện để cứu giúp như đói có gạo ăn, lạnh có mền đắp, đau có thuốc men. Sự giúp đỡ của họ đã đem lại một thành quả tốt đẹp, mà các trò cũng đương mong ước nếu mình làm được như họ thì khoái chí biết chừng nào.
Tại sao các trò thiếu sự nhận hiểu để cho việc làm của mình thiếu phần nhận thức? Cái người ta có thì mình không, cái mình có thì người cũng khó tìm ra được. Cái của mình là cái gì? Có phải cái đạo mầu của Thầy đã ban trao cho các trò đó không?
Cái công cứu cho người có ăn có mặc, để xác thịt được no đủ mạnh lành, có được kết quả cũng chỉ cứu được cái xú bì nang ([6]) tạm sống ở cõi đời mà thôi, rồi đến ngày định mạng cũng phải chết. Nếu chết mà không có đạo đức, thì phải chịu cảnh khổ đời đời.
Còn đây các trò, nơi mình đạo pháp có sẵn, có cho mấy cũng không hết. Các trò sao không đem ra mà bố thí cho người để cứu độ linh hồn cho họ được đời đời còn sống bất diệt? Cái sự cứu độ nầy công đức có thể gấp trăm vạn lần so với sự giúp đỡ kia, sao các trò không lo trên bước lên đường cứu độ chúng sanh mà còn ước mong những gì xa lạ? Trong việc bố thí thì chỉ có bố thí pháp là công đức vô lượng vô biên…
Đàn ngày 05-12 Giáp Thìn (07-01-1965), Đức Ngô dạy:
Con đường tận cứu Kỳ Ba của Thầy, nếu bỏ phương môn tu luyện ra thì cũng không khác gì các tôn giáo xưa cũ kia.
Bần Đạo rất thương cho đa số được sống trong nền tâm pháp còn bị đen tối, chưa thấy được con đường cứu rỗi của ta, đã phải chung nhau đi theo con đường thanh, âm, sắc, tướng. Thật đáng thương!
Chư hiền nơi đây có duyên phước được ơn Thầy cứu độ, lòng mình được tỏ sáng, nhận thấy được con đường cứu chuộc của Thầy, thì các hiền phải cố gắng giồi luyện cho mình được thành. Đồng thời lãnh phần sứ mạng cứu độ cho tất cả quần linh.
Đức Cao Đài Tiên Ông dạy:
Phải tu cho chứng. Chứng rõ ràng. Lòng không bận lo phiền não, thân không bệnh tật buộc ràng, trí xét đoán công minh rõ tà rõ chánh. Nói xuất thần phải thấy thần biến hóa. Nói đắc đạo phải thấy đạo nhiệm mầu. Đừng tin vu vơ, nói không sách vở. Thầy đến lần nây là chứng minh… Đây, Thầy còn nhiều chương giáo pháp.
Cũng cho các con biết thêm rằng cái trọng nhiệm đóng vai Trung Hưng chẳng phải ở phần vận của Thầy mà đủ, mà phải ở những con hướng đạo đắc đạo. Đắc đạo không phải như sự hiểu lầm của các con từ lâu, chết rồi được cứu, mà đắc đạo là đắc được ý Thầy tạo thành vạn vật, đắc được ý người thuận lẽ thành tựu thế gian.
Thầy nói thiệt cùng các con, danh Thầy rất quan trọng, pháp Thầy rất thiết dụng. Nếu Thầy không làm cho con nên, Thầy chưa phải là Thầy. Nếu pháp Thầy không giải thoát cho các con ra ngoài vòng sanh tử, thì danh Thầy cũng hư. Mà danh Thầy hư thì quyền pháp đừng mong cứu độ, sự tái tạo và bảo tồn cũng đừng trông đợi uổng công.
Vậy các con nhớ rằng Đạo Trời mầu nhiệm, con còn phải học nhiều. Có thể một kiếp tu thành, hoặc cần trăm ngàn kiếp nữa mới chứng. Đừng nghĩ rằng sự mầu nhiệm chỉ có bấy nhiêu. Mà nếu chỉ có bao nhiêu con đạt được, thì con coi nhiêu đó có đủ chống đỡ trời đất không? Khiến nổi chúng sinh không?
Còn nhiều lắm, một kho tàng ẩn giấu nhiều lớp nhiều ngăn. Con học, học nữa, học cho nhiều. Không phải nhốt vào chỉ ba năm tám tháng hay chín năm mà các người đệ tử đã phải làm xong.
Song nói học cho rành lẽ đạo thì dầu cho hóa thân như cát sông Hằng cũng khó cho thông. Mà học là học cái đạo vô vi phá được cái vô minh, đoạn được cái lòng mê chấp. Tâm được minh, tánh được tỏ, là được đắc đạo rồi.
Trời đất tuy to lớn nhưng rút gọn trong một chữ như. Con đọc Bát Nhã để thấy tánh chơn không. Con đọc Lăng Nghiêm để thông tâm bình đẳng. Con xem kinh Kim Cang tìm biết tứ diệt tướng.
Vạn pháp do tâm, thì lòng con lâng lâng nhẹ bổng, thân con cởi mở tự do. Người với con không còn phân biệt. Trời đất với con chẳng còn xa cách.
Đàn ngày 20-3 Ất Tỵ (21-4-1965), Đức Giáo Tông thúc giục vào đường tu đơn luyện đạo:
THÁI Tổ, Thái Sơ kết đạo đơn
BẠCH vân viên tụ xuất nê huờn
TIÊN thiên chế luyện thành chơn nhứt
ÔNG luyện trần gian lập thượng nguơn.
THI
Mười bốn năm qua pháp lập rồi
Cớ gì chư đệ nỡ cho trôi
Trung hưng không lẽ trung hưng nữa
Còn bốn năm sau gấp vãn hồi.
Ngay tại thánh địa Nam bang mở nhiều đạo tràng thí pháp, cho biết ngày giờ khai hội kết chung thọ mạng của số hệ cũ, lập lại thánh đức thượng nguơn. Nay Lão cũng cho chư hiền biết sứ mạng trung hưng mười tám năm hoàn nguyên. Từ ngày ban chánh pháp năm Nhâm Thìn đến đây Ất Tỵ, tràng linh châu đã sắp giáp vòng, mà việc làm chưa đâu vào đâu cả.
(…)
Trung hưng đã lắm lời dạy bảo
Hiệp sức nhau kiến tạo lâu dài
Đừng lòng thương ghét chia hai
Đã sai thì bị nghiệp sai dẫn đường.
Các hiền đệ nhớ lại lời mình đã tuyên đọc khi đăng đàn hồng thệ, lãnh sứ mạng trung hưng phải y tâm pháp đối cân công bình, đem đời về đạo, lấy đạo cứu đời, mở một Công Đồng Giáo Pháp, xong một cơn thử thách vàng đá phân minh, mỗi người nhận lấy một chương trình.
Về các hiền đi sâu vào lối vô vi mà huyền đồng cùng lẽ đạo. Đã đành không phân chi lập phái, song cũng mang một hình thức dị biệt làm cho lòng người phân vân. Nên cần xác định: Nếu hộ trì Chiếu Minh Đại Đạo thì phải chính danh định phận hẳn hoi để được sự chuẩn y chấp nhận của Thiên điều hầu sau dễ bề sắp xếp. Mặc dầu nhánh nhóc chia nhiều cũng đồng một cội. Vì nhánh nầy nhánh kia gần nhau đâm tược xẻ đan mà gây nên tròng tréo. Vậy chư đệ nào muốn yên thân nhập tịnh thì lập pháp Chiếu Minh mà tu. Còn đường lối trung đạo phải theo Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, và đường lối trung hưng mà đi về nơi duy nhất Đại Đạo.
Con đường trung đạo Ơn Trên dẫn lối đã hiển lộ dần dần bốn tầng bậc công phu đi từ tướng pháp hữu vi Tam Giáo đến tâm pháp vô vi Tam Thanh. Công cuộc dẫn lối nầy Ơn Trên không đặt vào quyền pháp Hội Thánh ở Trung Hưng Bửu Tòa mà trực tiếp tận nhân sinh ở các thánh thất mẫu, theo hướng của Tịnh Đường. Giai đoạn nầy Giáo Sư Thượng Hậu Thanh đã về chấp chưởng Cơ Quan Hành Chánh.
Để đúng theo tinh thần công truyền và tâm truyền đồng hành, thế đạo thiên đạo kiêm tu, tướng pháp tâm pháp hiệp một, Giáo Sư chưởng quản Hành Chánh đã xúc tiến theo chương trình của Hội Thánh mở mang đường công truyền, thành lập họ đạo Trung Minh, an vị thánh thất tại Bình Thới (Chợ Lớn), lập khu định cư Quảng Ngãi tại thánh địa Linh Tháp (Tư Nghĩa), thành lập Trung Tâm Bảo Trợ Thiếu Nhi Hưng Đạo tại Trung Hưng Bửu Tòa.
Giáo Hữu Ngọc Cư Thanh thì kiên định theo pháp Chiếu Minh không sai một ly tấc cho nên việc gắn kết giữa Trung Hưng Bửu Tòa và Tịnh Đường chưa thuận hảo. Tiếp Cơ Quân Liên Hoa mặc dầu đã vào tịnh dưỡng nhưng khi tiếp ơn truyền pháp vẫn còn thủ cơ khiến nhiều vị bên Trung Hưng Bửu Tòa dị nghị rằng Tịnh Đường là của Chiếu Minh.
Đàn ngày 01-4 Ất Tỵ (01-5-1965) tại Tịnh Đường, do Huệ Minh Đức thủ cơ:
GIA ân lần chót độ muôn loài
TÔ điểm đất trời Đại Đạo khai
GIÁO huấn chúng sanh thành Phật Thánh
CHỦ quyền trên dưới một tay Thầy.
Ta nhơn danh cứu thế đến cùng chúng ngươi. Nơi nầy được ơn Ta. Ngày này được gội phước đầy dẫy ở Ta.
Cho phép các ngươi an tọa tại vị.
Nầy chư hiền đồ! Trước thảm họa của ngày cùng rốt, nhơn loại không trừ một ai mà thoát được lưới Trời lồng lộng. Cũng vì tội xưa còn lại, ác mới tội thêm, lòng từ bi mà Thượng Đế không nỡ xem đám con lũ lũ lăn nhào, để phải quăng thân vào lò lửa dữ.
Thầy cho Ta đến lần rốt nầy, hoặc nhơn danh Chúa, hoặc nhơn danh Di Lạc Bồ Tát để dẫn dắt loài người còn đôi chút đức tin ra ngoài vòng vây tự diệt.
Các ngươi đã nhận nơi Ta đến đây làm gì? Chắc cũng nhận thấy mình có một trọng trách ở Thầy để cùng hầu việc cho Thầy sau nầy, dựng lại cõi đời thượng nguơn thánh đức. Cõi đời mà Ta đã cho biết, cũng như các lời cầu nguyện hằng ngày của các ngươi “Lạy Chúa xin cho chúng con làm đẹp ý Cha trên trời, xin cho dưới đất cũng như trên trời” thì cõi đời nầy ngày mai các ngươi chưa từng thấy: Rắn hổ ở chung với chuột một hang, sư tử ăn cỏ cùng linh dương một đồng, chó sói cùng hươu nai uống chung một suối, thì ngày mai đâu còn kẻ dữ người ác, mà đều được thánh hóa, ai ai cũng trở nên Thần Phật như trên nước Thiên Đàng.
Muốn có ngày mai bây giờ các ngươi phải nghe Ta cố gắng làm cho mình trở nên Thánh, để lên đường hoằng hóa Đạo Trời, ban bố pháp lành, cứu muôn người ra khỏi tử sanh nạn tiêu diệt.
Các ngươi sao ngày này ngơ ngác, đương vui đùa trong ảo hóa, quấn mình trong muôn vạn nghiệp oan? Làm sao phải mau mau buông bỏ sự đời, phủi mùi danh lợi, cởi mở ái ân triền phược, để thân được rỗi rảnh đương ([7]) lấy sứ vụ nầy. Nếu hoang phế trách nhiệm, bỏ lời giao ước cùng Ta khi xuống thế, thì đành cắt mọi tuyệt thông trước Hội Công Đồng, phải nằm trong sự phán xét, thì dầu có thương cũng không sao cứu kịp. Ráng ăn năn tự tỉnh, phải biết mình có in nhiều dấu ấn nơi mình, phải quy y hồi hướng, phế bỏ trần tình, cầu tu cầu chứng.
Đọc lại Thánh Kinh, các ngươi cũng thấy đoạn Xuất Ê-díp-tô Thầy đã chọn Môi-se làm thông công quyền pháp. Ngày này cũng vậy, dưới bóng mặt trời không có gì lạ. Ngày xưa ngày nay đều tương tợ trong một chương trình.
Môi-se đã đem các người Y-sơ-ra-ên ra khỏi sự nô lệ để tìm về đất thánh. Song bao lần dân chúng đã nguyền rủa Môi-se và phạm đến ơn Cha trên trời. Nó nào biết được cái gì là hạnh phúc đời đời. Nó nói thà nô lệ cùng người mà có cơm ăn rượu uống. Đã mấy lần chống đối cùng Môi-se, song quyền pháp mà Cha trên trời đã ban cho Môi-se làm nhiều pháp lạ. Dân Ê-díp-tô đuổi theo cố bắt lại khi qua biển, các người đã thấy làm gì? Cây gậy quyền pháp rạch nước đi dưới biển cũng như đi trên bờ và làm cho đoàn quân đuổi theo đều bị lấp vùi dưới nước. Cây gậy đó là gì ? Tức thần cơ diệu bút ngày nay. Khi đánh với A-ma-lắc, Môi-se giơ tay lên thì chiến thắng huy hoàng, để tay xuống thì địch quân đàn áp mạnh mẽ. Tay đưa lên là ơn điển đã đầy dẫy trên thần cơ, lúc các hiền đón cầu Thiên sứ và quyền pháp thiêng liêng. Tay đưa xuống là lúc ngưng cơ thì quỷ ma ám ảnh, lòng các ngươi trở nên chiến bại.
Các ngươi nghĩ sao? Các ngươi ngày nay còn gián tiếp qua tay đồng tử, cũng như quyền pháp còn ở Môi-se, ngày mà Thầy đổ thần xối xả trên mình các ngươi tưởng cũng chẳng còn xa. Các người được trực tiếp cùng Thầy, thấy Thầy hiện đến, nghe Thầy phán truyền, thấy Thầy mầu nhiệm. Ngày ấy đòi hỏi ở các ngươi một sự trong sạch và quy giới tinh minh. Cũng như ngày Chúa Cha giáng lâm ở núi Si-nai, các người (tức dân chúng Y-sơ-ra-en) muốn gần phải thanh khiết và xa đàn bà. Thanh khiết là gì? Có phải trai tâm thanh tịnh không? Xa đàn bà có phải tuyệt dục không? Vậy ngày này đòi hỏi các ngươi ở chỗ thanh tịnh tu hành, trường trai tuyệt dục để khiết tịnh mà đón Thầy một sự trực tiếp vậy.
Lúc Môi-se lên núi Si-nai đến hầu sự Cha, đón lấy ơn quyền pháp mà an bài dân thành Y-sơ-ra-ên. Có thể nói lúc nầy người đồng tử của các hiền vào đại định, để rồi tiếp lấy bản Thánh, bản Thần để đưa các hiền đến nơi cứu cánh là đất hứa vậy.
Song buồn thay ngày xưa các người Y-sơ-ra-ên làm gì? Tạo ra hình thú mà thờ, truất bỏ Đức Chúa Trời cao quý. Song cũng vì lòng thương, trong ba ngày Môi-se trở lại đã làm cho lòng bực bội mà đánh vỡ hai bản quyền luật của Thầy, thế nên mới có cơ tái lập. Sự phẫn nộ của Trời bởi đâu? Môi-se xin gì các hiền có biết? Song dầu chi cũng còn bên cạnh là A-rôn, thì cớ sự nầy mà sau phải phân quyền dựng nên mỗi tộc một trưởng lão. Cũng như ngày nầy các bậc quyền pháp phải đủ ngày giờ tu học cầu sự thanh tịnh để đón tiếp Đức Chúa Trời, mà đặt ra Ban Hộ Trì Giáo Pháp.
Quyền pháp đã phân, sự lập đền tạm tùy sự tính toán khéo léo của các ngươi, để mọi việc được theo ý Thầy, thì nên coi lại các điều dạy bảo cấm răn ở đoạn Xuất Ê-díp-tô mà làm quy củ lập chương để tu, để học, để hành, cho sớm trở nên oai nghi quyền pháp.
Các hiền đồ hiểu Ta nhắc lại để làm gì không? Có phải chương trình Xuất Ê-díp-tô là chương trình giáo pháp hôm nay chăng? Nếu sau này quyền pháp được phân thì các ngươi chớ bắt chước người dân Y-sơ-ra-ên mà bỏ đồ trang sức của mình mà đúc ra tượng khác mà bỏ mất lối trung hưng chăng? Nghĩa là sau ngày Liên Hoa đi đại định các ngươi có giữ đường lối trung hưng không? Ta cũng e vì lời tiên tri mà lòng không yên cho sự lập pháp. Các người nhớ rằng Môi-se chưa dẫn Y-sơ-ra-ên đến đất hứa thì quyền pháp vẫn còn. Dầu muốn dầu không cũng không thể nào truất phế được, thì quyền pháp sứ mạng trung hưng nầy cũng không một cớ gì để đưa Liên Hoa ra ngoài ơn cứu chuộc được. Các ngươi cẩn thận lời nói việc làm để giữa nhau hầu trọn.
Thôi Ta nhân danh đến lần nầy sẽ hứa ở bên cạnh các ngươi hầu bảo các ngươi làm các việc Ta sai và ý Thầy muốn. Vậy các ngươi được ơn Ta.
Thành tâm tái cầu có Lý Giáo Tông ngự bút. Ta chào. Thăng.
TÁI CẦU
Nhứt Trấn Oai Nghiêm Lý Giáo Tông
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Bần Đạo chào chư Thiên ân, chư đạo hữu.
Quyền pháp khi trao nhớ giữ gìn
Sớm chiều y ỷ một lòng tin
Gắng công lập đức lo tu hạnh
Để được hồng ân cõi Thánh lên.
(. . .)
Đây, Lão nhơn danh quyền pháp đến trực tiếp cùng chư đạo hữu, đạo muội với một sự dặn dò. Quyền pháp nầy không ngang qua ở Hội Thánh là vì Lão nhơn danh Thầy cần chỉ thị tận cơ sở nhơn sanh, không mượn trung gian truyền lệnh. Đó là một sự cần cấp, một mối tâm hoài của Lão đối với toàn đạo, mà đàn vừa qua Lão xin cùng chư Thiên ân phận sự để trực tiếp gặp đạo hữu sắp đặt một chương trình.
Đạo hữu, đạo muội ôi! Đạo Trời mầu nhiệm, lòng Trời rộng thương. Toàn đạo ghi sâu vào tâm khảm những điều mà Lão nói đây, nhất là phận tu hành giữ trọn đức tin, dầu khổ hay dầu phải hy sinh cũng không đổi lòng thay dạ. Thứ nữa phải nhắm theo mục đích và tôn chỉ của Đạo Trời mà hành động, mà nói năng tính toán cho khế hợp. Mục đích có hai đường:
Đường tạo thế đại đồng, tình thương không đứt khoảng, chung lo xây dựng cho nhau, hầu đem chỗ dư bù chỗ thiếu, làm cho quân bình thịnh vượng, sống trong nếp đạo thái hòa không đứt. Trong lúc còn làm người phải giữ tròn nhơn đạo báo đáp bốn ơn, ba giềng, năm mối. Lấy đó làm đà để tiến lên thiên đạo giải thoát.
Cần thấu rõ bực của người tu không thể bỏ gốc mà tìm ngọn, để ngắt bông hái quả. Nên phải lo lập công, lập đức, giữ đạo, truyền đạo, đóng góp vào nền tảng đại đồng để đủ đức, để tiêu chướng liễu tâm mà men đường Tiên Phật, nên không thể không lo nhơn đạo mà được thiên đạo bao giờ.
Kẻ đã bước vào thiên đạo rồi, thì nên nhớ chánh danh chánh nghĩa, đừng làm hư danh trái nghĩa mà ô uế cho mối đạo nhiệm mầu. Giới năm giới cho tinh, quy ba quy cho trọn. Đừng khoác áo nhà tu bên ngoài, mà lòng tà không bỏ. Đã luyện châu, châu phải đủ vòng. Vòng sáu, vòng mười, vòng mười lăm, hay vòng trọn tháng, bậc nào giữ đúng bậc ấy để ma chướng khỏi xâm, họa tai mới tránh, mà chư Thiên hộ pháp mới giúp mình. Không tu được thì rút lui, đừng để con sâu làm rầu nồi canh.
Lão không bằng lòng cho các đệ về sự chia rẽ. Tông chỉ là hòa đồng dung kết tất cả. Không nói thân nói sơ, mà xa gần tình thương là một. Nếu nội bộ mà không liền, anh em nghịch chống nhau, dù tu cách nào cũng bị trong sự công đồng luận tội. Nên Thầy lập đạo lần nầy là quy hợp tất cả tôn giáo chung một khối. Lấy bốn biển làm nhà, đâu cũng anh em ruột thịt. Không nhà nào là không phải nhà của mình, không người nào là không anh em ruột thịt.
Vì vậy buộc lòng các đệ phải hòa thuận với nhau để danh đạo khỏi hư, mà hạnh tu cũng xứng đáng. Đã nói chó sói uống chung một suối nước với hươu nai, ai hiền ai lại dữ? Nếu có bệnh nên có thuốc. Các hiền là thuốc hay bệnh? Các hiền đã giác hay còn mê? Là mê mới còn rẽ riêng phân biệt, còn chấp nhứt rầy rà, còn hẹp lượng so đo, còn chê khen hay dở.
Ngoài Đền Thánh và đây là một dòng suối thông vô tận. Không thể nào ngăn mối nước để cho khúc đầy khúc khô. Vậy hòa thuận nhau sớm ngày nào tốt ngày ấy. Mà dầu có chỗ nào thấy trái với quyền pháp cũng đừng vội phê phán mà tình thương bị cạn, lẽ sống khô khan.
Nên nhứt nhứt thờ Thầy, đừng gây rối loạn. Dầu nhánh nhóc có bông nhiều trái lắm cũng phải do nơi cội. Các hiền thử coi, sự chia rẽ lớn lao nầy do ai? (...). Nên sự hiệp là việc cần thiết cho sự sống và lẽ đạo.
Đàn ong vầy tổ là có một sức đông đóng góp mới thành túi mật. Song khi đi hút nhụy không phải cướp của hoa, mà còn làm cho hoa kết thành quả ngọt. Nếu không nhờ ong mang phấn đi làm cho hoa đực, hoa cái gặp nhau thì làm gì có trái? Tuy nhặt chút nhụy cũng trả chút công để nên mình mà cũng làm nên cho hoa nữa.
Vậy nhớ lại lời Thầy. Thầy lập đạo lần nầy chính mình Thầy làm chủ mối đạo, không giao chánh giáo cho tay phàm. Dưới thế nầy không ai được xưng bằng Thầy mà nói dìu dắt nhơn sanh, mà lập thành Hội Thánh. Các con cái của Thầy chung hiệp nhau thành một sức mạnh, để có một phương tiện mà sống trong quyền pháp, hầu làm xong bổn phận con người và tiến lên làm Tiên làm Phật. Vậy giữa các đệ hòa thuận nhau mà giúp đỡ lẫn nhau. Có đông tay vỗ nên kêu. Có đông người mới thành sức mạnh. Rồi phải ra hoàn cầu thế giới lập đạo dựng đời, mỗi người chia lo mỗi việc.
(....)
Thôi, bao nhiêu đó. Gắng đọc đoạn Xuất Ê-díp-tô sẽ có nhiều luật lệ giải quyết quyền pháp trị giáo dân.
Bần Đạo ban ơn lành và chúc lành.
Khu vườn giáo pháp lại được phát cỏ dọn gai, xới đất, lên vồng khơi luống. Thầy và các Đấng tiếp tục ươm mầm gieo hạt qua các đợt kiểm tu, kiểm pháp. Trì pháp luyện châu để tập điều khí dưỡng thần tấn dương thối âm, điều hòa chơn tức, qua đến bực luyện đạo Tam Bảo Hoàn Châu mở đường thông vận từ Bá Nhựt đến Nhứt Bộ, Nhị Bộ.
Đức Chí Tôn dạy:
Vậy từ đây các con gắng làm sao cũng tu cho được cái hạnh giải thoát. Giải thoát cái thô, mà cũng giải thoát luôn cái tinh, để cho thân không còn dính mắc, mà Thần cũng không bị án che, thì không đợi tu nhiều ngày, không cần kể năm đếm tháng. Khó là chỗ buông bỏ trần duyên, còn phương tu tùy đó mà thâu đạt kỳ diệu pháp môn.
Cốt các con quên được mình để cho mình đồng hóa cùng Đạo. Mình và Đạo làm một thì càn khôn tuy to rộng nhưng cũng ở cả trong bàn tay. Mà muốn đồng nhứt cùng Thầy thì luyện lọc cái tâm cho trong sáng. Nghĩa là chuyển hậu thiên trở lại tiên thiên để chứng đạo.
Cốt là quy căn phục mạng. Căn mạng là Thầy và Đạo, là trung huỳnh mồ kỷ thổ, vô cực vô vi, hiện ở người là tín. Đức tín được rồi thì đơn nguơn cũng kết tụ. Nên giữ tín ở người mà cũng ở mình là cần thiết. Tín ở mình đó là cái dụng ở đơn, mà đơn là tín. Nên tu thanh tịnh là đắc đạo, mà còn vọng động là còn vô minh. Còn vô minh là còn luân hồi. Còn luân hồi thì làm sao có đơn?
Đơn là gì? Là hai khí âm dương kết hợp, tánh mạng đồng viên. Mà tánh mạng đồng viên là nhơn đắc nhứt. Đắc nhứt là Thánh. Nhứt là tuyệt đối. Không có gì đối đãi gọi là nhứt. Mà nhứt là vô vi, vô cực. Vậy phương tu tấn hỏa thối phù cốt là dưỡng cái đạo tâm, diệt cái phàm tâm.
Đức Chí Tôn dạy về tu tánh luyện mạng:
Trong hai phần tu tánh tu mạng, nếu phải bỏ lấy một thì nên lấy phần tu tánh cũng đắc thành quả vị.
Đàn ngày 08-11 Ất Tỵ (30-11-1965), Đức Chí Tôn ban hành giới luật:
Ngày nay là ngày lập giới luật mà cũng là ngày các con vui mừng bước lên nấc thang giới luật đặng về thẳng cùng Thầy. Giới luật của Thầy lập ra cũng không ngoài giới luật đã sẵn có từ lâu và cũng không ngoài giới luật của Tam Giáo. Ngày nay Thầy dung hòa các giới luật của các tôn giáo lại làm một, để cho các con nương theo đó mà tu để mong ngày thành đạo.
Đàn ngày 01-5 Bính Ngọ (19-6-1966), Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy về việc tuân hành giới luật:
Vì vậy con người hướng đạo dẫn một số người cùng đi tìm về cõi thật, thì trước đã có đủ phương pháp để cân nhắc đo lường. Nếu dài có thước, nếu nặng có cân, ít nhiều có cân, có lường để tính. Không thể lấy mắt đoán chừng, mà có giỏi đoán thì một trăm lần cũng chưa đúng một. Nên sai một ly đi một dặm, thì mọi việc đâu đủ làm căn bản cho ngày sau. Nên luật pháp đã quy định, thì cứ theo đó mà làm. Dầu vạn đợi ([8]) cũng không sai, mà giữa ta cùng người cũng không hề trái. Nên quy củ chuẩn thằng là bốn nguyên tắc chính,([9]) dầu thợ giỏi cũng không sao bỏ mực bỏ thước, mà làm cho khéo được.
Hôm nay nền Đạo Trời chia ra nhiều khối, mỗi khối lại còn chia nhỏ thêm ra. Có phải chăng trên thiếu đức, không cảm hóa được dưới, dưới thiếu hạnh, không tôn kính được trên? Dưới trên bất ổn, bất nhứt, mà quyền pháp phải lu mờ, cũng vì không tôn kính luật pháp.
Hôm nay nền trung hưng tái lập, là ơn phước để phục sinh quyền pháp mà duy trì đạo thống, hầu thay thế cho các tôn giáo gánh lấy sứ mạng duy nhất.
Mọi việc sẽ được sắp đặt chỉnh đốn tránh mọi vấp ngã về sau. Kinh nghiệm việc làm đã qua mà ngăn ngừa bước mới. Cùng nhau quyết định một chương trình. Việc ổn định nội tình, việc tương quan duy nhứt và việc quy định bộ máy và an vị ngôi thờ. Còn những sự nhỏ thì cho qua và cũng đừng nhắc lại để vết thương được lành, không cho lan rộng. Con thuyền đạo muốn cho vững vàng, hãy đặt lòng tin nơi người lèo lái. Để cho công bình hơn, thì cơ bút phải được quy định và phân công. Một con thuyền không lẽ có hai lái. Thì lão quyết đặt lại vấn đề nầy giao cho toàn đạo quyết định bằng một lá thăm của mình để tương lai khỏi nói qua nói về mà lòng tin chao đảo.
Ở đàn trước, ngày 08-02 Bính Ngọ (27-02-1966), Đức Ngô minh định pháp tu của sứ mạng trung hưng:
Tại sao các hiền không thông cảm sứ mạng nơi nầy? Có phải chỉ tu theo pháp Chiếu Minh mà thôi đâu. Là người của Hội Thánh Trung Hưng trước ngày vào thọ pháp, Thầy cũng đã đồng ý các hiền tu theo pháp của Thầy đã trao cho Chiếu Minh. Nhưng về công việc hành đạo thì là người sứ mạng của Hội Thánh Truyền Giáo. Các hiền quên những điều đó mà bây giờ còn luẩn quẩn trên đường lối tu học để phải đi sai với lập trường của mình làm thất trí với nhơn sanh. Bây giờ trò nào tu theo pháp Chiếu Minh thì cũng phải tuyên bố dứt khoát cho toàn đạo khỏi phải nghi ngờ, còn trò nào theo đường lối Trung Hưng thì cứ theo nề nếp lâu nay cũng như lời nguyện của mình mà làm cho đúng.
Vì bởi khi lập Cơ Quan Giáo Pháp để nâng nhắc đường tu Vô Vi Tam Thanh, thế mà Thầy lại mở ra tầng bậc tu châu Hồi Hướng cho toàn đạo hữu thọ tu theo hữu vi Tam Giáo. Việc nầy làm cho các vị thọ pháp tu theo chơn truyền ngại rằng đồng tử đã không còn tinh chuyên hay có thể là đã xảy ra nạn khảo thí cơ bút gây bất đồng nội bộ. Thực ra sự ngại ngờ nầy đã có từ nhiều đàn vừa qua. Do vậy Thừa Sử Hồ Tân Sinh bạch: “Xin Đức Giáo Tông minh định các đàn cơ vừa qua ai phải ai trái?” Đức Giáo Tông dạy (đàn 08-11 Bính Ngọ):
Lão chưa đề cập đến mọi vấn đề phải trái, vì đó là đức tin. Còn việc trên để duy nhứt một nguồn sống thiêng liêng thì quyết định một ngòi cơ. Dầu dở dầu hay cũng ổn thỏa cho tinh thần tu học của toàn đạo. Vì lẽ đó mà để phần nhơn sanh quyết định với số mạng đời mình, không thể đồng Liên Hoa hay đồng Minh đức quyết định bằng cơ bút được. Dù ở Tòa Thánh Tây Ninh hay các chi phái khác tuy nhiều đồng nhưng chỉ có một đồng pháp mà thôi. Còn đây giữa Tá và Tiếp ([10]) coi như đồng quyền, nên vừa qua các lịnh lập Họ ban hành quyết định đều do đồng Minh Đức cả, nếu không thì kéo dài tình trạng khảo thí. Vị nào cũng phải hy sinh một vị để cơ đạo được đi trên đường bằng phẳng. Còn nói lại là do Thiêng Liêng thì chỗ hiểu đó chưa trọn. Dương không âm không tác dụng nên gọi “Kiền tri thái thỉ, Khôn tác thành vật”. Không có đồng tử cũng không có Thiêng Liêng hiện được. Mà hiện được trọn hay không, một phần lớn ở đồng tử. Như điện vào một bóng đèn, thứ đỏ thứ xanh, thứ trắng thứ vàng, cái sáng cái mờ, cái trong cái đục, bóng nhiều bao nhiêu thì sáng ít, ít thì lu. Đâu phải tại điện có sắc có màu, có lu có sáng, nên quan hệ ở đồng. Còn nói bỏ Liên Hoa thì sự đó không ngại, Ơn Trên sẽ ban cho một nhiệm vụ khác, nếu nhơn sinh tùy duyên nghiệp với sự tương quan của đồng mà tương ứng phối nhứt, ai được cũng hay. Dù không đẹp lắm cũng không xấu lắm, miễn yên lặng bình thường hơn làm sóng gió để đẩy thuyền vượt qua có nhiều nguy hiểm.
Theo thánh ý, Cơ Quan Giáo Pháp và Trung Tông Thánh Tịnh của Trung Tông Đạo đặt tại thánh thất Trung Thành do Đầu Họ Thượng Khải Thanh hộ trì. Tại Tịnh Đường, Tý thời ngày 01-6 Bính Ngọ (17 rạng 18-7-1966), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Giờ nầy Bản Thánh thừa sự vụ Giáo Tông lâm đàn để ban một quyền pháp thành hình ngôi Trung Tông Thánh Tịnh hầu đem lại một tinh thần duy nhứt của toàn đạo nơi đây để tiếp nguồn lành hầu tưới xanh cây đạo, và nhắc lại một vài nguyên tắc của mục đích ban đầu mà giữa Trời và người dựng cơ sở Đạo Pháp.
Ngày tới đây chư hiền có trách nhiệm về quyền pháp cũng như toàn thể đạo tâm quyết định tôn trí ngôi Trung Tông Thánh Tịnh để làm tôn chỉ, mục đích cho mình và cho người về sau. Giáo Tông chấp thuận lời cầu xin của toàn đạo, ban một quyền pháp để trấn thần an vị thì việc làm quan trọng này mong toàn đạo duy nhứt một tinh thần để làm khởi điểm cho công cuộc trung hưng, hoàn thành nhiệm vụ quyền pháp nầy. Giáo Tông ủy nhiệm cho Giáo Hữu Thượng Khải Thanh hành pháp. Chư hiền cùng toàn đạo chung tinh thần để việc làm được trọn.
Đức Trần Hưng Đạo ấn định về chủ lễ, sắp đặt vị trí của mỗi pháp cụ trên Thiên Bàn, cách thức hành pháp, lễ phẩm… và ấn định lễ khai đàn vào ngày 08-6 Bính Ngọ.
Tại Trung Tông Thánh Tịnh, Tý thời, ngày 08-6 Bính Ngọ (25-7-1966):
LÝ tâm mong mỏi đạo trung hưng
BẠCH hắc khuyên nhau hiểu rõ cùng
GIÁO hóa cho đời thông lẽ đạo
TÔNG thành cơ chỉ gội ơn chung.
Bần Đạo lâm đàn hành pháp cho công cuộc thiết lập ngôi Trung Tông Thánh Tịnh hầu có một lối thông giữa Trời và người, giữa Thiên ân cùng toàn đạo để tu thân xử đạo và phần hoàn nguyên của mỗi người, để đón lấy phần xứng đáng mà Thầy đã dành cho, và cũng lướt qua một vài công vụ để nội bộ hành quyền chấp pháp làm đẹp lòng Thầy, vừa ý nhơn sanh.
(…)
Đây đã nói lên được cái lập trường của toàn đạo, chí hướng của Thiên ân, tôn chỉ cao cả Thánh Thần thì Bần Đạo cũng đáng mừng cái sự nhận hiểu con đường trung đạo, mà công việc các hiền phải làm, phải tu để thành công cho sứ mạng. Bần Đạo ước mong ở chỗ thực hiện để tránh cái lối năng thuyết bất năng hành.
Từ đây các hiền nơi đây nói chung còn phải trải qua nhiều khúc quanh co. Có vậy mới đáng con người quyền pháp hướng đạo nhơn sanh. Cái khó nầy do các hiền tạo nên, mà cũng ở một phần lớn trong cơ thử thách. Xưa dân Do Thái từ Ê-díp-tô trở về đất hứa, khoảng đường chẳng xa mà lúc đi phải mấy mươi năm, thì việc này cũng tương tợ.
1. Dung hòa duy nhất tại Trung Việt một Hội Thánh để làm đến thống nhất toàn bộ các Hội Thánh, để công đức đó mang mang vô tận ví như Thánh như Thần.
2. Không thể hiệp lại được thì phải có một tổ chức mạnh mẽ: Hàng ngũ trên dưới nhất tề, quyền pháp minh định; hướng đạo nhứt trí cùng một việc làm, tín kỉnh nhau như một khối chặt chẽ, như Lưu, Quan, Trương nhà Hán mới làm nên sự nghiệp; pháp môn tu học phải đắc chứng, không nên nhận sai nói càn mà đưa quần chúng vào nơi tăm tối sai lạc.
3. Hai lẽ trên không làm được thì trách nhiệm quyền pháp sứ mạng giao lại cho nhơn sanh toàn đạo để tự quyết, đừng nên trù trừ mà chẳng được cho thân, lợi cho đạo.
Về cơ bút là một lợi khí giao thông. Lúc toàn đạo gặp nhiều khó khăn bởi nạn đời gây nên, chư hướng đạo khi chưa trực thông cùng chơn lý đạo pháp cần để cầu hỏi Thiêng Liêng khải thị để hành quyền chấp pháp cho trúng mà dìu dắt đạo hữu lập công tu học. Song Bần Đạo nhận thấy lợi bất cập hại, mà sau nầy làm trở ngại đức tin. Ví như sự giáo hóa bình thường còn có kẻ tin người ngờ. Nếu đến một cái lịnh Thiên Đình, phải cấp tốc theo lịnh để kịp hầu chuyển loạn thành trị, nếu chậm chạp thì loạn chuyển nên loạn, loạn sẽ tiêu diệt lẫn nhau. Quyền pháp lúc này quan trọng nên Bần Đạo đề nghị tạm ngưng cơ thời gian sáu tháng.
4. Việc sắp xếp cơ sở quyền pháp nơi đây là một sự khó làm cho tròn, vì lịnh xuất đa môn, quyền hành không nhứt thống. Dưới trên lớn nhỏ còn sống trong nếp đời dân chủ quá trớn nên trên dưới chống nhau. Nếu một tổ chức không có một Giáo Sư quyền pháp cầm đầu thì sẽ loạn mà loạn trái mãi.
5. Các cơ sở xây dựng bị đặt không phải chỗ của nó.
Về quyền hành nhiệm vụ của cơ Giáo Pháp, hai ngành như một, một như hai. Nghĩa là phần bảo pháp đường lối luật pháp chưa rành rõi để bảo tồn nền móng chơn truyền.
Phần hành pháp nguyên tắc hành chánh chưa thạo mà có phần bất công gây sự lờ mờ của nội bộ. Như lịnh vừa rồi ban pháp trấn thần, Bần Đạo không trực tiếp ban mà trao qua Thượng Chánh Phối Sư Hành Chánh ra lịnh. Đó là nguyên tắc để các hiền học mà tu. Nên ở đây Hiệp Thiên Đài nếu có thì phải chỉnh đốn Hiệp Thiên Đài và bộ phận thông công đừng nên lầm lẫn. Cửu Trùng Đài cũng có một bộ máy lành mạnh chủ quyền điều khiển. Bộ máy có một Hội Trưởng là Phối Sư hay Giáo Sư mới đủ đức đủ người. Nếu quyền hành không do bởi một tay chấp chánh thì sẽ loạn. Song một tay chấp chánh không phải độc tài, mà chấp hành chương trình do hội đồng nội bộ quyết nghị.
Về việc ngưng cơ là Bần Đạo mới đề nghị, còn chờ ý chư hiền. Nếu cần mà việc không giải quyết được như thời thế chuyển biến, thì lúc đó cứ xin lịnh mà cầu rồi ra quyết nghị lại.
Cơ Quan Giáo Pháp tiến triển khá êm đềm. Ơn Trên liên tục nối điển quang làm sáng tỏ chánh pháp Cao Đài nơi miền Trung, vun đắp sự tốt đẹp cho chơn truyền Đại Đạo. Về bên Trung Hưng Bửu Tòa, Giáo Sư Thượng Hậu Thanh chấp chưởng Cơ Quan Hành Chánh, còn các phần vụ khác cần điều phối lại.
Về vai trò Chủ Trưởng, vì Phối Sư Ngọc Quế Thanh không thường xuyên tại Trung Hưng Bửu Tòa nên Hội Thánh sắp xếp Giáo Sư Ngọc Tín Thanh làm phụ tá. Hội Thánh điều dụng Giáo Sư Thái Phẩm Thanh đang là Đầu Tỉnh Đạo Quảng Ngãi về vị trí Chưởng Quản Cơ Quan Phước Thiện kiêm nhiệm Đầu Tỉnh Đạo Quảng Tín. Đồng thời cử Quyền Giáo Hữu Lê Quang Sách đảm nhiệm Đầu Tỉnh Đạo Quảng Ngãi.
Hội Thánh tiếp tục xúc tiến nhiều đạo sự quan trọng:
Năm Bính Ngọ (1966): Lập trường huấn nghệ tại tỉnh đạo Quảng Ngãi, tổ chức phái đoàn Hội Thánh thăm viếng các tôn giáo bạn và các Hội Thánh Cao Đài.
Năm Đinh Mùi (1967): Hội Thánh cho thành lập ký nhi viện tại khu Linh Tháp (Quảng Ngãi) do Quyền Giáo Hữu Lê Quang Sách làm giám đốc. Tại Quảng Ngãi Hội Thánh còn mở trung tiểu học Hưng Đạo do bác sĩ Tôn Thạnh Giang làm hiệu trưởng. Vào tháng 3 Đinh Mùi (tháng 4-1967) Hội Thánh lập Tỉnh Đạo Daklak tại Ban Mê Thuột, cử Quyền Giáo Hữu Đỗ Thanh làm Đầu Tỉnh Đạo.
Năm Mậu Thân (1968): Hội Thánh cử Quyền Giáo Hữu Nguyễn Đình Hoành đặc trách thành lập khu giáo dân Bình Tuy tại Võ Đắc.
Ở Sài Gòn, Văn Phòng Đại Diện Ngoại Giao được nâng lên thành Tòa Đại Diện Ngoại Giao, vẫn đặt tại thánh thất Trung Minh.
Chăm lo việc tu học cho bổn đạo miền Trung di cư sinh sống ở Lâm Đồng, Đà Lạt, cuối năm 1968 Hội Thánh lập Thiên Bàn Đơn Dương tại xã Lạc Nghiệp, thị trấn D’ran (sau này là thánh thất Trung Dương).
Song song với việc phát triển dân sinh, dân trí, dân đức Hội Thánh đầu tư mở nhà in Trung Hưng tại Đà Nẵng, đặt trong khuôn viên Đền Thánh.
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có bốn Giáo Sư. Giáo Sư Thượng Hậu Thanh gắn bó với Tịnh Đường hành trì tâm pháp vô vi. Đến lúc xây dựng Cơ Quan Giáo Pháp cho Trung Tông Đạo, với nhiệm vụ Chưởng Quản Cơ Quan Hành Chánh, Giáo Sư Thượng Hậu Thanh linh hoạt mở mang mặt công truyền hành đạo, thực hiện mọi chủ trương, mọi công trình của sứ mạng tận độ nhân sinh về tướng pháp. Còn phần tâm truyền, Giáo Sư vẫn kín cổng cùng Tịnh Đường hành trì công phu, liên tục tham gia hầu đàn cơ để tiếp ơn giáo hóa.
Giáo Sư Thượng Hậu Thanh rất phấn khích cảm nhận về cơ thành đạo của Trung Tông đang hiển lộ. Việc Thầy phong quả vị Thiên Đức Chơn Quân cho Bùi Đặng Đán và Thiên Bảo Chơn Quân cho Ngô Thanh Toàn đã nung nấu đức tin mãnh liệt trong Giáo Sư về sự thành tựu chánh pháp của đường trung đạo.
Cuối năm Mậu Thân (đầu năm 1969) tại Trung Tông Thánh Tịnh, Giáo Sư Thượng Hậu Thanh được Đức Trần Hưng Đạo ban huấn dụ:
TRẦN, Lý quân dân đạo nhất thành
HƯNG khai pháp tượng độ quần sanh
ĐẠO Trời nay đã khai thông khắp
Giáng điển đổ thần giải nghiệp thanh.
Bản Thánh chào các đệ.
Hôm nay Bản Thánh lâm đàn cũng được ơn Tam Giáo muốn cho hiền Hậu một khẩu khuyết về môn tu học chánh pháp trung hưng từ bao năm nay bị chư chức sắc đã làm cho quyền pháp không còn hiệu năng, cũng vì tự thị, tự khôn biết mà che mờ huyền linh sứ mạng.
Ơn cứu chuộc của Chí Tôn cũng vì bên trong nội bộ của mỗi Hội Thánh chỉ nghĩ cá nhân mà quên phần đại sự. Đạo Thầy không chỉ các hình thức nhiêu đó, mà còn phải có được con người thánh minh khai thác kho tàng huyền diệu còn nằm nguyên trong cảnh giới lý trí con người. Nếu Đạo Thầy chưa có bậc chơn trí đắc chứng huyền cơ, thì không bao giờ giải quyết mọi đen tối cho cảnh giới trần hoàn và gom tụ các nguyên căn bên ngoài cửa đạo. Các Thiên ân không quyết tâm đi vào cảnh giới nội tâm, thì không được cái gì là ơn ích cho cơ tận độ cả.
Sứ mạng trung hưng mà Thầy đã giao phó nơi tay chư Thiên ân cầm giữ, mà nay nơi mỗi người chẳng thấy được một ai còn nắm trọn cả. Vì lẽ đó mà Thần Lẽ Thật và sứ mạng trung hưng bị phân tán khắp nơi. Còn một ít nằm gọn trong danh từ hình bóng hữu vi. Mặc dù bị mờ lấp ở sau con người, song biết quay về tự tâm thì sẽ nhận lại căn nguyên động lực ban đầu. Nền đạo bất cứ Hội Thánh nào mà được một vài bậc chơn tu giác ngộ siêu phàm chứng Thánh cũng đủ nhích lại cán cân, thì có lo gì thiên hạ không quy tụ, đạo hữu không nhất tề.
Phần lớn chư đạo hữu quan niệm môn tu quá sức tưởng tượng. Phải nhắm mắt làm thinh, suốt ngày ngồi yên trong mật thất mới gọi là tu. Đó là tu ở hình thức theo khuôn sáo cũ.
Tu cũng không phải học cho nhiều, biết cho lắm, mà cốt thấy cho được tự tánh, chủ cho được tâm cơ. Từ bỏ cho được ngã chấp, giữ cho được bình thường tâm. Không đắm nhiễm chạy theo ngoại vật mà quên lãng chủ nhân ông của chính mình. Hoặc lầm tưởng cầu cái Đạo qua tay người khác ban cho, không ngờ Đạo thật ở nơi lòng. Lòng Đạo đã sẵn từ vô lượng kiếp lai. Khi có thân tứ đại nầy thì Đạo cũng lồng trong xác thịt chớ nào ai cho, hay rèn đúc nơi lò nào.
Nói vậy không phải phủ nhận phương môn trì tu. Phương pháp truyền đạo của Giáo Tổ nào cũng chỉ là thứ phương thức làm công cụ đả phá, khai quật mọi chướng ngại phiền não vô minh đem tự tánh chủ nhân ra ngoài ngục đời phàm tục để nó biểu hiện không còn cái gì ngăn ngại. Khi nó đã được xuất hiện tự do, thì tất cả thị, thính, ngôn, động là chơn lý, chơn thật cả. Nên nền Chánh pháp của Đạo Thầy muốn sao chư Thiên ân cầm giềng mối Đạo, ý thức môn tu hành, làm chủ được tình thức dục vọng, thì có thể làm chủ thiên hạ. Việc đó quá rõ ràng. Nếu không thấy cái huyền cơ, không thông lẽ biến hóa, không nắm được thời, không loại trừ ngã chấp, thì không thể nói là hướng đạo.
Hướng đạo là người chứng ngộ tự tâm, huyền đồng cùng Thượng Đế. Nếu con người tài trí lỗi lạc, thông tuệ hơn người, mà không tương hệ với Thượng Đế, cũng là giặc của chánh pháp. Đó là nẻo đưa chúng sanh vào chỗ tranh giành, gây ra phiền não chướng ngại. Nếu lý trí tuyệt trần mà không vun bồi cội đức, thì lý trí là mầm loạn, đâu ích gì cho ai. Sở dĩ chúng sanh không thoát được nghiệp, không tỏ được Đạo là do tài trí. Tài trí càng phát triển thì càng che mờ giác tánh, làm trở ngại, nhiều kiếp luân hồi.
Tóm lại Hội Thánh nào, tôn giáo nào cũng quý con người tài năng lanh lẹ. Tài năng để phục vụ cho chánh pháp, tài bồi cho cuộc sanh thành của Tạo Hóa, thì đâu bỏ được tài năng. Song con người có chút tài thì ngạo mạn tự kiêu, không cho giác tánh liễu ngộ. Nên kẻ tài trí cần phải biết tự tỉnh, thấy cho được cái gì sanh ra tài trí. Nếu chỉ biết cái bóng hình nhánh nhóc mà quên cái gốc bên trong, thì đâu còn gọi là tài trí nữa.
Công việc cử tác của Hội Thánh đâu phải sai. Nhưng chỉ ôm lấy cái vỏ kình càng mà không thấy cái luật biến thông là công dụng về đạo pháp. Sau khi Chí Tôn và Ngô Đại Tiên đã áp dụng môn tu học, hành đạo đi đôi, để chứng tỏ chánh pháp trung hưng là trung đạo, nội thánh ngoại vương. Nghĩa là tự giác giác tha, chánh kỷ để hóa nhân bằng con người nhơn sanh thừa mạng. Con người thừa mạng Chí Tôn mà còn phàm thì làm sao thánh hóa muôn người? Cần có cơ sở, cần có môn thế đạo, môn giải thoát. Nhưng cần thiết hơn hết là làm sao cho con người cùng trong một thánh thể, ai nấy cũng được nối mối thông công liên hệ với Thầy bằng môn tu châu tịnh định. Tất cả ngọn đuốc tâm linh đều được thắp sáng soi đường cho thiên hạ. Nên cần nhất là sự nối liền giữa Thầy và nhơn sanh trong Giáo Hội. Đó là dòng suối tâm linh, dầu chưa nhập thánh siêu phàm cũng làm được con người chân thật.
Có con người tu châu rồi sẽ có con người giải thoát. Cầu sao cho mọi người cùng trong một thánh thể, sở dĩ họ giải thoát là nhờ tu châu mà bừng tỏ tâm hồn khát khao chân lý. Con người Giáo Hội đã được tu châu thì dòng điển quang sẽ soi sáng đả phá vô minh. Tự họ sẽ thành con người thiện dân Thánh Thần, con người quy luật.
Làm nên cho Giáo Hội, chỉ cần con người biết tu tỉnh tâm linh, tô bồi gốc Đạo. Gốc là Thầy. Có Thầy thì việc gì cũng ổn định, việc gì cũng thành công. Nên phải lấy chữ tu làm mục đích. Nhưng cũng đừng chấp tu phải lìa đời xa bạn, mà càng sống trong thanh sắc. Phía trong thanh sắc là Thánh. Cứ an nhiên tự tại. Bất cứ cảnh nào cũng được ứng thông nhật dụng thường hành.
Đạo pháp là thế gian pháp. Phiền não là bồ đề. Trần tục là thánh đền của bậc giác ngộ. Nên các bậc đạo sư minh triết không cần xuất tục, mà tục là chỗ đạo tràng của thiền định. Cái khó của người tu sống trong đám đời mê muội đầy tham sân nghịch ngợm, mà lòng tu không chấp mắc, không phân biệt, không lấy bỏ, không ta người. Có được vậy là nhờ bao nhiêu ma lực nhất thiên nhiên bán đời bán đạo. Thích là con đường giải thoát, nhứt trần bất nhiễm, vượt cả Thánh Thần.
Trong lúc hiền đệ cần bồi dưỡng cho nội tâm sung mãn thì tùy nghi phương tiện thuận lợi mà an dưỡng tâm linh. Song được phần mình mà mất phần nhơn sanh, kẻ được no cũng nhớ đến người đương đói khát. Đó là Thượng Đế, là lẽ thật là sự sống và tình thương. Người Thiên ân cần chỗ an tâm, cần có thì giờ để chiếu phá vô minh còn lẫn sót, thì sự hành quyền, sử vị mới linh động sáng suốt. Song Hội Thánh không người thì hiền đệ cân nhắc cho đúng mức, thì đẹp lòng Trời thuận ý người, nên việc cho ngày mai. Hội Thánh hiện nay kẻ cầm lèo lái nếu biết quay vào nội tâm, tẩy tâm thối tàng ư mật, thì sứ mạng Trung Hưng ở ngay trước mặt.
Đàn giao thừa ngày 01-01 Kỷ Dậu (17-02-1969) tại đàn Chợ Lớn. Phò loan: Quảng, Châu. Độc giả: Phụ. Điển ký: Huệ.
THI
CAO ban phúc đạo tiết xuân sang
ĐÀI thượng gia ơn khắp cả đàn
GIÁO lý độ đời nêu bảng Thánh
CHỦ tâm thoát kiếp đoạt khoa tràng
NGUYÊN nguyên mặc hộ trần ai khổ
ĐÁN vọng âm phò nghiệp thế gian
GIÁ ngự chiêu chương chan rưới điển
LÂM truyền các trẻ gội thanh quang.
Đức Chí Tôn ban danh hiệu Huyền Quan Đàn cho Trung Tông Thánh Tịnh:
Huyền công dụng điển đề thơ
Trung phần Đà Nẵng điện thờ nghiêm trang
HUYỀN QUAN ĐÀN Thầy ban danh hiệu
Lịnh Thầy truyền chiếu diệu hôm nay
Danh xa Minh Chiếu Cao Đài
Giống lành gieo tốt hậu lai nối truyền.
Tịnh Đường, đàn Tý thời ngày 02-01 Kỷ Dậu (18-02-1969), Liên Hoa thủ cơ:
NGỌC Kinh Thầy ngự hội quần Tiên
HOÀNG Phụ thương con mở thánh truyền
THƯỢNG hạ một lòng thanh tịnh giới
ĐẾ ngôi cựu vị được hoàn nguyên
GIÁNG thăng pháp đạo thông thiên địa
HUYỀN tẫn nhiệm mầu kết hống diên
QUAN khiếu mười phương cơ tiếp độ
ĐÀN trung vi hiến nhứt môn thiền.
Thầy mừng các con.
Hôm nay ngày tân xuân năm Kỷ Dậu, Thầy lâm cơ bố điển, ban rưới hồng ân cho các con nam nữ nơi nầy cùng tất cả hoàn cầu và đặc biệt cho Việt Nam Thánh Địa.
Thầy miễn lễ. Các con an tọa nghe dạy.
Trải bao ngày tháng thăng trầm, cuộc dinh hư biến dịch của cơ Tạo nhiệm mầu các con cũng không thoát ngoài công lệ mà cơ đạo cũng nằm trong khuôn khổ của thời gian. Thầy cũng đành để cho các con phải trả xong nợ tiền kiếp, tạo lập cho mình một địa vị xứng đáng để được quyền pháp trọn trao, luật công bình Thầy không sửa được.
Nhưng các con đã đến nơi trường đời nhờ hoàn cảnh đào luyện. Nếu các con có chí, chầy sớm cũng trở thành bực vĩ nhân hiền đức, đủ tư cách đảm nhiệm sứ mạng của Thầy dự định phó thác vào những con, để thay Thầy nơi cõi thế nầy đem mối Đạo mà quảng truyền cho bốn biển, hầu tiếp độ nhân loại đương có đủ thiện căn.
Hạt giống trọn lành ở trong thân tâm con người nhơn khí xuân dương tái phục. Sự sống đâu đó được nhô lên. Chỉ còn chờ sự tiếp tay của người có sứ mạng ở nơi Thầy vun tưới, đắp xây cho nó, thì tự khắc được nẩy nở sum sê, hoa thơm trái ngọt, đạo đức kết thành. Đâu đâu lại chẳng có cây lành. Một hóa trăm hóa ngàn. Cơ đạo hiển nhiên đầy trời đẹp xinh tươi tốt.
Hôm nay Thầy thấy các con nơi nầy chí tu đã vững, lòng đạo đủ đương lấy gánh nặng quyền pháp, tự độ độ tha, thành kỷ thành nhân, hầu đem nhau lại hiệp một cùng Thầy. Thầy ban cho nơi nầy một hiệu đàn gọi là Huyền Quan. Các con hướng vào đó mà tu, noi theo đó mà hành.
Trời đất không ngoài cái đó. Thành Tiên Phật bởi đó. Sự sống ở đó. Lẽ thật trong đó. Tình thương phát xuất do đó. Kiền khôn thế giới đứng vững nhờ đó. Các con đắc đạo là đắc cái đó. Mọi người, mọi giống chung chạ mà không tiêu diệt lẫn nhau cũng bởi đó.
Giữa xã hội, nó là cái cửa đạo nghĩa. Sự sinh tồn nó là mối nhân luân. Dầu kẻ ngu hay hạng người đại trí cũng một khiếu Huyền Quan. Hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc ít hoặc nhiều, muôn vàn khía cạnh xuất hiện, trông như khác nhau nhưng mọi cái sở dĩ không ngoài khiếu đó. Nhưng đạt cho được toàn diện, chứng đến rốt ráo chỉ có Phật mà thôi. Nên muôn sự muôn việc dầu hiện dầu chưa hiện, hoặc đã qua hoặc sắp đến, không có huyền khiếu đó thì không có càn khôn thế giới nầy. Mà có cũng do đó gây ra biết bao sự oái ăm trái nghịch, vui khổ ảo huyền.
Nhơn loại lên xuống sáu đường ba cõi cũng vì chưa hoạch đắc chỗ trung nhứt khu nữu của căn đề. Mà chỉ nó phát lộ ở khía cạnh hậu thiên rồi cứ chấp cứng ở một vài chi tiết, như lý trí tình cảm, rồi cho đó là trực nhập chơn tâm. Nên kẻ kia hoặc duy lý, duy tình, duy tâm, duy nghiệm, duy vật, hay duy kỷ, mà đem cái toàn diện của nó chặt ra nhiều khúc. Mỗi người giành lấy một phần, rồi tranh cãi nhau mà xô thế giới vào trường luận biện đấu tranh.
Thầy ước sao mỗi con phải can đảm chiến thắng với hoàn cảnh, vượt lên trên hình thức hẹp chật, đứng ra ngoài thị phi ẩm thực thường tình, để lòng trống không thanh thoát, hầu trầm lặng trong biển chơn như, để chứng nhập Huyền Quan, hầu huyền đồng cùng trời đất, để thị hiện con người thánh đức dung thông, cho thế giới cho tương lai một con đường trung chính, một niềm tin trọn vẹn tận đến mục đích cứu cánh cho loài người.
Các con hiện nay còn cậy sức mạnh của máu xương, tài ba bằng trường đời đào luyện, khôn ngoan ở kinh nghiệm tập tục, hoặc lời lẽ Thánh Hiền lưu tích ở sử kinh, chưa phải tự mình phục sinh nguồn đầu bản lai chí thiện.
Hôm nay Thầy ban cho con một hiệu đàn, là ban cho một bửu pháp, một quyền năng, một sự sống theo đà xuân nầy mà tiến mãi cho đến hạ thì trưởng thành, qua thu thì thâu gặt, đến đông thì tàng trữ, rồi tuần hoàn cứ đó mà thánh hóa thêm lên.
Huyền Quan chẳng những một phương tiện đạo đức của người triết nhân, mà bao hàm một sức mạnh thiêng liêng. Các con nương đó làm gậy đỡ chân trên đường ghồ ghề hiểm trở, để tìm những con chiên lạc đem lại một chuồng, và cũng nương đó chống đỡ cơn phong ba, thẳng về với Thầy.
Đây Thầy nhắc sơ con người sứ mạng mà các con đã trải qua. Rồi đây cần đi đến đích thì cốt là các con hòa thuận xây đắp cho nhau một tình thân. Ai nấy cũng xứng đáng là người môn đệ yêu thương của Thầy. Có vậy mới đủ tư cách con người giải thoát để tìm về tự do.
Các con là một ngôi sao bị mây che chưa lộ vẻ đẹp, chưa cộng sức sáng cho bầu trời được quang huy. Mà mây đó là lòng vị kỷ hẹp hòi. Các con không nên khu biệt cái thân con người tu sĩ ở một phạm vi nhỏ bé nầy, mà chỉ biết mình. Còn bao nhiêu sự tương quan, nếu không nhờ lẫn nhau thì không sao thành tựu.
Đồng tử Liên Hoa đã xin nghỉ thủ cơ tại Trung Tông Đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài và được đạo trưởng Huệ Lương Trần Văn Quế - Chủ Trưởng Hội Thánh Truyền Giáo, cũng là Vĩnh Tịnh Sư Hội Thánh Minh Lý (Tam Tông Miếu) - giới thiệu vào Tam Tông Miếu làm đồng tử theo yêu cầu của ngài Minh Thiện. Tuy nhiên, nhiều đàn cơ dạy pháp tại Trung Tông Đạo vẫn phải nhờ đồng tử Liên Hoa về thủ cơ.
Sau kỳ đàn ban hiệu Huyền Quan cho Trung Tông Thánh Tịnh, đồng tử Liên Hoa thường xuyên về Tịnh Đường theo nhu cầu của các đàn kiểm tu, kiểm pháp. Các đàn cơ nầy được các Đấng về chấn chỉnh nghi thức thờ phượng, nhắc nhở việc trao giồi đạo đức, lập hạnh công phu, điểm danh các tịnh viên, dạy về nhiệm vụ người Thiên ân, minh định về bốn tầng bậc công phu luyện châu.
Đàn ngày 14-3 Tân Hợi (08-4-1971):
Huyền quan mở cửa tổng trì môn
Ai kẻ tri cơ được vĩnh tồn
Pháp đạo gắng tìm không thấy đạo
Tự nhiên sẽ gặp máy càn khôn.
TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG
Bản Thánh chào toàn thể chư Thiên ân và đạo tâm nam nữ.
Hôm nay vì lòng thành của toàn đạo hiện diện nơi đây, Bản Thánh ghé về chào mừng chư thiện tâm đặt lòng cầu tu độ thân hành đạo. Bản Thánh ước sao mỗi người nhận chân cho được chánh pháp buổi Tam Kỳ mà Thầy đã nấy đặt nơi Trung Tông quyền pháp của Hội Thánh Truyền Giáo, được trung hưng kết tinh một nền chánh pháp, không nghiêng lệch một bên nào, dầu nói đó là chơn hay cao cả.
Vậy hôm nay Thầy sẽ ban cho các hiền một phương châm tổng hợp để thưởng lòng chí thành cầu tu.
Chư hiền nam nữ nghiêm chỉnh thân tâm, tiếp giá Chí Tôn. Bản Thánh xuất cơ.
TIẾP ĐIỂN
THẦY CÁC CON
Thầy mừng các con.
THI
NGỌC lành vô giá sẽ về ai
HOÀNG Phụ chờ con đủ đức tài
THƯỢNG đạt nên người đương sứ mạng
ĐẾ quyền chớ khá để chia hai.
Thầy miễn lễ. Cho phép các con an tọa nghe Thầy dạy.
Các con từ lâu đặt hết lòng vì Thầy lo tu lo đạo, song Thầy xét lại, phần đông còn thiên chấp làm kẹt mắc trong chỗ tà kiến khiến cho càng lúc càng cách xa Thầy. Nhưng các con nào thấy được việc mình lo mình tính đó là sai. Nếu Thầy không sớm chỉ dạy cho các con, thì việc hành đạo, tu trì nhiều năm hóa ra đứng sau người mới đến. Từ ngày Thầy ban quyền pháp cho các con nơi Hội Thánh Truyền Giáo, Thầy đặt tin tưởng ở mỗi con, lòng thành và nhiều ngộ đắc.
Thầy muốn các con làm y những điều mà Thầy đã dạy. Dầu gặp khó khăn cũng nhẫn nhục mà đợi lịnh Thầy. Mặc dầu đường lối trung hưng có nhiều khúc quanh co chật hẹp, song cũng là một sự thử lòng. Năm Nhâm Thìn Thầy ban cho các con một nền chánh pháp, mà từ lâu các Hội Thánh đã chen chưn ra mắt cũng chưa hề nhận được các bí tích Khai Đạo Thông, Khai Pháp Thông, Khai Sinh Cơ Thông, Khai Nguyên Giáo Pháp. Bao nhiêu đó đủ cho các con tự rỗi và rỗi độ chúng sinh, kẻ quá vãng, người hiện tiền.
Song còn ban cho các con nhiều pháp môn trực ngộ nhập thánh siêu phàm. Như Hồi Hướng Linh Châu là một pháp môn đệ nhất, con đường tắt về Thầy. Dầu hạng đại ngu hay người trí cũng đều tu được pháp môn ấy. Các con cho thường. Các con cầu pháp cao hơn, mà không ngờ pháp đó nguyên gốc dựng nên trời đất sanh linh. Rồi trời đất sanh linh cũng nương đó mà về hiệp nhứt cùng Thầy.
Nếu các con tự tham khảo và lãnh hội được thì chuỗi châu 54 hạt là cả một cơ mầu tối thượng. Từ Hà Đồ 55 biến thành 45. 45 là số Lạc Thơ, hầu chúng sanh ra ngoài Hậu Thiên mà thố loạn, nghịch khắc chia cách đối thù. Mười điểm tại cung Lạc Thơ đã phóng ngoại, mà ngũ nguơn biến thành ngũ dục vô minh che phủ lạc đạo quanh trong sáu nẻo luân hồi.
Thầy dùng Linh Châu cho con phản hoàn đủ số 54 cộng 1 trở lại Hà Đồ, thì âm dương tương hội, nội ngoại nhứt tề. Một pháp môn cộng đồng bình đẳng, tâm nhứt tâm hồi hướng cùng Thầy. Sự thông công phương tiện không gì khó khăn.
Song cũng ban cho các con một pháp môn nội ngoại đồng tu, phước huệ song toàn là pháp Tướng Châu để chỉ rõ môn tu, môn học và môn hành. Cho người có vị có quyền trong Giáo Hội, bằng diệu lý đẳng thừa cả Thích, Đạo, Nho, ngoại giới thiên nhiên, nội giới tâm linh làm một. Là các pháp trừ, cộng, nhân, chia thành một con số sinh cơ nhứt tức, không chấp ngã chấp pháp, chỉ, quán đồng tu.
Nếu bước nầy không điều khí an thần thì mong gì vào cửa Tâm Châu. Đã vào Tâm Châu là một nấc thang trên chót. Thầy cũng hứa sẽ cho các con một vài phương tiện để tùy căn cơ mà độ tận các con hằng đẳng sai biệt nơi cõi phàm trần.
Như pháp hoàn đơn trên và trên đầu thang, nếu chơn không còn dựa ở thang mà vượt ngoài không gian vô tận.
Nhưng các con cũng cầu vọng cái xa xăm trống rỗng mà tự mình chưa chủ lấy tâm mình. Thử hỏi, Phật có nhị không để trừ tam tâm tứ tướng? Nhị không là vô ngã vô pháp, không ngoại giới, không thân mình. Các con đi đến đó được không?
Lão thì có tam vô: vô danh, vô kỷ, vô công. Khổng thì tứ vô: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã để cầu thành đạo quả vô sanh. Các con sao quá chấp pháp nọ pháp kia, đây hơn đó kém mà bị kẹt mãi trong vọng thức không nhận chân câu pháp vô định tướng. Pháp không cố định một hình tướng mà hiệp cơ vi diệu. Khế hiệp với căn cơ và hoàn cảnh thì linh diệu thành công. Đâu phải khư khư chấp nhứt, cứng khừ, khô khan, chết ngột không còn biến hóa.
Thuyền để qua sông, nhưng qua được bờ kia là nhờ cái tâm lái theo hướng định. Nên từ lâu các Tổ ra đời không dám hé một lời quả quyết, vừa khẳng định, vừa phủ định. Nếu khẳng định thì làm cho đệ tử kẹt vào pháp, mà pháp chuyển không sao chuyển được pháp.
Ngô Minh Chiêu thành đạo sao các con không thành? Vì các con chấp mà Chiêu không chấp. Các con chẳng những chấp pháp mà lại chấp cả Chiêu mới lạ cho kìa! Chiêu đến đây để tượng trưng quyền pháp. Mục tiêu vì thiên hạ trên trần gian, phát tâm cứu độ để rồi ai cũng trở thành Ngôi Hai, ai cũng trở thành Thượng Đế. Nào phải người đến đây để cho thiên hạ lạy thờ ca ngợi, ngắm nghía chơn tướng của người.
Các con phải học Chiêu, đức độ rộng lớn, hạnh chỉ ôn hòa, tâm tư rỗng rang cởi mở, ăn nói lợi quốc ích dân, việc làm khuôn viên mực thước, một dạ tu hành. Chớ đừng ỷ lại chánh pháp đó chắc mười phân là được, mà được không do ở một tâm. Thầy đã nói Thầy là các con, các con là Thầy, thì các con cũng thành được Thượng Đế, hà tất Ngôi Hai, Ngôi Ba. Ngôi Ba là hóa thân. Ngôi Hai là báo thân. Ngôi Một là pháp thân. Tam thân đồng nhất thể của Thầy.
Thầy đến lần nầy trao ngay chánh pháp cho các con, mà chánh pháp đó từ lâu, bị gián đoạn, từ Thích Ca truyền cho Ca Diếp đến hai mươi tám Tổ. Tổ chót là Đạt Ma truyền qua Trung Quốc đến Huệ Năng thì chánh pháp nhãn tạng bị lu mờ, nên tu nhiều mà không chứng quả.
Lần ba nầy Thầy trao truyền cho Chiêu. Chánh pháp nhãn tạng này chẳng những như xưa mà phổ cập mười phương. Dù kẻ tu nội tỉnh cầu tâm hay ngoại tu cầu pháp, cũng được siêu độ. Nên con nào tu pháp môn nào mà có Thiên Nhãn thì cũng được kết quả. Vì sao? Vì pháp môn chỉ tu khí dưỡng tinh mà không có thần làm sao hoàn nguyên đăng thượng. Cũng như gà ăn no thì đẻ trứng, song không trống khó nở con. Cây cỏ cũng thế, cô âm bất sanh, cô dương bất thành.
Mà chánh pháp nhãn tạng là sao?
Tạng là kho chứa. Nhãn là con mắt, là xu cơ ([11]) của tâm. Nếu luyện thần nhãn mà luyện song quang thì làm sao âm dương trở về cội gốc là Thái Cực. Nên phải mở mắt giữa mới thấy được Huyền Quan. Nói ‘Nhãn thị chủ tâm’, thế là tâm chủ tể của hai mắt. ‘Lưỡng quang chủ tể. Quang thị thần. Thần thị Thiên. Thiên giả ngã dã.’ Đó là một yếu quyết khai thông khi các con được truyền để hiệp một với Đại Đạo .
Hôm nay nhằm ngày lễ kỷ niệm Ngô Cao Tiên là người Thầy chọn trước, mà cũng là người tượng trưng quyền pháp cho nền đạo của Thầy, cũng người đã làm đúng lời Thầy đã dạy, mà cũng là người tin cậy trực tiếp cùng các con. Thầy mừng các con biết quý Hiền tôn Đạo mà trông cậy vào người. Điều đó có thể nối nhau thành dây quyền pháp.
Song các con là người đi thẳng với hệ thống Chiếu Minh lo tu kỷ độ thân thì cũng chẳng nói làm gì. Bằng theo hệ thống Trung Tông, thì phải đi trên đường phước huệ, tự độ, độ tha, cả cứu mình và lo cho Đạo. Nghĩa là đồng thời hành đạo, đồng thời tu luyện. Bản thân thung dung đừng gấp gãy. Lúc nào cũng tu, thời nào cũng luyện. Gặp phải cũng làm, gặp duyên lành cứ kết. Một việc thiện chớ bỏ qua, một cơ hội may chớ trễ. Đó là hệ thống kiêm cai quyền pháp, làm Bồ Tát vị chúng sanh. Còn con nào muốn thành một mình làm La Hán cũng không khó. Song chẳng khi nào được có báo thân, mà không có báo thân thì chỉ hưởng nhàn, nào giúp nên đạo cho vạn pháp được.
Thầy cũng chuẩn y lời nguyện các con. (…) Nhưng sau đừng trách Thầy không vẽ đường chỉ hướng. Ngô Minh Chiêu không phải chỉ là Giáo Chủ của Chiếu Minh mà thôi. Mà chỗ nào, nơi nào có thờ Thánh Nhãn là có Ngô Minh Chiêu ứng hóa thân, truyền pháp bằng đủ phương tiện độ người.
Các con nên nhớ rằng Thầy không giao chánh giáo cho tay phàm mà Thầy phải lập Hội Thánh để chọn người ly trần xuất tục, hòa mình cùng đạo, mà thừa lịnh Thầy để phổ hóa chúng sinh. Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy đến lập pháp cho các con mãi mãi, không phải một lần. Thuyền đạo biến hóa vô lượng thù thắng, đâu phải một vài bí tích như các con hiểu.
Thầy ban ơn lành cho mỗi con. Thầy có dịp sẽ dạy thêm. Thầy khen các con nơi nầy đã có lòng tu học, có chí cầu thánh đắc chơn. Ráng lên Thầy sẽ mượn tay các con điểm tô nền Đạo. Thầy thăng.
Từ năm Kỷ Dậu (1969) Hội Thánh Truyền Giáo cầu truy phong cho chức sắc và đạo tâm có công đã quá vãng đồng thời tổ chức lễ rước sắc phong về các thánh thất rất long trọng. Hội Thánh mở khóa hạnh đường cho hai mươi hai tân lễ sanh trong bốn mươi lăm ngày, kết quả rất khả quan.
Một duyên lành đến cho Hội Thánh là tại Tam Kỳ xin được khu đất khá rộng ngay mặt quốc lộ 1. Giáo Sư Thái Phẩm Thanh lo đảm trách việc xây dựng Thánh Đường Quảng Tín. Tại Bình Định dòng tộc Ngô Tùng Châu đã hỷ hiến cho giáo hội Cao Đài mười một mẫu ruộng để làm phước thiện. Đây là do lời Đức Ngô Tùng Châu dạy tại Kim Quang Minh Đài ngày 22-6 Canh Tuất (24-7-1970):
VIỆT bang nào phải có ba kỳ
NAM, Bắc, Trung phần do Pháp ly
CÔNG nghĩa, hy sinh vì Tổ Quốc
THẦN trung tuẫn tiết lúc lâm nguy
NGÔ thân bất độ hà thân độ
TÙNG Đạo tùng Thiên chánh pháp quy
CHÂU thỉ phục hoàn đời mạt kiếp
GIÁNG phân lý sự rõ tường tri.
Lão Thần chào chư Thiên mạng Hội Thánh Tiên Thiên. Mừng chư chức sắc các cấp Hội Thánh Truyền Giáo. Mừng các cháu trong tộc Ngô của Lão.
Giờ nầy Lão vâng Thiên sắc giáng đàn, để đôi lời đàm đạo cùng chư Thiên mạng trong việc hành đạo, sau để đôi lời với các cháu.
Những dĩ vãng chứng minh huyền linh của Đạo Trời, vì thế từ ngày khai đạo, các bậc công thần, văn võ các triều vua cùng quy phục dưới chân Thầy để lo bồi công lập đức, lãnh thánh sắc giúp phần hữu hình trên đường hành đạo. Vì vậy ý Lão không muốn cho thân tộc của Lão hưởng phần tế tự. Vì câu:
- Lưu hữu dư bất tận chi CÔNG, dĩ hoàn Tạo Hóa.
- Lưu hữu dư bất tận chi LỘC, dĩ hoàn triều đình.
- Lưu hữu dư bất tận chi TÀI, dĩ hoàn bá tánh.
- Lưu hữu dư bất tận chi PHÚC, dĩ hoàn tử tôn.
Vì yếu lý của bốn câu “Lưu” ấy mà Lão không muốn cho một cháu nào thụ hưởng phần vật chất của triều đình ban cấp tế tự lăng miếu của Lão.
Bởi câu “Thế sự vạn ban đô thị giả; nhân gian đạo đức quả vi chơn”, Lão muốn để phúc đức cho con cháu mà thôi. Vậy cháu Ngô Tùng Du, là phần hiện tại trong trưởng tộc, cháu nghe lời Lão Tổ, nhắn với các cháu nam nữ, lão ấu ráng hồi đầu hướng thiện, quy y vào Đại Đạo, để hưởng được ân xá Kỳ Ba.
Tỉnh Đạo Bình Định đã thay mặt Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài xây dựng lăng miếu Ngô Tùng Châu ở Phù Cát và hằng năm tổ chức lễ giỗ tại Tỉnh Đạo vào ngày 25-5 âm lịch rất trọng thể. Do sự kiện nầy mà Đền Ba Vua Tây Sơn ở Bình Khê hằng năm cũng mời Tỉnh Đạo Bình Định lo phần tế lễ vào ngày mồng 5-01 âm lịch.
Cùng năm Kỷ Dậu, quý Thiên ân thọ pháp đàn Chợ Lớn tuần tự dâng lễ chín năm. Để nêu cao tinh thần trung đạo, Ơn Trên đã vận chuyển tiền bối Minh Quảng ([12]) từ đàn Chợ Lớn ra Trung, xin lệnh Ơn Trên chế giảm một số niêm thức ngoại dung tạo nên sự hài hòa cho Trung Tông Thánh Tịnh.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, Hội Thánh tổ chức ban trao thiên phục cho các Đầu Họ Đạo. Lễ phục của chức sắc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài đều là bạch y, bạch cân; chỉ riêng Lễ Sanh Đầu Họ Đạo được Đức Lý Giáo Tông ban trao phẩm phục theo phái để hành quyền độ sanh độ tử.
Qua năm Tân Hợi (1971), Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài lập Thành Đạo Cam Ranh cử Giáo Sư Nguyễn Khoa Trường (Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế Hội Thánh) kiêm nhiệm chức vụ Đầu Thành Đạo.([13])
Thánh thất Trung Minh ở Sài Gòn hoàn tất xây dựng hai đài, Hội Thánh bổ nhiệm Lễ Sanh Lê Thành Tiến làm Đầu Họ Đạo, tổ chức lễ khánh thành ngày 01-6 Tân Hợi (22-7-1971).
Trận bão Hester khủng khiếp năm 1971 lại thêm chiến tranh ác liệt năm 1972 làm dân chúng và bổn đạo miền Trung khốn đốn. Ba Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh, Hội Thánh Cao Đài Trung Ương Trung Việt (Tam Quan), và Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài (Đà Nẵng) cùng hợp tác lập ban cứu trợ do Sĩ Tải Đặng Ngọc Dương (Truyền Giáo) làm trưởng ban.
Phối Sư Chủ Trưởng Huệ Lương (Trần Văn Quế) hướng dẫn phái đoàn gồm đại diện chín Hội Thánh đi Tòa Thánh Tây Ninh để thương thảo việc lập Hội Đồng Vận Động Thống Nhất Giáo Hội Cao Đài ngày 17-10 Nhâm Tý (22-11-1972).
Về chương trình sinh cơ lập nghiệp cho bổn đạo, Giáo Sư Ngọc Tín Thanh lập phái đoàn vào Phước Tuy tìm đất lập khu kinh tế mới, nhờ phối hợp với đạo trưởng Trần Quốc Luyện nên kết quả mỹ mãn.
Ngày 18-01 Quý Sửu (20-02-1973), Hội Thánh đưa ba ngàn tín đồ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định vào khẩn hoang lập nghiệp tại xã Suối Nghệ, huyện Đức Thạnh, tỉnh Phước Tuy (nay là xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Hội Thánh cử đạo trưởng Bạch Hổ (Trần Quang Châu) chỉ đạo thành lập ba thánh thất Trung Nam, Trung Nghĩa, Trung Tín và thánh đường Tỉnh Đạo.
Công trình kinh tế mới của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài ở đây rất quy mô, mở đường sá, có khu dân cư, chợ búa, trạm y tế, trường học, nhà sinh hoạt Thanh Niên Hưng Đạo Đoàn, một khu nghĩa trang rộng bảy mẫu tây. Khu canh tác bạt ngàn, tùy sức bổn đạo phân lô khai thác. Hội Thánh liên tục cử chức sắc vào thăm viếng, ổn định tổ chức nhân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tu học cũng như phương tiện sinh cơ lập nghiệp. Ở miền Nam, nhiều phái đoàn các Hội Thánh bạn đến thăm và ủy lạo trong tinh thần tương liên đồng đạo.
Giáo Sư Ngọc Trường Thanh ở Phú Yên đang là Đầu Thành Đạo Cam Ranh phối hợp với Sĩ Tải Đặng Ngọc Dương vận động xin khẩn hoang lập khu định cư Trung Hiệp tại Suối Hòa (Cam Ranh). Nơi đây tiếp nhận ngót hai ngàn đạo hữu ở Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín và thành lập thánh thất Trung Hiệp. Hội Thánh bổ nhiệm Quyền Giáo Hữu Nguyễn Phái làm Đầu Họ Đạo.
Tại Trung Tông Thánh Tịnh, đàn Tý thời ngày 01-7 Quý Sửu (30-7-1973), Đức Cao Đài dạy:
THI
CAO quyền đâu phải cậy danh suông
ĐÀI thánh thông công đạo tận nguồn
THƯỢNG đẳng pháp môn Nho, Thích, Lão
ĐẾ triều tận độ mở Thiên môn.
Thầy hôm nay vì lòng từ bi không lẽ để cho các con ngày tháng nổi trôi theo dòng trào lưu mà chưa quyết được bến bờ để sớm chiều yên thân mở rộng cửa từ cho nhơn sanh noi theo hướng để cùng chung vui trong sứ mạng. Thầy cho phép các con an tọa.
BÀI
Đạo là cái, cái không phải cái
Đạo là không nào phải ngoan không
Đạo là muôn lối cộng thông
Bao hàm tất cả hẳn không danh từ.
Nếu suốt lẽ thiệt hư, hư thiệt
Nào chấp nê trái mất chơn truyền
Nguyên đầu hỗn nhứt tiên thiên
Phân Nghi lập Tượng pháp quyền khởi đoan.
Cơ mầu nhiệm linh quang biến hóa
Mà có nên tất cả sắc không
Kiền khôn một chủ nhân ông
Thiên sai vạn biệt ngoài trong cũng Thầy.
Tuy mắt phàm đó đây khác biệt
Mà kỳ trung vốn thiệt không hai
Đừng lầm nghĩ quấy chấp sai
Cổ kim chỉ một Cao Đài hiện thân.
Vạn giáo thể vạn dân mà có
Đủ muôn màu đen đỏ vàng xanh
Thuốc hay trúng chứng bệnh lành
Tùy duyên hóa độ sở hành khế cơ.
Thấy được tâm nào ngờ chi nữa
Thần ra vào không cửa pháp môn
Pháp môn chế phách luyện hồn
Bệnh đời đủ loại, pháp môn đủ đường.
Mượn pháp môn định phương dẫn lối
Vì pháp môn gây lối tranh giành
Phải chăng họa ấy lộng hành
Mà Thầy phải đến điều đình quy nguyên.
Dung nhiếp cả công truyền, tâm pháp
Dung hòa cho ứng hợp cơ linh
Nếu ai còn chỉ thấy mình
Đời còn tranh cạnh bất bình khổ đau.
Con cùng Thầy chung nhau cải tạo
Cho cảnh đời toàn hảo tồn sinh
Chúng nhơn cộng hưởng thanh bình
An vui tiến bước Thiên Đình lại quê.
Chưa tỏ ngộ vì mê còn chấp
Chấp càng nhiều tâm lấp càng sâu
Biết phương phản tỉnh nội cầu
Cùng Thầy ở chỗ nguyên đầu nhứt như.
Người giải thoát vô tư vô niệm
Tuy căn cơ đốn tiệm hành công
Vạn duyên giữ sạch nơi lòng
Để tâm ngoại sự bao đồng ích chi.
Tu mà còn thị phi ái ố
Mở rộng đường rước khổ chiêu oan
Vào đâu là cửa Thiên Đàng
Vin đâu mới thiệt Niết Bàn của con.
Nếu một niệm mà còn mê chấp
Thì vô minh che lấp chơn như
Ngày nào tâm trẻ hư hư
Lo gì lập đảnh an lư không thành.
Còn chấp ngã, chấp danh, chấp pháp
Mãi trong vòng đối đáp lại qua
Đạo Thầy tổng hợp dung hòa
Quy nguyên phục nhứt một nhà cộng thông.
Khắp nam bắc tây đông trời đất
Dù duy tâm, duy vật trăm đường
Quý là ngàn sắc muôn hương
Tinh hoa rải rác mười phương thiếu gì.
Bậc thánh trí biết quy tụ lại
Người ngu mê chấp mãi một bề
Mộng đời chưa chín nồi kê
Nhục vinh được mất chán chề chăng con.
Ngoài tai mắt không còn ưa ghét
Trong não cân đoán xét cũng không
Rỗng rang mở một đường thông
Thích, Gia, Nho, Lão huyền đồng tương dung.
Pháp tu luyện bảo trung thủ nhứt
Mà đạt trong tận thức siêu phàm
Nếu còn say đắm muốn ham
Nói Tiên nói Phật thêm làm vướng tâm.
Vô vi tuyệt thanh âm sắc tướng
Đạo phải đâu hình tượng ngôn từ
Nếu mà ngộ kiến minh sư
Ứng thông không thiếu không dư mới mầu.
Xưa lập pháp năm châu tế độ
Tùy cơ duyên tùy chỗ bịnh sanh
Thế nhơn gặp thuốc tất lành
Khư khư tin chỉ Thầy mình là hay.
Quên dưới trần, nhiều tay y thủ
Quên trong đời có đủ các khoa
Dĩ nhiên trong chính có tà
Trong tà có chính chọn ra phần nào.
Thế thường biết khen cao chê thấp
Mà mấy ai tự lập lấy thân
Dầu ai là Thánh là Thần
Mà mình bỏ mất thiên chân ích gì.
Lỡ buông ra mau quy trở lại
Biết dung hòa tự tại an vui
Cớ sao có mắt mà đui
Thấy mình mà chẳng thấy người chung quanh.
Lòng vị kỷ chia ranh mất bạn
Kiếm si mê cắt đoạn tình thương
Giữ tâm cũng phải lắm đường
Quy căn phục mạng Tây Phương phản hồi.
Quyết không để chia đôi tâm vật
Quyết không cho lẽ thật lấp vùi
Khổ là trống ngược kèn xuôi
Mà Thầy vì trẻ ngậm ngùi từ lâu.
Nạn riêng rẽ đám đầu môn pháp
Thiếu tinh minh lạm trái quyền hành
Phương tu pháp đạo chưa rành
Trung hưng cốt để tài thành phục nguyên.
Pháp trung hưng vô thiên vô ỷ
Thời trung hưng bất nhị bất phân
Chỉnh tu hình thức Thiên ân
Chỉnh tâm lệch lạc quy chân phản tiền.
Sứ mạng muốn trao quyền cho trẻ
Bởi mỗi con bác bẻ lời thề
Lời Thầy Hội Thánh bỏ bê
Bửu Chương Pháp Đạo không về tận tay.
Mới có cuộc đổi thay biến chuyển
May ơn Thầy bốn biển hồi sinh
Năm châu tâm hướng hòa bình
Mỗi ngày thế giới thâm tình giao thân.
Lòng nới rộng xích gần nhau lại
Dẹp tư riêng phe phái đối thù
Trong đời cũng lắm lối tu
Gặp nhau ở chỗ công phu dung hòa.
Cao Đài Giáo lại là chỗ đó
Đó là tâm có có không không
Có không trời đất hội thông
Hội thông cho được chủ ông muôn loài.
Chủ được tâm không ngoài hư tịnh
Không chủ tâm bá bịnh trùng sanh
Chủ tâm ngụy tật tiêu lành
Buông tâm nô lệ hư danh mất quyền.
Thầy hôm nay cho các con một đường hướng, để định đoạt danh phận của đời mình. Thầy không phủ định mà cũng không khẳng định đó là đúng hay sai. Nhưng khi Thầy trao quyền tự lập cho mỗi con. Thì quyền pháp ấy ở vị trí nào lo an toàn cho cơ sở đó chờ Thầy đem nhau lại.
Đây tới ngày Long Hoa cũng không còn bao nhiêu năm nữa, con phải làm gì để được dự vào ghế Thiên ân, làm xong và đúng sứ mạng của mình?
Các con là hướng đạo. Con sai thì tất cả đều sai. Con đúng thì mọi người mới được ơn. (…) Chẳng những các chi phái ở trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mà cả vạn giáo trên toàn cầu, đều có một trách nhiệm riêng. Trách nhiệm ấy là một trong tất cả. Chờ Thầy để kết tinh. Không nơi nào và đứa nào được nói mình là đúng mà kẻ khác là sai. Nhưng các con từ lâu cũng có công và giàu tâm tu học, đáng nên chung lại, mà lập lấy sự nghiệp cao quý nầy. Tùy căn cơ và trình độ thành một hệ thống tâm linh, hà tất phải bôn Nam tẩu Bắc, mà kết cuộc là tay không như giấc mộng huỳnh lương. Nếu các con biết thương nhơn sanh và quý trọng quyền pháp của Thầy, nên bình tĩnh họp nhau mà vạch một con đường, giúp tất cả đạt trình độ, lớp nào cũng cộng sự sống với nhau thì Thầy hứa không để các con cô lập.
Thầy ban ơn mỗi con. Thầy thăng.
Hội Thánh mời họp cả Trung Hưng Bửu Tòa và Tịnh Đường, có Phối Sư Huệ Lương, đạo trưởng Thanh Long, đạo trưởng Bạch Hổ, và đạo trưởng Trần Quốc Luyện về dự. Với tinh thần kiện toàn bộ máy Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài xứng tầm là Hội Thánh công vụ sứ đồ, theo nghị định số 001/47/HT/NĐ ngày 12-02 Nhâm Tý (26-3-1972), chức sắc lưỡng đài quyết định lập đàn vào ngày 15-7 Quý Sửu (13-8-1973) để dâng sớ cầu thăng Phối Sư Chủ Trưởng lên Chánh Phối Sư để đủ uy lực nắm quyền Nội Chánh phần hữu hình.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, đàn Tý thời, ngày 15-7 Quý Sửu (13-8-1973):
THI
HƯNG truyền chánh pháp cậy Thiên ân
ĐẠO đức rèn tu độ khách trần
ĐẠI chí vượt qua muôn trở ngại
VƯƠNG công hầu bá cũng vì dân.
Bản Thánh chào mừng chư chức sắc lưỡng đài, đạo tâm nam nữ. Đẳng đẳng thanh tịnh an tọa.
Hôm nay nhân ngày Trung Nguơn Địa Quan xá tội, Bản Thánh vui mừng được tâm tình cùng lưỡng phái Thiên ân.
(…)
Hôm nay Hội Thánh thiết cơ đàn để cầu thỉnh thánh ân quyền pháp, buộc người hướng đạo phải luôn luôn tôn trọng để tự khép mình mà làm gương cho kẻ dưới. Một oai nghi, một cử chỉ, nhất tịnh, nhất động phải đặt mình trong khuôn khổ đạo đức, hầu làm sáng danh Thầy, sáng danh Hội Thánh. Không nên vì một cớ nào, rủi bị sơ hở làm cái cớ cho kẻ khác vấp phạm.
Quyền đạo khác hơn quyền đời. Người hướng đạo lo cho nhân dân, cho tín chúng, phải chịu nhiều hy sinh để lợi đời lợi đạo. Người Thiên ân càng ôn hòa nhường nhịn trước mọi thử thách mà chẳng động tâm. Được vậy không cần giới thiệu mà mọi người kính yêu. Mọi người men chân bén gót cùng mình mà về với đạo. Hội Thánh trải qua bao nhiêu năm khảo đảo bên ngoài lẫn bên trong làm cho quyền pháp bị lu mờ, tình đạo mỗi ngày suy sụp.
Hội Thánh là đầu não cho các guồng máy nhỏ lớn ở rải rác xa gần. Nếu động cơ chính bị ngưng thì cơ cấu các nơi đều đình trệ. Người Thiên ân có sứ mạng nơi mình phải là người có quyền pháp, không còn thấy một cá nhân của mình. Vì vậy mà lúc nào cũng nghĩ đến mình đến đạo. Lấy đạo làm tâm, thì tâm được thích nghi thỏa hợp cùng mọi người. Dầu cảnh ngộ thiên biến thiên sai cũng có thể khế ứng, ủy khúc tùy hình để hóa dân vi thiện.
Quyền là lẽ sống mà Thầy đã ban cho, thì quyền ấy ai ai cũng có. Có sự sống là có Thầy. Thầy là lẽ thật và tình thương, nên giữa nhau phải được yêu kính hòa thân. Hòa là nơi làm tòa ngự của Thầy thì thua kém người đời lắm nhỉ?
Đạo có thành, Hội Thánh có uy danh, hàng ngũ cơ cấu đạo quyền được an lành mạnh mẽ. Cũng bởi hòa mà công nghiệp rực rỡ bền lâu.
Vậy tóm lại, các hiền là người vì đại cuộc, lại không quên mình mà thành tựu cho sứ mạng được sao?
Hôm nay vì những sự thiết cần, vì luật pháp không cho phép vượt qua, nên thỉnh lịnh chuẩn phê, đó là một việc mà còn biết bao nhiêu việc, dầu Thầy có từ bi, nhung lưu tệ sau nầy thì trách nhiệm kia ai nhận?
Hôm nay Thầy không đến cũng như Lý Giáo Tông, nên cho Bản Thánh đến đây để thỏa nguyện chư Thiên ân. Quyền lập họ là quyền của Giáo Tông, mà phong thánh và ban sắc là quyền của Thầy, thì bảo lãnh phải được hai quyền mới đủ.
Các hiền! Về vấn đề nào cần cấp hơn nên giải quyết trước. Còn những quyền mà nội bộ chưa thỏa thuận thì cần xét lại và cầu ân Thầy xin phong cho những vị ấy. Bằng vội vàng sau nầy có chỗ bất nhứt thì phạm đến hồng ân. Các hiền nghĩ sao?
[Giáo sư Ngọc Tín Thanh bạch …]
Theo thánh ý thì Thầy và Giáo Tông muốn cho Hội Thánh Truyền Giáo đứng trên cương vị trung hưng, lấy quyền pháp làm then chốt cho công cuộc đem đạo vào đời. Danh và thực, chất và văn phải được tương xứng, đó là hạnh lớn của người Thiên ân. Chức vị từ hàng Lễ Sanh trở lên các cấp trong Hội Thánh thấy vậy cũng vừa. Đem so với các Hội Thánh ở mỗi phái thì phẩm vị có phần vượt đẳng ra ngoài luật lệ, đối vị nơi Thiên Đình trời vực khác xa. Nếu hưởng cái danh vị bây giờ thì mất phần hưởng về sau. Bản Thánh tưởng các hiền nên thực hành quyền hạn địa vị của mình đúng với Pháp Chánh Truyền. Tuy thiệt thòi ở thời loạn ly đen tối, song cũng tự hào mình là một ngôi sao ở giữa đêm dài. Hơi nào lấy chơn đo giả, bỏ thực cầu danh.
Còn về Huệ Lương, Hội Thánh muốn tiến phong người lên Ngọc Chánh Phối Sư, Thầy cũng thể lòng Hội Thánh và nhơn sanh. Nhưng mong đợi một ngày hồng ân mà Ngọc Chánh Phối Sư y hành theo Pháp Chánh Truyền, hầu làm gương cho khắp cả mọi nơi và làm tỏ quyền pháp Trung Hưng cho Hội Thánh và nhơn sanh nhờ. Nếu không gì trở ngại thì vào tiết Nguơn Tiêu năm Giáp Dần chư chức sắc các cấp, các ngành về Hội Thánh cử lễ bái mạng thọ phong và toàn đạo suy tôn chào mừng ngày Hội Thánh có đủ quyền đời trong cửa đạo.
Chánh Phối Sư là người thay Đầu Sư về quyền hành chánh trị đạo, tức là người cầm đầu Hội Thánh hành pháp. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài là Hội Thánh cấp hành pháp với cơ chế ba phái bốn cơ quan gọi là Tòa Nội Chánh do Đức Thượng Chánh Phối Sư Trần Hưng Đạo làm Tổng Lý Vô Vi.
Nay theo ý nguyện của các Thiên ân dâng sớ xin phong Chánh Phối Sư cho Phối Sư Chủ Trưởng Ngọc Quế Thanh, Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo đã thỉnh lịnh chuẩn phê và thay mặt Thầy cũng như Đức Giáo Tông ban lệnh bái mạng tiến phong cho Chủ Trưởng Hội Thánh vào vị trí Chánh Phối Sư để cầm quyền lảnh đạo toàn diện về mặt hữu hình.
Theo thánh ý thì lễ bái mạng vào ngày Nguyên Tiêu (rằm tháng Giêng), nhưng Hội Thánh đã tổ chức vào dịp lễ Vía Đức Chí Tôn (09-01 Giáp Dần, 31-01-1974). Đức Trần Tổng Lý giáng đàn ban ân mừng lễ: “Bản Thánh thừa lệnh Thầy và Tam Giáo đến ban quyền chủ hành pháp sự cho Ngọc Chánh Phối Sư và ban ân chung chức sắc cùng toàn thể đạo tâm nam nữ trong lãnh vực Hội Thánh.”
Một tuần trước đó, đàn ngày 02-01 Giáp Dần (24-01-1974) tại Trung Tông Thánh Tịnh, Đức Chí Tôn dạy:
Các con nghe đây! Cơ sở giáo pháp lấy Trung Tông làm nền móng cho sự giải thoát. Các con cần phối hợp nhau cải tổ cho một tổ chức điều hành, nhắm hướng xây dựng một nền tâm pháp tổng hợp mọi tân cựu vô vi. Lấy chữ trung làm trung tâm quyền pháp, phối đồng giữa công truyền và tâm truyền, người xuất gia, người tại gia tu học, giữa pháp môn Tam Giáo và Tam Thanh. Giữa Tịnh Đường, tịnh thất, nhà tu có một tổ chức ban điều hành lãnh đạo.
Các con cần coi họp lại, định một chế ước tạm thời cho các thành phần tu học tại gia, xuất gia, hoặc lập công và hộ trì, cũng như đường lối sinh hoạt. Cốt sao hòa thân nhau và giữ lấy thanh tịnh, giữ danh dự của Trung Tông, nhà tu, tịnh thất. Tịnh thất cho phép được sinh hoạt theo họ đạo, có tiểu ban dưới quyền Ban Tịnh Đường.
Mặc dù xã hội bấy giờ biến động quá dồn dập, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài vẫn nhất tâm với sứ mạng cho đúng thánh ý. Hội Thánh đặt kế hoạch kiện toàn dòng tu Bảo Thọ, mở khóa tu học mười ngày cho nữ tu, tổ chức đại hội kỷ niệm mười năm thành lập Hưng Đạo Đoàn. Phái đoàn Hội Thánh do Chủ Trưởng Ngọc Quế Thanh hướng dẫn đến thăm các khu khẩn hoang ở Suối Nghệ, Cam Ranh. Hội Thánh cho xây dựng trường học ở Trung Hiệp, thiết lập Trung Tâm Sinh Hoạt Thanh Niên Hưng Đạo Đoàn ở Mỹ Khê (Đà Nẵng), tiếp tục phát triển khẩn hoang lập ấp tại Láng Dài (nay thuộc huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), từ Bưng Kè (nay thuộc xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đến Dầu Giây (nay thuộc huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai).
Đàn cơ xuân Ất Mão (1975), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Về đường tu nơi đây, nên mượn nhiều phương tiện mà đưa người đến mục đích. Đừng chấp nhứt hẹp hòi. Mở rộng phạm vi dung chứa tất cả. Cũng đừng chấp mình là phải, người là sai. Trong cái phải bao giờ cũng có cái trái, trong cái sai có cái trúng, mà căn cơ cũng đủ hạng người. (…)
Kẻ tu cũng đừng thiên vô vi là trúng, mà hữu hình là sai. Con đường phước huệ, nếu kẻ tu phước để gieo duyên cùng sanh chúng, để tập mở rộng lòng vị tha, lập công bồi quả mà đoạn lần trái oan, đó là dọn sẵn con đường đại thừa cho kiếp lai sinh. Còn kẻ tu huệ, cũng không nên chấp mình là thấy rõ đạo mà cứ ngồi lỳ, ai chết sống vô can, mà phải giữ tâm vô sai biệt, để lòng bình đẳng, hầu nhận lấy quả vô sanh.
Các hiền nếu mong thành một sứ giả của Cao Đài, phải tỏ đạo sáng tâm, bao dung mọi tầng lớp, mọi tín ngưỡng, mọi dị đồng.
Ngày tái tạo hòa bình thánh đức, Thầy đã sắp sẵn các vai trò những sứ giả của Thầy ở khắp mọi nơi mọi chỗ. Họ đương hoạt động trong mọi tôn giáo, mọi dân tộc, mọi xứ mọi nơi. Chúng ta sẽ cùng với mọi sứ giả kia làm một. Còn về con đường bí pháp nơi đây, cần được đồng tâm nhứt trí. Dầu ngày kia có bề thế lớn lao cũng đừng vì đó mà kiêu. Cơ thử thách sẽ bất thần đưa đến. (…)
Còn Huyền Quan [Đàn] từ đây trở đi, hồng ân đã ban cho một phần thông công về tâm pháp. Nói chung, Thầy ban cho nơi nầy một cặp đồng loan là ban chung cho toàn đạo. Các hiền và đạo tâm cứ vững lòng tin nơi đó, thì mọi việc dù tư hay công cũng được an toàn. Các hiền thanh tịnh lo tu thì thân tâm ấy là thân của đạo. Đã là của đạo thì một sợi lông chẳng hề mất đi đâu mà phòng ngại. Dầu ai nói qua nói về, nhưng nên nhớ lời Thầy đã dạy: Mọi sự chi chi đều có bàn tay của Thầy trong đó.
Còn việc Bùi Hà Thanh có truyền đạo vượt ngoài khuôn khổ Chiếu Minh, các hiền cũng không nên lấy đó làm lạ. Chi chi cũng có Thầy mà ta lại có bổn phận tương quan. Kẻ gieo người lo bón tưới, cho giống sao được sum sê.
Còn những anh em đồng đạo, không phước nào lớn bằng sự quay về, không vui mừng nào hơn là tìm lại được món đồ đã mất.
Sau tháng 4-1975, mọi mặt công truyền phổ độ hầu như đều ngưng lại. Chính quyền quản lý các cơ sở văn hóa, xã hội của Hội Thánh. Không ít thánh sở đóng cửa, tín chúng xiêu lạc. Tuy vậy, tại Trung Tông Thánh Tịnh các tịnh sĩ vẫn ngày đêm ôn dưỡng, hành trì tâm pháp. Giáo Sư Ngọc Trường Thanh (Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế) thọ pháp với Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh (Chiếu Minh Giáo Tòa, Vĩnh Long).
Sau nghị quyết 297-CP ngày 17-11-1977 của Hội Đồng Chính Phủ về một số chính sách đối với tôn giáo, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài được tiếp tục duy trì nề nếp sinh hoạt thuần túy tôn giáo.
Do ảnh hưởng sự kiện ngày 20-9-1978 tại Tòa Thánh Tây Ninh, một số họ đạo ở các tỉnh bị giải thể Ban Cai Quản và Ban Trị Sự; chính quyền cho lập Ban Hành Giáo. Các việc quan hôn, tang tế ở các họ đạo còn được duy trì. Các nhà tịnh vẫn ổn định, tứ thời công phu tịnh luyện.
Trung Hưng Bửu Tòa hầu như thưa vắng cả nhân sự lẫn đạo sự. Ngược lại ở Tịnh Đường các tịnh viên tu tập khá đầy đủ. Ơn Trên đã ban ơn cho tập cặp phò loan Minh Cư và Minh Tuyến để rồi rất đắc dụng cho những kỳ đàn liên tục. Kể từ năm Ất Mão (1975) các thánh giáo dều dạy tu tịnh.
Tại Huyền Quan Đàn, ngày 13-3 Mậu Ngọ (19-4-1978), Đức Lý Thái Bạch dạy:
Con đường duy nhất, tâm tướng không hai, vô vi hữu hình là một, nên mới có thánh thất, tịnh thất để đưa toàn đạo từ tiệm giáo đến đốn giáo, từ phổ độ đến tuyển độ.
Tại Huyền Quan Đàn, ngày 01-6 Kỷ Mùi (24-7-1979), Đạo Đức Kim Tiên dạy:
Bước đạo nơi đây đương thời phục khởi. Bước tu của mấy em qua khỏi thời Thái, bước sang thời Đại Tráng. Với tư cách là huynh trưởng thay mặt Thầy đến đây có mấy lời chỉ dạy. Đã biết bước tu của mấy em đến thời Đại Tráng thì biết rằng còn bao lâu nữa đến hào cửu ngũ là “Long phi tại thiên”, đương hành sứ mạng.
Các em hôm nay đã vượt qua bao sự khảo thí, giũa mài, công phu tu đã chắc thực, điển linh đã ngưng tụ nơi thần thể của mỗi em, nên Thầy ban ơn cho đợt tu trăm ngày, để kiểm điểm, bổ khuyết những điều lệch lạc mấy năm, mà sửa xét dọn mình cho sớm hiện được được thân Bồ Tát. Bản Huynh có bổn phận trông coi, ghi chép công hạnh mỗi em, ghi vào Thiên thơ mà ban ơn liễu ngộ.
Các em đã biết đường sứ mạng nơi đây lớn lao hệ trọng là dường nào, nên nó đòi hỏi các em phải tu chứng đạo quả trường sanh, liễu ngộ chơn như tự tánh, thì mới đồng nhất cùng Thầy mà khai đường tận độ. Đó là sự đòi hỏi của cơ đạo và sự mong mỏi của Thầy.
Hôm nay Bản Huynh đến đây nhắc lại và ban ơn cho mấy em.
Gánh đạo trung hưng bước vững vàng
Đây là ơn phước của Trời ban
Lập chí công phu cầu liễu ngộ
Thành Tiên chứng quả vạn bình an.
Ngày 14-10 Canh Thân (21-11-1980) tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, Ngọc Chánh Phối Sư Huệ Lương (Trần Văn Quế), Chủ Trưởng Hội Thánh, quy thiên, hưởng thọ tám mươi tuổi.
Ngày 09-12 Tân Dậu (03-01-1982), đạo trưởng Thanh Long (Lương Vĩnh Thuật), Tổng Đại Diện Ngoại Giao Hội Thánh quy thiên, hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi.
Tại Minh Lý Thánh Hội (Tam Tông Miếu) ngày 07-6 Tân Dậu (08-7-1981), Chủ Trưởng Huệ Lương về cơ với quả vị Quảng Đức Chơn Tiên. Ngài Huệ Lương vừa là Chủ Trưởng Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài vừa là Tổng Lý Minh Đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, vừa là Vĩnh Tịnh Sư Minh Lý Thánh Hội. Do đó khi giáng cơ Quảng Đức Chơn Tiên nhắn nhủ cả ba nơi ấy:
Chư Thiên ân sắt son gìn giữ
Mối Đạo Trời tuần tự hóa hoằng
Trung Hưng, Minh Lý, Cơ Quan
Tuy ba mà một chu toàn đồng thân.
Sau ngày quy thiên một tháng, đạo trưởng Thanh Long về cơ tại Trung Hưng Bửu Tòa với quả vị Bảo Pháp Chơn Quân:
Quên sao được Tam Kỳ Đại Đạo
Hiệp Ngũ Chi, Tam Giáo một nhà
Kết tinh tổng hợp dung hòa
Thuần chơn vô ngã bao la đại đồng
Nhìn tâm vật sắc không chẳng khác
Mới là người thấu đạt cơ vi
Hơn thua phải trái mà chi
Công truyền, tâm pháp đồng thì phải tu
Lấy công quả đền bù nợ trước
Dụng công phu chế ước lòng tà
Để rồi tự giác giác tha
Song hành phước huệ mới là viên thông
(…)
Giờ ta thử truy nguyên nguồn cội
Năm Canh Thân mở hội Tam Kỳ
Cao Đài tâm pháp vô vi
Đức Ngô gặp đạo tu trì đầu tiên
Sang Bính Dần công truyền mở rộng
Danh Cao Đài chấn động gần xa
Pháp quyền sứ mạng ban ra
Hình thành thánh thể Thánh Tòa Tây Ninh
Tu tâm pháp nâng mình nên Thánh
Cảm hóa người vạn hạnh nơi thân
Công truyền cứu thế độ nhân
Hiện bày sắc tướng uy thần quyền năng
(…)
Pháp Trung Hưng đã đem về một
Dính chùm nhau như hột ác xoa
Dầu mà muốn gỡ không ra
Khác nào sữa nước tan hòa lẫn nhau.
Hai vị đạo trưởng lãnh đạo Hội Thánh đắc quả và về cơ dạy đạo đã củng cố đức tin bổn đạo Trung Tông. Mọi người phấn chấn tinh thần, dõng mãnh tâm tu theo đường hướng công truyền và tâm pháp kiêm tu, thế đạo và thiên đạo đồng hành. Mọi người tâm tâm niệm niệm lời Thầy dạy: “Pháp môn nầy các con đương tu, đương học và đương hành là một pháp môn để tất cả con và nhân loại trên trái đất nầy hiệp một cùng Thầy. Pháp môn về tâm pháp là pháp môn có một không hai.”
Không chỉ là hai vị đạo trưởng Huệ Lương và Thanh Long, mà còn nhiều trường hợp đắc quả khác đã làm chứng cho chánh pháp cứu độ Kỳ Ba. Chẳng hạn: Truyền Trạng Ngô Thanh Toàn đắc quả Thiên Bảo Chơn Quân và Giáo Hữu Bùi Đăng Đáng đắc quả Thiên Đức Chơn Quân (Đinh Mùi, 1967), Trần Minh Quang đắc quả Giác Chơn Đạo Nhơn (Giáp Dần, 1974), Nguyễn Minh Tài đắc quả Thiên Phước Chơn Quân (Bính Thìn, 1976), Ngô Minh Trĩ (thân phụ Ngô Thanh Toàn) đắc quả Phổ Minh Đạo Nhơn và Trần Thị Minh Liên đắc quả Từ Ý Tiên Cô (Canh Thân, 1980), Trần Thị Minh Tiềm đắc quả Từ Quan Tiên Cô (Tân Dậu, 1981).
Thêm các trường hợp khác như: Trần Minh Kiên (đắc quả Thiên Ý Chơn Quân), Nguyễn Phú Minh Huyến (Giác Bảo Chơn Quân), Văn Quy Minh Miên (Thiên Quan Chơn Quân), Đoàn Minh Chân (Chơn Giác Chơn Quân), Nguyễn Thượng Minh Khải tức Minh Phòng (Oai Đức Chơn Quân), Võ Hương Yến (Từ Bửu Tiên Nương)…
Tất cả tịnh viên thọ tu Tam Bảo Hoàn Châu đều có thánh danh với chữ Minh. Từ năm Tân Dậu (1981), những tịnh viên đắc quả vị và được về cơ như: Minh Mua (quả vị Pháp Bửu Chơn Quân), Minh Cửu (Pháp Bửu Đạo Nhơn), Minh Lễ (Lạc Đức Chơn Quân), Minh Mân (Chơn Đức Đạo Nhơn), Minh Đãi (Chơn Minh Đạo Nhơn), Minh Hội (Hội Đức Chơn Quân), Minh Trân (Pháp Hòa Chơn Quân), Minh Khánh (Chơn Ý Đạo Nhơn), Minh Đà (Lạc Không Đạo Nhơn), Minh Truyền (Huyền Quan Đạo Nhơn), Minh Vọng (Phổ Quang Chơn Nhơn), Minh Nghiễm (An Tánh Chơn Quân), Minh Anh (Ngọc Diệu Đạo Nhơn), Minh Cẩn (Hương Huyền Đạo Nhơn), Minh Tuế (Thanh Hương Đạo Nhơn), Minh Liên (Diệu Thành Đạo Sĩ), Minh Quang (Huyền Môn Chơn Nhơn), Minh Minh (Thanh Vân Đạo Sĩ), Hương Đơn (Từ Bích Tiên Nương), Minh Thừa (Phổ Diệu Chơn Nhơn), Minh Sau (Ân Quang Đạo Sĩ), Minh Lư (An Đức Đạo Nhơn), Minh Bổ (Ngọc Bảo Tiên Nương).
Hội Thánh lập một đàn cơ ngày 09-01 Giáp Tý (10-02-1984) tại Trung Hưng Bửu Tòa, có mặt: Liên Hoa (đồng tử), Giáo Sư Thái Phẩm Thanh (pháp đàn), Giáo Sư Thượng Hậu Thanh (hầu đàn), Truyền Trạng Nguyễn Thanh Giang (độc giả), Giáo Hữu Trần Cư (điển ký).
BẠCH HẠC ĐỒNG TỬ
Chào chư Thiên ân, chư đạo tâm. Chí thành chí kỉnh, thanh tịnh tiếp giá Chí Tôn.
NGỌC còn trong đá biết không con
HOÀNG lịnh trao cho khéo giữ tròn
THƯỢNG hạ thỉ chung tâm có một
ĐẾ trào mới thấy cảnh vàng son.
Thầy mừng các con.
Thiên Đình sứ mạng đã ban trao
Mấy ải trẻ qua được ải nào
Quyền pháp trung hưng con đã nhậm
Chơn truyền trung đạo được Thầy trao
Hình thành Hội Thánh vang danh tiếng
Hồng thệ Thiên ân khảo lộn nhào
Tranh chấp giữa nhau không kiến giải
Thuần chân vô ngã bỏ nơi nào
Con thuyền mất lái lững lờ trôi
Thầy đến thì con có lại rồi
Hội Thánh, nhơn sanh lòng có một
Công truyền, tâm pháp đũa thành đôi
Quyết tu chứng quả xương minh Đạo
Vì Đạo quên thân cứu độ đời
Phải trái không còn yên sóng gió
Hồng ân nối lại được mừng vui.
BÀI
Từ Mậu Dần [1938] đến năm Ất Vị [1955]
Đạo hưng hòa thánh ý nhơn tâm
Bồ đề phước địa sanh mầm
Xiển dương chánh pháp ân thâm quả lành
Xa gần một tấc thành chung thỉ
Dưới trên đều nhất trí tu hành
Không quyền, không vị, không danh
Không nhơn, không ngã, không tranh, không lùi
An hay nguy cũng vui với Đạo
Mất hay còn vẹn thảo trọn ngay
Tin Thầy lòng chẳng đổi thay
Quyết tu gian khổ đâu nài tấm thân
Việc Giáo Hội ân cần công quả
Được thánh ngôn quý giá hơn vàng
Xem kinh lòng đặng rỗng rang
Khi nghe thuyết giảng hân hoan cả người
Gặp nghịch cảnh quyền đời cáng đáng
Bị tù đày càng rạng thanh danh
Trung Châu cấm Đạo lưu hành
Chùa niêm thất bế giống lành cứ gieo
Đời đen tối càng khêu đuốc tuệ
Đạo cứu đời dám trễ được đâu
Khó khăn cũng phải đương đầu
Tiên phong mở lối bắc cầu tiến nhanh
Trên đã có đàn anh hướng đạo
Trên nữa Thầy chỉ giáo thực thi
Chung quanh đạo hữu hộ trì
Đoàn quân sứ mạng ra đi oai hùng
Đó thuở Đạo miền Trung lúc mới
Không mảy hào vụ lợi riêng tư
Đến khi chức sắc vào tù
Ở nhà đạo hữu tiến tu gấp mười
Lo tiếp tế những nơi lao ngục
Chung giúp nhau những lúc cơ hàn
Xa gần thắt mối tương quan
Bắt dây liên lạc hỏi han đạo tình
Từ Quảng Đà, Nghĩa Bình, Phú Khánh
Khắp các vùng hẻo lánh nhân gian
Ghé thăm thánh thất, Thiên Bàn
Trao tin kể chuyện vấn an thăm dò
Đọc thánh lịnh Thầy cho biết trước
Họa sắp qua ân phước gần kề
Ít lâu chức sắc trở về
Dọn lòng tu học nhất tề cầu xin
Khéo xây dựng đức tin mãnh liệt
Khéo giục lòng tha thiết đạo tâm
Khuyên nhau chờ đợi vài năm
Huy hoàng trở lại, tối tăm không còn
Thật như lòng nước non đổi mới
Đạo có cơ thắng lợi lại về
Vui mừng khôn tả cho xuê
Bửu Tòa xây dựng bốn bề hân hoan
Trùng tu lại huy hoàng tất cả
Góp đều tay công quả chóng nên
Thánh đường, thánh thất, thánh đền
Phú, Bình, Nam, Nghĩa tiến lên rập ràng
Đó là lúc giàu sang của Đạo
Cơ trung hưng Truyền Giáo đại hành
Pháp quyền vị thứ định rành
Bảo dân giáo tứ tịnh hành Thiên nhơn.
Quả hy hữu đại ơn ít có
Lúc Đạo Trời sáng tỏ biết bao
Tinh thần sống đạo dồi dào
Cớ chi nên nỗi tiêu hao mỏi mòn
Thầy muốn hỏi các con nghĩ thử
Oan gia nào sinh sự, sự sinh
Bỗng nhiên sóng gió bất bình
Các con tự hỏi lấy mình thì ra
Đáng sợ nhất quần ma hùa trợ
La rùm beng đổ vỡ đại đồng
Hóa nên lưỡng diện thành công
Nhơn sanh, chánh pháp bị vòng đau thương
Ai cũng tự có phương diệu dược
Thuốc tuy hay không được thầy hay
Hóa nên căn bệnh kéo dài
Phối, phương dùng tễ hôm nay có Thầy
Không ai giỏi, ai hay, ai trúng
Chỉ nhất tâm tận dụng pháp quyền
Trí tài hợp với cơ Thiên
Thuần chơn vô ngã hoàn nguyên Đạo Trời
Đời biết bao hạng người tài trí
Còn chiếm trên thế vị hùng cường
Tung hoành định bá đồ vương
Có thừa sức mạnh phô trương thị quyền
Tài sức làm cho yên hay loạn
Trí mưu thêm ra bạn hay thù
Trí tài kết quả đến đâu
Hay làm nghiêng đổ trộn bao cuộc đời
Ai cũng biết chín người mười ý
Được mấy người chịu nghĩ mình sai
Ỷ còn nô lệ mắt tai
Mắt tai nô lệ bên ngoài vô minh
Chỉ có Thầy trọn lành độc nhất
Siêu thoát ngoài pháp luật mà thôi
Muốn cho sứ mạng phục hồi
Chuẩn thằng quy củ nhớ lời đừng xê
Hội Thánh mới đề huề mạnh mẽ
Mà nhơn sanh vui vẻ hành trì
Lo gì không hiện quyền uy
Bên ngoài mới phải nể vì kính tôn
Đó mới gọi tài khôn trí sáng
Thì có đâu dục loạn tranh quyền
Chung nhau một khối tâm điền
Mới rằng hiệp nhứt quy nguyên đại đồng
Tin nghe Thầy thì không mất quả
Bỏ ý Thầy thì đọa trầm luân
Khuyên nhau tâm chánh ý thuần
Rẽ chia chước quỷ hợp quần phép Tiên
Vì sứ mạng tư riêng đừng chấp
Vì tiền đồ tìm gốc hướng chung
Trung Hưng giữ lấy điểm trung
Chỗ hành pháp luật, chỗ dùng thiện nhơn
Khi thông công tiếp ơn giáo hóa
Còn nghĩ suy chơn giả đem so
Lưỡng đài lấy luật mà đo
Không sai quyền pháp sẽ cho ban hành
Đủ ba đài mới thành quyền pháp
Thiếu ba đài mời họp vạn linh
Vạn linh y pháp luật hình
Nghị xong ủy nhiệm chương trinh năm năm
Bất thường gấp chuẩn xăm quyết định
Quyền lưỡng đài trù tính luận ưng
Ban hành các cấp y tuân
Điều nào trở ngại trình dưng thỉnh cầu
TỨ BỬU PHÁP nhiệm mầu phép lạ
Tối uy linh bất khả tư nghì
Chú phù ấn quyết tuân y
Lệnh truyền Thần Tướng mau đi chớ chầy
Nhập môn rồi con Thầy, Thầy độ
Tẩy uế oan nghiệp khổ tận trừ
Khai đàn mở lối Ngọc Hư
Trấn thần định tỉnh tâm tư tịch tà
An vị rồi có Cha làm chủ
Thoát tôi đòi khỏi lũ quỷ ma
Giải oan rửa sạch oan gia
Hồng ân đại xá Kỳ Ba của Thầy
Từ vô thỉ đến nay tạo ác
Thầy lãnh thay giải thoát cho con
Sinh sinh vay trả vẫn còn
Đem con tắm thánh là con đạo dòng
Phép trị bệnh trừ xong chướng nghiệp
Sớm mạnh lành cho kịp đời tu
Quyền năng sẵn có ấn phù
Thiên ân đạo hữu hộ cầu Chí Tôn
Chẩn tế bạt cô hồn thoát hóa
Khuyên âm nhân cải quá hồi đầu
Rồi ban cho một phép mầu
Nghe kinh nương điển làm cầu tiến lên
Tiếp quy kêu đích tên người chết
Mà dặn dò chớ lệch đường mê
Hôm nay đạo hữu trở về
Bỏ buông ân oán đừng hề bận tâm
Thừa mệnh lệnh Thiên ân quyền pháp
Nương quyền năng trấn áp ma tà
Đạo cao đức trọng ở ta
Thần khâm quỷ phục đúng là Thiên ân
Lo tịnh luyện cho Thần nhập pháp
Lo hoàn châu kịp đáp nhu cầu
Trấn phương giới hạnh làm đầu
Độ sanh độ tử phải đâu dung thường
Việc Hội Thánh chủ trương ủy thác
Lo chu toàn công tác công phu
Nhắc khuyên hướng dẫn người tu
Cấm ngăn tranh luận nghịch thù câu mâu
Nhắc đạo hữu tu châu, trì giới
Để đón ơn Thiên khải nhiệm mầu
Đại thừa Tam Bảo Hoàn Châu
Hạ trung Tâm, Tướng, Linh Châu nương Thầy
Có được vậy sống đầy ân điển
Còn làm cho linh hiển Đạo Trời
Đoạn dây sinh tử luân hồi
Mới là sứ mạng ra đời quy nguyên
Không tu chứng pháp quyền giác ngộ
Thì mong gì cứu độ được ai
Lăng xăng xuôi ngược bên ngoài
Cậy phần vật chất an bài Đạo Cha
Sao không chịu thấy xa nghĩ rộng
Tu cho thành Phật sống cao Tiên
Ngoài trong có đủ Thánh Hiền
Vạn dân thế giới đương nhiên kính thờ
Đó không phải chuyện mơ lý tưởng
Mà quyền năng tối thượng của Thầy
Đại đồng bốn biển sau nầy
Thượng nguơn thánh đức ơn Thầy lần ba
Trước chưa thông sau đà thấu đáo
Thầy không giao chánh giáo tay phàm
Xa Thầy chia Bắc rẽ Nam
Có Thầy mọi việc mới làm trọn nên
Có mà chẳng chịu tin cũng vậy
Trái ý mình phải mấy cũng nghi
Thiên đài tòa ngự mất đi
Chỗ nào Thầy đến chủ trì nay mai
Thôi câu chuyện còn dài sẽ biết
Có thương nhau mới thiệt thương Thầy
Thật lòng hòa hiệp về đây
Chiết trung lý tưởng được vầy mới thông
Còn những việc ban phong tạm đợi
Để chờ cơ thuận lợi trong ngoài
Nhớ câu hiệp nhứt dung hòa
Thỏa vui mới gọi thánh tòa Thiên nhơn
Con phải sợ cạn ơn thiếu phước
Mà pháp quyền không được chở che
Gia đình Hội Thánh mấy phe
Biết theo ai phải, biết nghe ai nhằm
Đường đạo bị tối tăm che án
Nay trời đà gần sáng rồi con
Rẽ riêng chắc cũng không còn
Có Thầy chủ tọa các con yên lòng
Thương những đứa đôi tròng mắt lệch
Không thấy đường lính quýnh lạc xa
Lỡ rồi qua được cho qua
Từ đây sắp tới thuận hòa nghe con.
Huyền Quan Đàn, ngày 07-02 Giáp Tý (09-3-1984), Thầy dạy:
CAO đức ân lành bủa khắp nơi
ĐÀI linh ứng hóa độ trần vơi
THƯỢNG căn tỉnh ngộ lo tu đức
ĐẾ mạng hồng ân trẻ phải thời.
THẦY CÁC CON
Thầy mừng chung các con nam nữ. Các con dâng bồ đào mừng Thầy và chư Tiên Phật giáng trần ban ơn xuân quyền pháp phục sinh chánh giáo.
Trong tiết Nguyên Tiêu, ngày đại đán, Thầy cảm lòng thành của các con nên giáng trần ban ơn phục sinh sứ mạng. Các con dâng lòng thành kính chầu đón xuân quang hiệp với thiên vận mà bảo Thái trì Thái,([14]) thừa hành pháp đạo xiển minh chánh pháp. Vậy các con nghe Thầy điểm hóa.
BÀI
Xuân Giáp Tý xuân đầy thanh phước
Xuân hồng ân thánh đức ngập tràn
Vui xuân con trẻ hướng nhàn
Trọn tâm giải thoát bước sang cảnh Bồng
Xuân nay trẻ ân hồng tắm mát
Nhuận thánh tâm chí đạt đạo mầu
Luyện thành ba báu minh châu
Thanh cao thú lịch một bầu càn khôn
Xuân đạo pháp phách hồn tươi tỉnh
Xuân đạo tâm chí kỉnh chí thành
Phước lành quả báu trường sanh
Đàn trung vui đẹp rạng danh độ người
Con hớn hở tươi cười với đạo
Đạo đến ngày chánh giáo xiển minh
Các con trên dưới thuận tình
Lập công lập đức vẹn gìn ngôi linh
Mừng con trẻ trọn gìn tu kỷ
Xuân thanh nhàn hoan hỷ đầy vơi
Xuân thiên thú lịch ơn Trời
Trời cao ban bố nơi nơi phước lành
Xuân Giáp Tý Thầy dành đức tốt
Ban cho con trọn một chữ thành
Xuân đầy hạo khí trường sanh
Các con chung gội ơn lành Thầy ban.
Các con! Trước hoàn cảnh khó khăn nhiều con như ngọn đèn trước gió, vì vậy Thầy mới gia thêm chư Thần hộ mạng các con để các con được trọn lòng tin tưởng tinh tấn tu hành. Vậy các con xoè hai bàn tay đưa ra hứng lấy thần lực của Thầy tiếp cấp các con.
Các con từ đây lo luyện tu cho đúng đắn, giới hạnh phải nghiêm minh để đón cơ thành đạo.
Thầy ban bồ đào linh điển, bố phước cho mỗi con. Thầy phản giá.
----------------------------------------------------------
([1]) minh lãng: Trong sáng.
([2]) Cung Nê: Nê Hoàn (Huờn) Cung.
([3]) Thiếu hai câu.
([4]) lảng: Lẩn tránh.
([5]) Câu nói của Khổng Minh (Chư Cát Lượng): Mưu sự tại nhơn, thành sự tại Thiên. Nhơn nguyện như thử như thử, Thiên lý vị nhiên vị nhiên. (Mưu việc tại người, thành tựu tại Trời. Người muốn như vậy như vậy, lẽ Trời chưa vậy chưa vậy.)
([6]) xú bì nang: Túi da thối, ám chỉ thân xác con người.
([7]) đương: Đảm đương, gánh vác, lo liệu.
([8]) vạn đợi: Vạn đại, muôn đời, đời đời, mãi mãi.
([9]) bốn nguyên tắc chính: Bốn dụng cụ đo đạc gồm có quy là com-pa, để vẽ vòng tròn, đo khoảng cách trên bản đồ...; củ là ê-ke, cây thước vuông; chuẩn là thước thăng bằng để kiểm tra mặt phẳng nằm ngang; thằng (tức thằng mặc) là dây thợ mộc dùng để lấy mực thẳng.
([10]) Tá Cơ Quân Huệ Minh Đức và Tiếp Cơ Quân Liên Hoa.
([11]) xu cơ: Phần trọng yếu, then chốt.
([12]) Nguyễn Minh Quảng (quả vị Ngọc Hư Chơn Tiên) đã dắt dìu quý Thiên ân Hội Thánh Truyền Giáo thọ pháp tu ở đàn Chợ Lớn năm Tân Sửu (1961).
([13]) Sau tháng 4-1975 Thành Đạo Cam Ranh bị giải thể, thánh sở nầy chuyển thánh thánh thất Trung Chính.
([14]) bảo Thái trì Thái: Tháng Giêng ứng với quẻ Địa Thiên Thái.
PHẠM VĂN LIÊM
Đàn tại Tịnh Đường ngày 08-7 Giáp Thìn (15-8-1964):
THI
NGÔ khai chánh giáo độ quần sanh
MINH lãng ([1]) nhờ nơi ở chí thành
CHIÊU dụ chơn linh về một cội
Mừng cho vạn loại được hòa thanh.
Bần Đạo chào chư môn đệ.
BÀI
Đêm thu rảo bước lại đàn
Để lời nhắn nhủ luận bàn Đạo thâm
Nền chánh pháp mấy năm truyền bá
Chưa bao người lòng dạ chăm lo
Chỉ tranh phẩm vị nhỏ to
Theo phần sắc tướng nào lo tu hành
Cho quyền tước lợi danh là quý
Mối Đạo mầu khắc kỷ lờn khinh
Chạy đua theo bả thế tình
Nơi lòng đen tối sao minh lẽ Trời
Mải hụp lặn cõi đời vật chất
Điểm linh quang làm mất nào hay
Mùi đời say đắm đắm say
Ôi thôi mãn kiếp đọa đày trầm luân
Nơi trần thế vui mừng sung sướng
Không lo tu phải vướng tội tình
Đến ngày sa đắm ngục hình
Bấy giờ mới rõ là mình khờ ngây
Đường tu học có Thầy có bạn
Sao không lo ngày tháng dồi trau
Đã cùng một Đạo với nhau
Không thương sao lại ghét nhau cho đành
Cho thánh thể phui phanh nhiều mối
Càng thị phi tội lỗi càng thêm
Nỡ nào đoạn nghĩa anh em
Không thân sao lại nỡ đem oán thù
Dù chi cũng bạn tu một Đạo
Nỡ lòng nào cơn khảo mà xa
Làm cho mất vẻ thân hòa
Thiên Cung đến nỗi Trời Cha buồn lòng
Tu sao được Hoa Long dự bảng
Tu sao mà được rạng tuổi tên
Đạo mầu xây dựng móng nền
Móng nền xây dựng mới nên thân trò
Dù ở thế quyền to chức trọng
Không tu thì chớ mộng gần Ta
Kẻ nào chánh pháp lánh xa
Thì là phải chịu quỷ ma giựt giành
Kẻ nào biết luyện phanh hằng bữa
Thì Ngọc Kinh mở cửa đón mời
Nhẹ nhàng Cung Ngọc dạo chơi
Thoát vòng sanh tử đời đời an vui
Tu hành còn ham mùi tục lụy
Không chịu lo khắc kỷ luyện phanh
Làm sao tâm thể tịnh thanh
Tịnh thanh mới được an lành Trời ban
Muốn được đứng vào hàng thuần phác
Đường lợi danh phải tránh cho xa
Chớ ham cái cảnh phồn ba
Để thân bạn với quỷ ma giựt giành
Đời mạt tận chiến tranh năm cõi
Có mấy ai tránh khỏi nghiệp trần
Mấy ai khỏi bảng Phong Thần
Trả vay vay trả duyên nhân một thời
Tai vạ đến bầu trời chung chịu
Bởi nghiệp căn chuyền nối từ xưa
Gần đây tội ác chẳng chừa
Ác lai ác báo nào ai nó từ
Đấng Thượng Đế vô tư hằng sống
Lòng từ bi đức rộng thi ân
Xót thương sanh chúng ở trần
Đạo mầu truyền khắp xa gần cứu nguy
Thương những kẻ ù lỳ chậm chạp
Tu mà còn đạo pháp chưa thông
Làm sao bờ giác được trông
Làm sao cho được Tiên Bồng bước lên
Ai là kẻ gan bền chí nhẫn
Thì từ đây tinh tấn bước tu
Một lòng công quả, công phu
Độ tha, độ kỷ chu du tháng ngày
Tu như kẻ nghiện say mới đúng
Tu sao cho diệu dụng thâu về
Tu cho giác tỉnh đừng mê
Tu sao cho được Cung Nê ([2]) sáng ngời
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ([3])
Hằng giờ giao cảm Phật Trời
Độ mình được trọn độ đời được nên
Ngày bốn buổi chớ quên đừng lảng ([4])
Để hồn linh làm bạn Thần Tiên
Được vầy mới gọi pháp quyền
Pháp quyền được trọn mới yên được người.
Nền trung hưng chánh pháp đã được ban ơn tái lập. Từ đây chư hiền đồ phải có gắng để tâm xây dựng. Hễ đạo pháp đến đâu thì kế chước của quỷ ma cũng đến đó mà giựt giành. Nếu ta thờ ơ chểnh mảng thì sẽ bị chúng nó phỉnh lừa, khiến cho nền đạo pháp phải bị lu mờ, nhơn sinh khó bề tu học. Vẫn biết việc làm phải trải qua nhiều công lao khó nhọc, nhưng cũng cần khó nhọc thì công quả mới được trọng phần. Nếu sứ mạng đã giao cho mà không hết lòng để đi đến thành công thì công đức đã không có, mà tội lại càng nhiều. Cái công đức độ cho người tu hành nó to lớn biết chừng nào. Cứu được một linh hồn bằng cứu trăm ngàn xác thịt. Vì xác thịt có sống cũng chỉ sống trăm tuổi là cùng, còn linh hồn thì sống muôn đời bất diệt.
Mọi việc chiếu theo thánh ý lâu nay mà thi hành.
Theo dòng chảy của nguồn ơn tái lập, các Đấng đã dồn điển lực giáo hóa các Thiên ân phải cố gắng để tâm xây dựng về hạ tầng. Nhiều thánh thất mở các khóa tu hướng dẫn nhân sinh từng bước vào đường chánh pháp, từ công truyền sang tâm pháp. Quý Thiên ân Nguyễn Hậu, Hồ Tân Sinh, Huỳnh Minh Tuyến, Ngô Thanh Toàn được lệnh Ơn Trên mở các đợt tu tịnh xây dựng nề nếp. Nơi nào gặp khó khăn, đức tin lỏng lẻo thì Tiếp Cơ Quân Liên Hoa đến lập đàn để củng cố thiện duyên trong cơ vận chuyển.
Song song với việc truyền pháp và thọ pháp tu, chương trình Phước Thiện được Thiêng Liêng nhắc nhở để tín chúng giữ gìn cái tâm háo đức lạc thiện, cái chí giải thoát cho thân, thành công cho chánh pháp. Phước Thiện là mạch sống của nhân sinh, một phần trong cơ tận độ được Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn (Huỳnh Ngọc Trác) hộ trì phần vô vi. Đức Chí Tôn ân phong tiền bối Nguyễn Hồng Phong (1894-1947), nguyên Học Viện Trưởng Quyền Hội Thánh, là Định Quang Phổ Diệu, và tiền bối Tuệ Minh Nguyễn Như Phương (?-1945), chức sắc Phước Thiện tại thánh thất Trung Đức, là Định Minh Phổ Chiếu. Hai vị cùng với Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn hộ trì Phước Thiện.
Tại chi hội Phước Thiện, đàn ngày 10-7 Giáp Thìn (17-8-1964), Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn dạy:
Đứng trước tình thế rối ren, nhơn dân đồ thán, cảnh huống tương tàn tương sát, đồng bào, Tổ Quốc nằm trong trạng thái phiêu linh. Trong nước không người hiền lương quân tử dẫn đạo cho chủng tộc, xã hội. Vận nước yếu, dân hèn trông cậy sức mạnh bên ngoài, không tự chủ tự cường để bị động, gây máu xương bằng nồi da xáo thịt. Đời như thế, cải tạo cuộc đời cho Nam Bắc thân hòa, cho cả Á Âu lành mạnh. Cuộc đời đỏ đen tranh cạnh đủ mưu mô, xảo quyệt, đưa cả thế giới loài người vào cảnh hắc ám khổ đau. Nếu pháp quyền đạo đức không cao, thiếu mặt Thánh Hiền, lấy đâu để tài thành cho Tạo Hóa? Nên người Thiên ân xứng đáng để từ bi hỷ xả mới hiểu sao, và cảm hóa làm sao?
Vậy đại ý Bản Thánh muốn các em hiện nay đã qua thời kỳ lý thuyết, đi đến thực hành, phải bỏ công bỏ của mà cứu nhơn sanh để giải nghiệp giải oan, phá vô minh phiền não, mới nhẹ bước mà sang qua cửa đạo học vô vi bí giáo chứng pháp quyền.
Đàn ngày 15-7 Giáp Thìn (22-8-1964), Đức Chí Tôn dạy:
Từ đây con làm xong bổn phận
Từ đây con lẩn thẩn sao nên
Sẵn đà con gắng tiến lên
Sẵn cơ vận chuyển con nên tu hành
Đứa còn phải chạy quanh trong tục
Thì cũng đành thôi mất giờ tu
Đứa nào bước đến công phu
Chuyên tâm trì chí cho mau hội này.
Cơ vận chuyển đặt lại quyền pháp từ quý Thiên ân ở Tịnh Đường đến các họ đạo Trung Thành, Trung Đức, Trung Khánh, Thái Hòa, Trung Kiên, Từ Quang. Các họ đạo nầy được ơn xây dựng làm chỗ thông giao bủa gieo hồng ân cho toàn đạo. Đức Giáo Tông củng cố tinh thần Đầu Họ Đạo Thượng Khải Thanh để hậu thuẫn cho việc lập Cơ Quan Giáo Pháp và hướng dẫn Thừa Sử Hồ Tân Sinh thực hiện hồ sơ cho bộ máy giáo pháp.
Đàn ngày 15-7 Giáp Thìn (22-8-1964), Đức Giáo Tông dạy:
Hiền Thừa Quân xếp cho một hồ sơ để lưu giữ nơi Trung Tông. Hồ sơ nầy, ngoài cái áo bọc [chemise], chư hiền đề sao?
[Thừa Quân bạch …]
Hồ sơ số 1: Đặt lại vấn đề quyền pháp trong mấy bản:
1. Cáo lệnh;
2. Trích thánh ý Thượng Chánh Phối Sư (23-6);
3. Vi bằng;
4. Lời cáo bạch.
Cáo lệnh dâng hồ sơ. Hồ sơ nầy lấy chữ ký đủ các hàng Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự ở Trung Thành và các Thiên ân tương quan trong bộ máy Giáo Pháp rồi sẽ ban hành. Phải đầu tháng 9 nhưng chậm được thì nhẹ một đôi phần khảo đảo. Vì chờ thái vận ứng vào (đệ tam thập cửu châu niên). Ngày đặt bộ máy cầu Thầy ban ân ở nơi giáo đường, thì chừng đó có khởi công cũng không lo ngại lắm.
Việc tái ban sứ mạng trung hưng, Ơn Trên cho xây dựng quyền pháp ở cơ sở thánh thất. Đàn tại thánh thất Trung Mỹ ngày 08-8 Giáp Thìn (13-9-1964), Đức Giáo Tông dạy:
Cũng vì quyền pháp của Hội Thánh Trung Hưng bị suy yếu, mất mát đã nhiều rồi, nên Thầy mới ra lệnh tái lập. Lão đã gởi gắm nhơn sanh cho người có trách nhiệm, nghĩa là Lão cho phép các thánh thất được độc lập hành đạo.
Độc lập nghĩa là đứng một mình, không còn chịu dưới quyền điều khiển của Hội Thánh… Ấy cũng là một phương cách xây dựng một Hội Thánh lành mạnh.
Nếu thấy sai mà cứ a tùng tức ta giúp cho cái sai ấy to lớn thêm lên, để rồi đem lại cho nhau một hậu quả tai hại cho toàn đạo.
Độc lập đây không nghĩa là chia phe rẽ phái. Độc lập là một yêu sách đòi hỏi chức sắc bề trên phải cải đổi lỗi lầm. Trong thời gian độc lập, ta muốn cho có một hiệu lực, các hiền cũng như toàn đạo phải triệt để thi hành chủ trương bất hợp tác. Có thế mới làm cho người thừa nhận con đường chánh pháp của Thầy.
Với quyền hạn là Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Lý Thái Bạch minh định:
Quyền pháp đặt ra có tôn ti trật tự là để cho nhơn sanh nương bước tự lập vị mình. Trong Hội Thánh có ba quyền:
1. Quyền Thượng Hội từ phẩm Đầu Sư, Chưởng Pháp đến Giáo Tông là ngôi vị trọn lành. Đức rộng đạo cao, trên thay quyền Trời, dưới thể nguyện nhơn sanh mà điều hành cơ đạo. Phẩm vị ấy dưới trần gian nầy chưa có người tu chứng mà giữ lấy quyền pháp đó.
2. Quyền Hội Thánh từ Giáo Hữu, Giáo Sư đến Phối Sư chịu mệnh lệnh của Thượng Hội mà ban đặt chỉ thị an bài nội bộ dưới trên. Những hàng phẩm nầy phải là người thượng thừa xuất gia ly tục, không còn dính mắc danh lợi ở thế gian. Vì vậy Pháp Chánh Truyền đã ấn định không một ai vượt khỏi luật lệ mà giữ lấy chức vị cao trọng của giáo quyền. Nếu kẻ phạm phải luật hình thì quyền pháp buộc phải đưa ra. Nên Cơ Quan Giáo Pháp, Lão khuyên chư hiền nếu ai ở trong hàng đẳng Giáo Hữu trở lên là người phải giải thoát hoàn toàn. Nếu phạm vào Ngũ Giới Cấm, Tứ Đại Điều Quy, phạm Pháp Chánh Truyền thì không thể vị tình riêng mà để yên trong Hội Thánh làm trở ngại cho bước tiến của nhân sinh.
3. Hạ Hội thì từ tín đồ mới vào Đạo. Tất cả phải trọn tin ở quyền pháp đã ấn định. Phải giữ năm giới, hai mươi bốn điều Thế Luật, được sống trong sự che chở của Thầy. Ví như nhứt bất sát sanh, tuy giữ sáu ngày chay nhưng không sát hại sinh linh, tiến lên không sát mà phóng sanh và cứu độ chúng sanh, chỉ cách giải thoát cho người.
Người đạo hữu an phận trong đơn vị xã đạo, dưới quyền dìu dẫn của Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự.
Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự tiến thêm một bước nữa giữ mười ngày chay trở lên, hy sinh chút quyền lợi gia đình, đem thân đóng góp với Giáo Hội bằng sự lập công, chịu trách nhiệm một xã đạo dưới quyền Lễ Sanh.
Đầu Họ là người được sắp dự vào hàng Thiên phong, phải trường trai, giới hạnh, tỏ ra xứng đáng làm đàn anh trong đám nhơn sanh; phải có bản lãnh đúng đắn, bản sắc hơn người, để giải thoát thô lậu mà bước lên hàng chức sắc của Hội Thánh.
Thì từ đây toàn đạo cũng nên ghi nhớ lời Lão mà xây dựng bản thân, xây dựng hàng ngũ nhơn sanh và nội bộ quyền pháp, thì quyết rằng ơn che chở, dầu đạo hữu sống trong cảnh ngộ biến đổi, tao loạn như thế nào, lòng cũng yên như bàn thạch…
Vì vậy từ nay trở đi, một lần nữa Lão khuyên nên vì đại cuộc mà làm tròn bổn phận. Về hồng ân chảy đến mà đạo hữu có hưởng được hay không là tại ở lòng đạo hữu. Đạo hữu phải thanh tịnh, đừng vọng loạn, điên đảo mà khó nhận lấy ơn phước từ Trời.
Như các đạo hữu là những cây kim. Kim phải để yên chỉ kia mới luồn qua được. Nên lúc nầy cần tập tịnh tu, hoặc quỳ hương cúng nước, luyện châu tịnh thần để lòng không lo sợ.
Song trong hồi bát loạn, ma quỷ lộng hành, các hiền cũng không đủ trí tuệ mà nhận xét đâu phải đâu trái, đâu đúng đâu sai. Cứ dễ hơn là lấy giới hạnh làm thầy, căn cứ đó mà đo mà đánh giá.
Song ma quỷ có nhiều yêu thuật khó lường. Nhưng mỗi người đã ở yên phận vị, đừng buông đây bỏ đó, thì làm gì chúng lừa phỉnh được ai. Ngặt có người lòng hay ngờ vực. Phải nói không, không nói phải; bắt được lại buông, buông rồi lại bắt. Lòng không tỉnh định, nên vọng thức che án linh năng.
Có một điều, hiện nay đạo hữu phân vân nhất là cơ bút. Cơ bút chỗ này chỗ kia, ở đây ở đó không duy nhất, không rõ ràng mà còn chống đối nhau thì làm sao tin được. Đó cũng là duyên phần, mà cũng ở cơ chọn lựa. Dầu không phải của ma quỷ, cũng có chỗ không đồng hòa duy nhất là vì trình độ tâm đức hơn kém, xu hướng nhiều nơi không đồng mà có lời dị biệt.
Ví như luồng điện phát ở một chỗ mà sự hình hiện tùy theo dụng cụ như đèn thì sáng, như quạt thì xoay. Cũng có thể nói không khí ở thành phố náo nhiệt đông đúc thì khí chất nhơ bẩn đen đục, hít vào có hại cho phổi cho gan. Nếu ở thôn quê thì tương đối điều hòa, khí lành trong trẻo. Nếu vượt ra ngoài trần tục thì không khí biết bao thanh sạch tươi lành. Thì cơ bút cũng vậy, do người đồng tử và do trình độ nhân sinh.
Lão cũng thấy lòng toàn đạo chọn lấy đường để đi, tìm lấy nơi để tựa, mong sống trong ơn cứu độ của buổi Tam Kỳ, nên nhận một đạo Cao Đài là mục đích, nên y ỷ phát tâm, tin trên có sự vận chuyển của vô hình, bằng đủ cách để độ dẫn nhân sanh, nhứt là thường đến với huyền diệu cơ bút.
Vì lòng người thường hay quên, sự đời thường ám ảnh, sống trong cảnh đen tối đau khổ, nhứt là cảnh tang thương biến loạn trong lúc nầy, nếu không có sự nhắc chừng, sự an ủi, sự dạy khuyên của Thần Lẽ Thật của Đấng Cha vô hình thì làm sao tu được. Vì vậy cần có cơ bút để dẫn đạo, mà cũng nương cơ bút để quyền pháp Thượng Hội chỉ thị dạy bày. Cũng nhờ trong khi bước vào cảnh biết được cảnh mà đề phòng, biết được sự chỉ dẫn của Thiêng Liêng mà tùy cơ ứng biến trong cơn bối rối. Song cũng có nhiều nơi lạm dụng cơ bút để làm lợi khí cho hành động của mình… Nhưng “nhơn nguyện như thử như thử, Thiên lý vị nhiên vị nhiên”.([5])
Hiện nay nhơn loại trên hoàn cầu đã trải qua nhiều thử thách, lòng người lo âu, lòng người e sợ. Họ đương loanh quanh để tìm một lối đi về ai và đến đâu là phải. Nga chăng? Mỹ chăng? Âu chăng? Á chăng? Thiên Chúa, Tin Lành hay Phật Đà, Khổng Mạnh? Khó thay!
Xét về lịch sử đã qua, tấn tuồng hiện tại, làm sao dám quyết đó là phải hay trái. Nói phải trong có trái , nói dở trong có hay thì phần nào cũng đáng nghi ngờ lo ngại. Con đường còn xa xăm chưa quán thông, mà ý thức con người trở lại đánh giá bằng cách tương đối thế gian. Vì nó phát xuất từ một nước nhược tiểu, một dân tộc nhỏ nhoi, không quyền chẳng vị. Nên chỉ có người chán với danh nhàm với lợi, ngán với thế, sợ với quyền thì mong vào Cao Đài học đạo mà thôi. Còn đám cậy mong quyền đời thì có ai để ý.
Về quyền pháp thì chư đạo hữu cũng như toàn bộ Cơ Quan Giáo Pháp tin ở Lão có đủ sức che chở, có đủ cách dìu dắt thì có ngại gì mà thối thác, ngại gì mà âu lo. Miễn phận vị mỗi người ở cấp bực nào làm tròn xứng với bổn phận của nó là đủ. Nên nói để Khải hiền đệ cảm thông và toàn đạo tâm biết mà lo lập công tu học.
Hôm nay Lão cũng chứng kiến sự thành hình một Cơ Quan Giáo Pháp để dìu dắt nhơn sanh trong hồi tao loạn. Trong khi Hội Thánh chưa được cảm thông thì các hiền đệ vô tâm đứng trên tinh thần tự giác giác tha mà đảm đương quyền pháp. Chờ một ngày sự vận chuyển của Ơn Thầy đâu đó hòa thân, dưới trên liền một, thì ngày đó ta sẽ chào đời một cách huy hoàng, nói lớn với năm châu bốn biển chỉ có Cao Đài mới thật sự hòa bình, thật tâm xây nền thịnh vượng chung cho bốn biển. Cao Đài đến để hàn gắn những sứt mẻ từ xưa đến nay cho nhơn loại bởi phái phe giai cấp, để duy nhất một mối đạo hoàn cầu. Dầu các tôn giáo phải được còn, thì trên mặt đất nầy cũng chia nhau mà chung lo cùng một phận sự. Nên Lão cũng nhắc lại chư hiền cốt là làm sao cho đúng với chánh pháp chơn truyền.
Giai đoạn Khai Cơ Giáo Pháp bắt đầu từ năm Đinh Dậu (1957). Ơn Trên chuyển linh cơ dạy Trung Tông Đạo theo từng hoàn cảnh, từng điều kiện, từng con người. Trải dài hơn sáu năm chìm trong khảo thí chia lìa, chống đối, cơ Giáo Pháp vẫn khế cơ vi diệu để nhơn sanh được sống trong ơn điển độ dẫn của Thiêng Liêng. Đức Lý Giáo Tông cho lập Cơ Quan Giáo Pháp hầu mong đưa Hội Thánh đến ngày tròn ân sứ mạng. Đạo hữu các thánh thất mẫu được dìu dắt theo con đường chỉnh pháp của sứ mạng trung hưng. Các Đấng đã xuống điển hướng dẫn đường tu. Để thích nghi cho hàng tín chúng vào pháp tu châu, Thầy cho truyền Hồi Hướng Linh Châu là tầng bậc tu châu thứ nhất. Đây là bậc tu xây dựng nền móng luyện bảo châu cho hàng đạo chúng do Đức Nam Cực Tiên Ông ban truyền tại thánh thất Trung Khánh ngày 24-8 Giáp Thìn (29-9-1964).
Sau khi chỉ truyền cách luyện và trấn thần chuỗi châu năm mươi bốn hạt cho những đạo hữu giữ chay mười ngày xin thọ, trong phần tiếp cầu, Đức Giáo Tông dạy:
Giờ nầy Lão đến cùng đạo hữu, đạo muội nơi đây với tấm lòng thiết tha giác ngộ. Lão cũng hoan hỷ mà dành riêng một phần thưởng trong cơ Giáo Pháp để mừng với sứ mạng chiều sớm tu học dìu dắt lẫn nhau mà chờ ngày hội ngộ cùng Thầy.
Nói giáo pháp là nói sự truyền đạo, mà giáo pháp đây là giai đoạn thứ nhì của sứ mạng trung hưng để hoàn thành cơ cấu quyền pháp và kinh chương, thì Hội Thánh hay Nhà Tịnh cũng không khác, mà dầu ở Truyền Giáo hay Tây Ninh và các phái kia nữa cũng không phải hai. Dầu nói chung tất cả các phái trong đạo Cao Đài với Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo cũng không phải là hai, mà chỉ có một.
Cơ Giáo Pháp mở ra con đường hồi đầu thị ngạn, con đường chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Tân Luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ quy định về tịnh thất: “Trong hàng tín đồ ai đã xử trọn nhơn đạo và giữ trai giới tứ sáu tháng sấp lên thì được xin vào tịnh thất mà nhập định.” Chuỗi châu năm mươi bốn hạt là con số phục sinh, con số quay về với bến bờ sự sống. Trong kinh cúng Đức Diêu Trì do Thể Liên Tiên Nữ giáng ban có hai câu: Đừng cho xiêu lạc vất vơ / Xin cho biết bến biết bờ sanh sanh. Bến bờ sanh sanh là con số năm mươi bốn hạt châu. Số 5 là thiên ngũ sanh thổ, số 4 là địa tứ sanh kim. Số 5, số 4 đều là hai số thiên sanh địa sanh (sanh sanh chi vi dịch).
Pháp Hồi Hướng Linh Châu được ban truyền, sau đó Trung Tông Đạo tổ chức đợt tu tại Cơ Quan Giáo Pháp (ở Tịnh Đường, cũng là thánh thất Trung Thành). Đàn cơ ngày 08-9 Giáp Thìn (13-10-1964), Đức Ngô Minh Chiêu dạy:
Bần Đạo chào chư môn đồ nam nữ có mặt tại đàn.
Giờ nầy Bần Đạo đến cùng chư hiền đồ với một niềm hân hoan tràn đầy thiên khí.
Chư hiền đồ ôi! Có thấy chăng giữa lúc cảnh đời từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, chỗ nào cũng đầy dẫy ác khí, đương lăm le hút loài người vào hỏa lò nguyên tử? Muôn loài đang sống với cảnh phập phồng lo sợ. Lo sợ không biết cái chết ngày nào nó đến với mình. Đã biết cái chết rất thảm thê đau khổ ấy mà nào có mấy người giác ngộ để tìm lại con đường sống đâu. Họ còn vô minh ngã chấp nên không nhận chân được phương môn cứu độ của Thầy.
Cũng có rất nhiều người đem tất cả tâm não, trí lực suy gẫm, xét đoán mong mỏi đến ngày Giêsu Christ tái lâm, nhưng nào họ có biết Giêsu tái lâm ở nơi nào và đã tái lâm chưa. Cơ cứu chuộc của loài người Lần Ba này ở đâu? Bao nhiêu sự suy nghĩ, mỏi mong, đợi chờ ở đầu óc của mọi người. Họ có ngờ đâu tại nước Việt Nam nhỏ bé nầy mà Đấng Ngôi Hai xuất thế.
Xuất thế độ người buổi loạn ly
Nam bang hạnh ngộ buổi Tam Kỳ
Có duyên gặp Chúa lo tu học
Đắc thọ chơn truyền cứu nạn nguy.
(…)
Từ ngày cơ sở Giáo Pháp được thành lập, người nào thọ lãnh trách nhiệm thì phải làm xong. Ai nấy cũng được sống trong ơn Giáo Pháp.
Cơ Quan Giáo Pháp được Ơn Trên hướng dẫn từ việc hành chánh đến việc thọ pháp. Ví dụ: Một người xin tịnh xin tu phải có đơn. Ban Giáo Pháp phải xét trước khi đưa Tịnh Đường. Tịnh Đường chỉ nhận đơn, không còn xét nữa. Theo luật của tịnh thất thì vào nhập tịnh phải trường trai, nhưng ở đây được chế giảm là thập trai. Tuy nhiên những người ăn chay sáu ngày cũng được khuyến khích cho tập sự. Đức Ngô dạy: “Về số người ăn chay sáu ngày tuy không được thọ pháp tu nhưng cũng được khuyến khích. Đó cũng là bước đầu của con đường học đấy.”
Các bậc Tướng Châu, Tâm Châu, Tam Bảo Hoàn Châu phải nghiêm túc theo quy thức, phải nhẹ bớt công việc thế gian, tuy làm ăn như thường nhưng tâm thì tinh tiến trên đường giải thoát nghĩa là không ham danh chuộng lợi.
Cơ quan Giáo Pháp từ đây được các Đấng liên tục giáng đàn thúc giục việc truyền pháp cứu độ nhân gian. Ngày 08-11 Giáp Thìn (11-12-1964) Đức Ngô giáng đàn điểm danh các vị Liên Hoa, Sinh, Hậu, Huệ Minh, Đức, Cư, Tuyến, Toàn, Yến. Ngài dạy:
Về công việc cứu độ chư linh đã được ơn Thầy chấp nhận, tùy theo căn nghiệp mà được vãng sanh hay tái sanh.
Đứng trước cảnh đời thảm khốc, bổn phận cứu độ của các trò lại thêm nặng nề trọng trách hơn nữa. Mọi người có đủ điều kiện để cứu giúp như đói có gạo ăn, lạnh có mền đắp, đau có thuốc men. Sự giúp đỡ của họ đã đem lại một thành quả tốt đẹp, mà các trò cũng đương mong ước nếu mình làm được như họ thì khoái chí biết chừng nào.
Tại sao các trò thiếu sự nhận hiểu để cho việc làm của mình thiếu phần nhận thức? Cái người ta có thì mình không, cái mình có thì người cũng khó tìm ra được. Cái của mình là cái gì? Có phải cái đạo mầu của Thầy đã ban trao cho các trò đó không?
Cái công cứu cho người có ăn có mặc, để xác thịt được no đủ mạnh lành, có được kết quả cũng chỉ cứu được cái xú bì nang ([6]) tạm sống ở cõi đời mà thôi, rồi đến ngày định mạng cũng phải chết. Nếu chết mà không có đạo đức, thì phải chịu cảnh khổ đời đời.
Còn đây các trò, nơi mình đạo pháp có sẵn, có cho mấy cũng không hết. Các trò sao không đem ra mà bố thí cho người để cứu độ linh hồn cho họ được đời đời còn sống bất diệt? Cái sự cứu độ nầy công đức có thể gấp trăm vạn lần so với sự giúp đỡ kia, sao các trò không lo trên bước lên đường cứu độ chúng sanh mà còn ước mong những gì xa lạ? Trong việc bố thí thì chỉ có bố thí pháp là công đức vô lượng vô biên…
Đàn ngày 05-12 Giáp Thìn (07-01-1965), Đức Ngô dạy:
Con đường tận cứu Kỳ Ba của Thầy, nếu bỏ phương môn tu luyện ra thì cũng không khác gì các tôn giáo xưa cũ kia.
Bần Đạo rất thương cho đa số được sống trong nền tâm pháp còn bị đen tối, chưa thấy được con đường cứu rỗi của ta, đã phải chung nhau đi theo con đường thanh, âm, sắc, tướng. Thật đáng thương!
Chư hiền nơi đây có duyên phước được ơn Thầy cứu độ, lòng mình được tỏ sáng, nhận thấy được con đường cứu chuộc của Thầy, thì các hiền phải cố gắng giồi luyện cho mình được thành. Đồng thời lãnh phần sứ mạng cứu độ cho tất cả quần linh.
Đức Cao Đài Tiên Ông dạy:
Phải tu cho chứng. Chứng rõ ràng. Lòng không bận lo phiền não, thân không bệnh tật buộc ràng, trí xét đoán công minh rõ tà rõ chánh. Nói xuất thần phải thấy thần biến hóa. Nói đắc đạo phải thấy đạo nhiệm mầu. Đừng tin vu vơ, nói không sách vở. Thầy đến lần nây là chứng minh… Đây, Thầy còn nhiều chương giáo pháp.
Cũng cho các con biết thêm rằng cái trọng nhiệm đóng vai Trung Hưng chẳng phải ở phần vận của Thầy mà đủ, mà phải ở những con hướng đạo đắc đạo. Đắc đạo không phải như sự hiểu lầm của các con từ lâu, chết rồi được cứu, mà đắc đạo là đắc được ý Thầy tạo thành vạn vật, đắc được ý người thuận lẽ thành tựu thế gian.
Thầy nói thiệt cùng các con, danh Thầy rất quan trọng, pháp Thầy rất thiết dụng. Nếu Thầy không làm cho con nên, Thầy chưa phải là Thầy. Nếu pháp Thầy không giải thoát cho các con ra ngoài vòng sanh tử, thì danh Thầy cũng hư. Mà danh Thầy hư thì quyền pháp đừng mong cứu độ, sự tái tạo và bảo tồn cũng đừng trông đợi uổng công.
Vậy các con nhớ rằng Đạo Trời mầu nhiệm, con còn phải học nhiều. Có thể một kiếp tu thành, hoặc cần trăm ngàn kiếp nữa mới chứng. Đừng nghĩ rằng sự mầu nhiệm chỉ có bấy nhiêu. Mà nếu chỉ có bao nhiêu con đạt được, thì con coi nhiêu đó có đủ chống đỡ trời đất không? Khiến nổi chúng sinh không?
Còn nhiều lắm, một kho tàng ẩn giấu nhiều lớp nhiều ngăn. Con học, học nữa, học cho nhiều. Không phải nhốt vào chỉ ba năm tám tháng hay chín năm mà các người đệ tử đã phải làm xong.
Song nói học cho rành lẽ đạo thì dầu cho hóa thân như cát sông Hằng cũng khó cho thông. Mà học là học cái đạo vô vi phá được cái vô minh, đoạn được cái lòng mê chấp. Tâm được minh, tánh được tỏ, là được đắc đạo rồi.
Trời đất tuy to lớn nhưng rút gọn trong một chữ như. Con đọc Bát Nhã để thấy tánh chơn không. Con đọc Lăng Nghiêm để thông tâm bình đẳng. Con xem kinh Kim Cang tìm biết tứ diệt tướng.
Vạn pháp do tâm, thì lòng con lâng lâng nhẹ bổng, thân con cởi mở tự do. Người với con không còn phân biệt. Trời đất với con chẳng còn xa cách.
Đàn ngày 20-3 Ất Tỵ (21-4-1965), Đức Giáo Tông thúc giục vào đường tu đơn luyện đạo:
THÁI Tổ, Thái Sơ kết đạo đơn
BẠCH vân viên tụ xuất nê huờn
TIÊN thiên chế luyện thành chơn nhứt
ÔNG luyện trần gian lập thượng nguơn.
THI
Mười bốn năm qua pháp lập rồi
Cớ gì chư đệ nỡ cho trôi
Trung hưng không lẽ trung hưng nữa
Còn bốn năm sau gấp vãn hồi.
Ngay tại thánh địa Nam bang mở nhiều đạo tràng thí pháp, cho biết ngày giờ khai hội kết chung thọ mạng của số hệ cũ, lập lại thánh đức thượng nguơn. Nay Lão cũng cho chư hiền biết sứ mạng trung hưng mười tám năm hoàn nguyên. Từ ngày ban chánh pháp năm Nhâm Thìn đến đây Ất Tỵ, tràng linh châu đã sắp giáp vòng, mà việc làm chưa đâu vào đâu cả.
(…)
Trung hưng đã lắm lời dạy bảo
Hiệp sức nhau kiến tạo lâu dài
Đừng lòng thương ghét chia hai
Đã sai thì bị nghiệp sai dẫn đường.
Các hiền đệ nhớ lại lời mình đã tuyên đọc khi đăng đàn hồng thệ, lãnh sứ mạng trung hưng phải y tâm pháp đối cân công bình, đem đời về đạo, lấy đạo cứu đời, mở một Công Đồng Giáo Pháp, xong một cơn thử thách vàng đá phân minh, mỗi người nhận lấy một chương trình.
Về các hiền đi sâu vào lối vô vi mà huyền đồng cùng lẽ đạo. Đã đành không phân chi lập phái, song cũng mang một hình thức dị biệt làm cho lòng người phân vân. Nên cần xác định: Nếu hộ trì Chiếu Minh Đại Đạo thì phải chính danh định phận hẳn hoi để được sự chuẩn y chấp nhận của Thiên điều hầu sau dễ bề sắp xếp. Mặc dầu nhánh nhóc chia nhiều cũng đồng một cội. Vì nhánh nầy nhánh kia gần nhau đâm tược xẻ đan mà gây nên tròng tréo. Vậy chư đệ nào muốn yên thân nhập tịnh thì lập pháp Chiếu Minh mà tu. Còn đường lối trung đạo phải theo Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, và đường lối trung hưng mà đi về nơi duy nhất Đại Đạo.
Con đường trung đạo Ơn Trên dẫn lối đã hiển lộ dần dần bốn tầng bậc công phu đi từ tướng pháp hữu vi Tam Giáo đến tâm pháp vô vi Tam Thanh. Công cuộc dẫn lối nầy Ơn Trên không đặt vào quyền pháp Hội Thánh ở Trung Hưng Bửu Tòa mà trực tiếp tận nhân sinh ở các thánh thất mẫu, theo hướng của Tịnh Đường. Giai đoạn nầy Giáo Sư Thượng Hậu Thanh đã về chấp chưởng Cơ Quan Hành Chánh.
Để đúng theo tinh thần công truyền và tâm truyền đồng hành, thế đạo thiên đạo kiêm tu, tướng pháp tâm pháp hiệp một, Giáo Sư chưởng quản Hành Chánh đã xúc tiến theo chương trình của Hội Thánh mở mang đường công truyền, thành lập họ đạo Trung Minh, an vị thánh thất tại Bình Thới (Chợ Lớn), lập khu định cư Quảng Ngãi tại thánh địa Linh Tháp (Tư Nghĩa), thành lập Trung Tâm Bảo Trợ Thiếu Nhi Hưng Đạo tại Trung Hưng Bửu Tòa.
Giáo Hữu Ngọc Cư Thanh thì kiên định theo pháp Chiếu Minh không sai một ly tấc cho nên việc gắn kết giữa Trung Hưng Bửu Tòa và Tịnh Đường chưa thuận hảo. Tiếp Cơ Quân Liên Hoa mặc dầu đã vào tịnh dưỡng nhưng khi tiếp ơn truyền pháp vẫn còn thủ cơ khiến nhiều vị bên Trung Hưng Bửu Tòa dị nghị rằng Tịnh Đường là của Chiếu Minh.
Đàn ngày 01-4 Ất Tỵ (01-5-1965) tại Tịnh Đường, do Huệ Minh Đức thủ cơ:
GIA ân lần chót độ muôn loài
TÔ điểm đất trời Đại Đạo khai
GIÁO huấn chúng sanh thành Phật Thánh
CHỦ quyền trên dưới một tay Thầy.
Ta nhơn danh cứu thế đến cùng chúng ngươi. Nơi nầy được ơn Ta. Ngày này được gội phước đầy dẫy ở Ta.
Cho phép các ngươi an tọa tại vị.
Nầy chư hiền đồ! Trước thảm họa của ngày cùng rốt, nhơn loại không trừ một ai mà thoát được lưới Trời lồng lộng. Cũng vì tội xưa còn lại, ác mới tội thêm, lòng từ bi mà Thượng Đế không nỡ xem đám con lũ lũ lăn nhào, để phải quăng thân vào lò lửa dữ.
Thầy cho Ta đến lần rốt nầy, hoặc nhơn danh Chúa, hoặc nhơn danh Di Lạc Bồ Tát để dẫn dắt loài người còn đôi chút đức tin ra ngoài vòng vây tự diệt.
Các ngươi đã nhận nơi Ta đến đây làm gì? Chắc cũng nhận thấy mình có một trọng trách ở Thầy để cùng hầu việc cho Thầy sau nầy, dựng lại cõi đời thượng nguơn thánh đức. Cõi đời mà Ta đã cho biết, cũng như các lời cầu nguyện hằng ngày của các ngươi “Lạy Chúa xin cho chúng con làm đẹp ý Cha trên trời, xin cho dưới đất cũng như trên trời” thì cõi đời nầy ngày mai các ngươi chưa từng thấy: Rắn hổ ở chung với chuột một hang, sư tử ăn cỏ cùng linh dương một đồng, chó sói cùng hươu nai uống chung một suối, thì ngày mai đâu còn kẻ dữ người ác, mà đều được thánh hóa, ai ai cũng trở nên Thần Phật như trên nước Thiên Đàng.
Muốn có ngày mai bây giờ các ngươi phải nghe Ta cố gắng làm cho mình trở nên Thánh, để lên đường hoằng hóa Đạo Trời, ban bố pháp lành, cứu muôn người ra khỏi tử sanh nạn tiêu diệt.
Các ngươi sao ngày này ngơ ngác, đương vui đùa trong ảo hóa, quấn mình trong muôn vạn nghiệp oan? Làm sao phải mau mau buông bỏ sự đời, phủi mùi danh lợi, cởi mở ái ân triền phược, để thân được rỗi rảnh đương ([7]) lấy sứ vụ nầy. Nếu hoang phế trách nhiệm, bỏ lời giao ước cùng Ta khi xuống thế, thì đành cắt mọi tuyệt thông trước Hội Công Đồng, phải nằm trong sự phán xét, thì dầu có thương cũng không sao cứu kịp. Ráng ăn năn tự tỉnh, phải biết mình có in nhiều dấu ấn nơi mình, phải quy y hồi hướng, phế bỏ trần tình, cầu tu cầu chứng.
Đọc lại Thánh Kinh, các ngươi cũng thấy đoạn Xuất Ê-díp-tô Thầy đã chọn Môi-se làm thông công quyền pháp. Ngày này cũng vậy, dưới bóng mặt trời không có gì lạ. Ngày xưa ngày nay đều tương tợ trong một chương trình.
Môi-se đã đem các người Y-sơ-ra-ên ra khỏi sự nô lệ để tìm về đất thánh. Song bao lần dân chúng đã nguyền rủa Môi-se và phạm đến ơn Cha trên trời. Nó nào biết được cái gì là hạnh phúc đời đời. Nó nói thà nô lệ cùng người mà có cơm ăn rượu uống. Đã mấy lần chống đối cùng Môi-se, song quyền pháp mà Cha trên trời đã ban cho Môi-se làm nhiều pháp lạ. Dân Ê-díp-tô đuổi theo cố bắt lại khi qua biển, các người đã thấy làm gì? Cây gậy quyền pháp rạch nước đi dưới biển cũng như đi trên bờ và làm cho đoàn quân đuổi theo đều bị lấp vùi dưới nước. Cây gậy đó là gì ? Tức thần cơ diệu bút ngày nay. Khi đánh với A-ma-lắc, Môi-se giơ tay lên thì chiến thắng huy hoàng, để tay xuống thì địch quân đàn áp mạnh mẽ. Tay đưa lên là ơn điển đã đầy dẫy trên thần cơ, lúc các hiền đón cầu Thiên sứ và quyền pháp thiêng liêng. Tay đưa xuống là lúc ngưng cơ thì quỷ ma ám ảnh, lòng các ngươi trở nên chiến bại.
Các ngươi nghĩ sao? Các ngươi ngày nay còn gián tiếp qua tay đồng tử, cũng như quyền pháp còn ở Môi-se, ngày mà Thầy đổ thần xối xả trên mình các ngươi tưởng cũng chẳng còn xa. Các người được trực tiếp cùng Thầy, thấy Thầy hiện đến, nghe Thầy phán truyền, thấy Thầy mầu nhiệm. Ngày ấy đòi hỏi ở các ngươi một sự trong sạch và quy giới tinh minh. Cũng như ngày Chúa Cha giáng lâm ở núi Si-nai, các người (tức dân chúng Y-sơ-ra-en) muốn gần phải thanh khiết và xa đàn bà. Thanh khiết là gì? Có phải trai tâm thanh tịnh không? Xa đàn bà có phải tuyệt dục không? Vậy ngày này đòi hỏi các ngươi ở chỗ thanh tịnh tu hành, trường trai tuyệt dục để khiết tịnh mà đón Thầy một sự trực tiếp vậy.
Lúc Môi-se lên núi Si-nai đến hầu sự Cha, đón lấy ơn quyền pháp mà an bài dân thành Y-sơ-ra-ên. Có thể nói lúc nầy người đồng tử của các hiền vào đại định, để rồi tiếp lấy bản Thánh, bản Thần để đưa các hiền đến nơi cứu cánh là đất hứa vậy.
Song buồn thay ngày xưa các người Y-sơ-ra-ên làm gì? Tạo ra hình thú mà thờ, truất bỏ Đức Chúa Trời cao quý. Song cũng vì lòng thương, trong ba ngày Môi-se trở lại đã làm cho lòng bực bội mà đánh vỡ hai bản quyền luật của Thầy, thế nên mới có cơ tái lập. Sự phẫn nộ của Trời bởi đâu? Môi-se xin gì các hiền có biết? Song dầu chi cũng còn bên cạnh là A-rôn, thì cớ sự nầy mà sau phải phân quyền dựng nên mỗi tộc một trưởng lão. Cũng như ngày nầy các bậc quyền pháp phải đủ ngày giờ tu học cầu sự thanh tịnh để đón tiếp Đức Chúa Trời, mà đặt ra Ban Hộ Trì Giáo Pháp.
Quyền pháp đã phân, sự lập đền tạm tùy sự tính toán khéo léo của các ngươi, để mọi việc được theo ý Thầy, thì nên coi lại các điều dạy bảo cấm răn ở đoạn Xuất Ê-díp-tô mà làm quy củ lập chương để tu, để học, để hành, cho sớm trở nên oai nghi quyền pháp.
Các hiền đồ hiểu Ta nhắc lại để làm gì không? Có phải chương trình Xuất Ê-díp-tô là chương trình giáo pháp hôm nay chăng? Nếu sau này quyền pháp được phân thì các ngươi chớ bắt chước người dân Y-sơ-ra-ên mà bỏ đồ trang sức của mình mà đúc ra tượng khác mà bỏ mất lối trung hưng chăng? Nghĩa là sau ngày Liên Hoa đi đại định các ngươi có giữ đường lối trung hưng không? Ta cũng e vì lời tiên tri mà lòng không yên cho sự lập pháp. Các người nhớ rằng Môi-se chưa dẫn Y-sơ-ra-ên đến đất hứa thì quyền pháp vẫn còn. Dầu muốn dầu không cũng không thể nào truất phế được, thì quyền pháp sứ mạng trung hưng nầy cũng không một cớ gì để đưa Liên Hoa ra ngoài ơn cứu chuộc được. Các ngươi cẩn thận lời nói việc làm để giữa nhau hầu trọn.
Thôi Ta nhân danh đến lần nầy sẽ hứa ở bên cạnh các ngươi hầu bảo các ngươi làm các việc Ta sai và ý Thầy muốn. Vậy các ngươi được ơn Ta.
Thành tâm tái cầu có Lý Giáo Tông ngự bút. Ta chào. Thăng.
TÁI CẦU
Nhứt Trấn Oai Nghiêm Lý Giáo Tông
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Bần Đạo chào chư Thiên ân, chư đạo hữu.
Quyền pháp khi trao nhớ giữ gìn
Sớm chiều y ỷ một lòng tin
Gắng công lập đức lo tu hạnh
Để được hồng ân cõi Thánh lên.
(. . .)
Đây, Lão nhơn danh quyền pháp đến trực tiếp cùng chư đạo hữu, đạo muội với một sự dặn dò. Quyền pháp nầy không ngang qua ở Hội Thánh là vì Lão nhơn danh Thầy cần chỉ thị tận cơ sở nhơn sanh, không mượn trung gian truyền lệnh. Đó là một sự cần cấp, một mối tâm hoài của Lão đối với toàn đạo, mà đàn vừa qua Lão xin cùng chư Thiên ân phận sự để trực tiếp gặp đạo hữu sắp đặt một chương trình.
Đạo hữu, đạo muội ôi! Đạo Trời mầu nhiệm, lòng Trời rộng thương. Toàn đạo ghi sâu vào tâm khảm những điều mà Lão nói đây, nhất là phận tu hành giữ trọn đức tin, dầu khổ hay dầu phải hy sinh cũng không đổi lòng thay dạ. Thứ nữa phải nhắm theo mục đích và tôn chỉ của Đạo Trời mà hành động, mà nói năng tính toán cho khế hợp. Mục đích có hai đường:
Đường tạo thế đại đồng, tình thương không đứt khoảng, chung lo xây dựng cho nhau, hầu đem chỗ dư bù chỗ thiếu, làm cho quân bình thịnh vượng, sống trong nếp đạo thái hòa không đứt. Trong lúc còn làm người phải giữ tròn nhơn đạo báo đáp bốn ơn, ba giềng, năm mối. Lấy đó làm đà để tiến lên thiên đạo giải thoát.
Cần thấu rõ bực của người tu không thể bỏ gốc mà tìm ngọn, để ngắt bông hái quả. Nên phải lo lập công, lập đức, giữ đạo, truyền đạo, đóng góp vào nền tảng đại đồng để đủ đức, để tiêu chướng liễu tâm mà men đường Tiên Phật, nên không thể không lo nhơn đạo mà được thiên đạo bao giờ.
Kẻ đã bước vào thiên đạo rồi, thì nên nhớ chánh danh chánh nghĩa, đừng làm hư danh trái nghĩa mà ô uế cho mối đạo nhiệm mầu. Giới năm giới cho tinh, quy ba quy cho trọn. Đừng khoác áo nhà tu bên ngoài, mà lòng tà không bỏ. Đã luyện châu, châu phải đủ vòng. Vòng sáu, vòng mười, vòng mười lăm, hay vòng trọn tháng, bậc nào giữ đúng bậc ấy để ma chướng khỏi xâm, họa tai mới tránh, mà chư Thiên hộ pháp mới giúp mình. Không tu được thì rút lui, đừng để con sâu làm rầu nồi canh.
Lão không bằng lòng cho các đệ về sự chia rẽ. Tông chỉ là hòa đồng dung kết tất cả. Không nói thân nói sơ, mà xa gần tình thương là một. Nếu nội bộ mà không liền, anh em nghịch chống nhau, dù tu cách nào cũng bị trong sự công đồng luận tội. Nên Thầy lập đạo lần nầy là quy hợp tất cả tôn giáo chung một khối. Lấy bốn biển làm nhà, đâu cũng anh em ruột thịt. Không nhà nào là không phải nhà của mình, không người nào là không anh em ruột thịt.
Vì vậy buộc lòng các đệ phải hòa thuận với nhau để danh đạo khỏi hư, mà hạnh tu cũng xứng đáng. Đã nói chó sói uống chung một suối nước với hươu nai, ai hiền ai lại dữ? Nếu có bệnh nên có thuốc. Các hiền là thuốc hay bệnh? Các hiền đã giác hay còn mê? Là mê mới còn rẽ riêng phân biệt, còn chấp nhứt rầy rà, còn hẹp lượng so đo, còn chê khen hay dở.
Ngoài Đền Thánh và đây là một dòng suối thông vô tận. Không thể nào ngăn mối nước để cho khúc đầy khúc khô. Vậy hòa thuận nhau sớm ngày nào tốt ngày ấy. Mà dầu có chỗ nào thấy trái với quyền pháp cũng đừng vội phê phán mà tình thương bị cạn, lẽ sống khô khan.
Nên nhứt nhứt thờ Thầy, đừng gây rối loạn. Dầu nhánh nhóc có bông nhiều trái lắm cũng phải do nơi cội. Các hiền thử coi, sự chia rẽ lớn lao nầy do ai? (...). Nên sự hiệp là việc cần thiết cho sự sống và lẽ đạo.
Đàn ong vầy tổ là có một sức đông đóng góp mới thành túi mật. Song khi đi hút nhụy không phải cướp của hoa, mà còn làm cho hoa kết thành quả ngọt. Nếu không nhờ ong mang phấn đi làm cho hoa đực, hoa cái gặp nhau thì làm gì có trái? Tuy nhặt chút nhụy cũng trả chút công để nên mình mà cũng làm nên cho hoa nữa.
Vậy nhớ lại lời Thầy. Thầy lập đạo lần nầy chính mình Thầy làm chủ mối đạo, không giao chánh giáo cho tay phàm. Dưới thế nầy không ai được xưng bằng Thầy mà nói dìu dắt nhơn sanh, mà lập thành Hội Thánh. Các con cái của Thầy chung hiệp nhau thành một sức mạnh, để có một phương tiện mà sống trong quyền pháp, hầu làm xong bổn phận con người và tiến lên làm Tiên làm Phật. Vậy giữa các đệ hòa thuận nhau mà giúp đỡ lẫn nhau. Có đông tay vỗ nên kêu. Có đông người mới thành sức mạnh. Rồi phải ra hoàn cầu thế giới lập đạo dựng đời, mỗi người chia lo mỗi việc.
(....)
Thôi, bao nhiêu đó. Gắng đọc đoạn Xuất Ê-díp-tô sẽ có nhiều luật lệ giải quyết quyền pháp trị giáo dân.
Bần Đạo ban ơn lành và chúc lành.
Khu vườn giáo pháp lại được phát cỏ dọn gai, xới đất, lên vồng khơi luống. Thầy và các Đấng tiếp tục ươm mầm gieo hạt qua các đợt kiểm tu, kiểm pháp. Trì pháp luyện châu để tập điều khí dưỡng thần tấn dương thối âm, điều hòa chơn tức, qua đến bực luyện đạo Tam Bảo Hoàn Châu mở đường thông vận từ Bá Nhựt đến Nhứt Bộ, Nhị Bộ.
Đức Chí Tôn dạy:
Vậy từ đây các con gắng làm sao cũng tu cho được cái hạnh giải thoát. Giải thoát cái thô, mà cũng giải thoát luôn cái tinh, để cho thân không còn dính mắc, mà Thần cũng không bị án che, thì không đợi tu nhiều ngày, không cần kể năm đếm tháng. Khó là chỗ buông bỏ trần duyên, còn phương tu tùy đó mà thâu đạt kỳ diệu pháp môn.
Cốt các con quên được mình để cho mình đồng hóa cùng Đạo. Mình và Đạo làm một thì càn khôn tuy to rộng nhưng cũng ở cả trong bàn tay. Mà muốn đồng nhứt cùng Thầy thì luyện lọc cái tâm cho trong sáng. Nghĩa là chuyển hậu thiên trở lại tiên thiên để chứng đạo.
Cốt là quy căn phục mạng. Căn mạng là Thầy và Đạo, là trung huỳnh mồ kỷ thổ, vô cực vô vi, hiện ở người là tín. Đức tín được rồi thì đơn nguơn cũng kết tụ. Nên giữ tín ở người mà cũng ở mình là cần thiết. Tín ở mình đó là cái dụng ở đơn, mà đơn là tín. Nên tu thanh tịnh là đắc đạo, mà còn vọng động là còn vô minh. Còn vô minh là còn luân hồi. Còn luân hồi thì làm sao có đơn?
Đơn là gì? Là hai khí âm dương kết hợp, tánh mạng đồng viên. Mà tánh mạng đồng viên là nhơn đắc nhứt. Đắc nhứt là Thánh. Nhứt là tuyệt đối. Không có gì đối đãi gọi là nhứt. Mà nhứt là vô vi, vô cực. Vậy phương tu tấn hỏa thối phù cốt là dưỡng cái đạo tâm, diệt cái phàm tâm.
Đức Chí Tôn dạy về tu tánh luyện mạng:
Trong hai phần tu tánh tu mạng, nếu phải bỏ lấy một thì nên lấy phần tu tánh cũng đắc thành quả vị.
Đàn ngày 08-11 Ất Tỵ (30-11-1965), Đức Chí Tôn ban hành giới luật:
Ngày nay là ngày lập giới luật mà cũng là ngày các con vui mừng bước lên nấc thang giới luật đặng về thẳng cùng Thầy. Giới luật của Thầy lập ra cũng không ngoài giới luật đã sẵn có từ lâu và cũng không ngoài giới luật của Tam Giáo. Ngày nay Thầy dung hòa các giới luật của các tôn giáo lại làm một, để cho các con nương theo đó mà tu để mong ngày thành đạo.
Đàn ngày 01-5 Bính Ngọ (19-6-1966), Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy về việc tuân hành giới luật:
Vì vậy con người hướng đạo dẫn một số người cùng đi tìm về cõi thật, thì trước đã có đủ phương pháp để cân nhắc đo lường. Nếu dài có thước, nếu nặng có cân, ít nhiều có cân, có lường để tính. Không thể lấy mắt đoán chừng, mà có giỏi đoán thì một trăm lần cũng chưa đúng một. Nên sai một ly đi một dặm, thì mọi việc đâu đủ làm căn bản cho ngày sau. Nên luật pháp đã quy định, thì cứ theo đó mà làm. Dầu vạn đợi ([8]) cũng không sai, mà giữa ta cùng người cũng không hề trái. Nên quy củ chuẩn thằng là bốn nguyên tắc chính,([9]) dầu thợ giỏi cũng không sao bỏ mực bỏ thước, mà làm cho khéo được.
Hôm nay nền Đạo Trời chia ra nhiều khối, mỗi khối lại còn chia nhỏ thêm ra. Có phải chăng trên thiếu đức, không cảm hóa được dưới, dưới thiếu hạnh, không tôn kính được trên? Dưới trên bất ổn, bất nhứt, mà quyền pháp phải lu mờ, cũng vì không tôn kính luật pháp.
Hôm nay nền trung hưng tái lập, là ơn phước để phục sinh quyền pháp mà duy trì đạo thống, hầu thay thế cho các tôn giáo gánh lấy sứ mạng duy nhất.
Mọi việc sẽ được sắp đặt chỉnh đốn tránh mọi vấp ngã về sau. Kinh nghiệm việc làm đã qua mà ngăn ngừa bước mới. Cùng nhau quyết định một chương trình. Việc ổn định nội tình, việc tương quan duy nhứt và việc quy định bộ máy và an vị ngôi thờ. Còn những sự nhỏ thì cho qua và cũng đừng nhắc lại để vết thương được lành, không cho lan rộng. Con thuyền đạo muốn cho vững vàng, hãy đặt lòng tin nơi người lèo lái. Để cho công bình hơn, thì cơ bút phải được quy định và phân công. Một con thuyền không lẽ có hai lái. Thì lão quyết đặt lại vấn đề nầy giao cho toàn đạo quyết định bằng một lá thăm của mình để tương lai khỏi nói qua nói về mà lòng tin chao đảo.
Ở đàn trước, ngày 08-02 Bính Ngọ (27-02-1966), Đức Ngô minh định pháp tu của sứ mạng trung hưng:
Tại sao các hiền không thông cảm sứ mạng nơi nầy? Có phải chỉ tu theo pháp Chiếu Minh mà thôi đâu. Là người của Hội Thánh Trung Hưng trước ngày vào thọ pháp, Thầy cũng đã đồng ý các hiền tu theo pháp của Thầy đã trao cho Chiếu Minh. Nhưng về công việc hành đạo thì là người sứ mạng của Hội Thánh Truyền Giáo. Các hiền quên những điều đó mà bây giờ còn luẩn quẩn trên đường lối tu học để phải đi sai với lập trường của mình làm thất trí với nhơn sanh. Bây giờ trò nào tu theo pháp Chiếu Minh thì cũng phải tuyên bố dứt khoát cho toàn đạo khỏi phải nghi ngờ, còn trò nào theo đường lối Trung Hưng thì cứ theo nề nếp lâu nay cũng như lời nguyện của mình mà làm cho đúng.
Vì bởi khi lập Cơ Quan Giáo Pháp để nâng nhắc đường tu Vô Vi Tam Thanh, thế mà Thầy lại mở ra tầng bậc tu châu Hồi Hướng cho toàn đạo hữu thọ tu theo hữu vi Tam Giáo. Việc nầy làm cho các vị thọ pháp tu theo chơn truyền ngại rằng đồng tử đã không còn tinh chuyên hay có thể là đã xảy ra nạn khảo thí cơ bút gây bất đồng nội bộ. Thực ra sự ngại ngờ nầy đã có từ nhiều đàn vừa qua. Do vậy Thừa Sử Hồ Tân Sinh bạch: “Xin Đức Giáo Tông minh định các đàn cơ vừa qua ai phải ai trái?” Đức Giáo Tông dạy (đàn 08-11 Bính Ngọ):
Lão chưa đề cập đến mọi vấn đề phải trái, vì đó là đức tin. Còn việc trên để duy nhứt một nguồn sống thiêng liêng thì quyết định một ngòi cơ. Dầu dở dầu hay cũng ổn thỏa cho tinh thần tu học của toàn đạo. Vì lẽ đó mà để phần nhơn sanh quyết định với số mạng đời mình, không thể đồng Liên Hoa hay đồng Minh đức quyết định bằng cơ bút được. Dù ở Tòa Thánh Tây Ninh hay các chi phái khác tuy nhiều đồng nhưng chỉ có một đồng pháp mà thôi. Còn đây giữa Tá và Tiếp ([10]) coi như đồng quyền, nên vừa qua các lịnh lập Họ ban hành quyết định đều do đồng Minh Đức cả, nếu không thì kéo dài tình trạng khảo thí. Vị nào cũng phải hy sinh một vị để cơ đạo được đi trên đường bằng phẳng. Còn nói lại là do Thiêng Liêng thì chỗ hiểu đó chưa trọn. Dương không âm không tác dụng nên gọi “Kiền tri thái thỉ, Khôn tác thành vật”. Không có đồng tử cũng không có Thiêng Liêng hiện được. Mà hiện được trọn hay không, một phần lớn ở đồng tử. Như điện vào một bóng đèn, thứ đỏ thứ xanh, thứ trắng thứ vàng, cái sáng cái mờ, cái trong cái đục, bóng nhiều bao nhiêu thì sáng ít, ít thì lu. Đâu phải tại điện có sắc có màu, có lu có sáng, nên quan hệ ở đồng. Còn nói bỏ Liên Hoa thì sự đó không ngại, Ơn Trên sẽ ban cho một nhiệm vụ khác, nếu nhơn sinh tùy duyên nghiệp với sự tương quan của đồng mà tương ứng phối nhứt, ai được cũng hay. Dù không đẹp lắm cũng không xấu lắm, miễn yên lặng bình thường hơn làm sóng gió để đẩy thuyền vượt qua có nhiều nguy hiểm.
Theo thánh ý, Cơ Quan Giáo Pháp và Trung Tông Thánh Tịnh của Trung Tông Đạo đặt tại thánh thất Trung Thành do Đầu Họ Thượng Khải Thanh hộ trì. Tại Tịnh Đường, Tý thời ngày 01-6 Bính Ngọ (17 rạng 18-7-1966), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Giờ nầy Bản Thánh thừa sự vụ Giáo Tông lâm đàn để ban một quyền pháp thành hình ngôi Trung Tông Thánh Tịnh hầu đem lại một tinh thần duy nhứt của toàn đạo nơi đây để tiếp nguồn lành hầu tưới xanh cây đạo, và nhắc lại một vài nguyên tắc của mục đích ban đầu mà giữa Trời và người dựng cơ sở Đạo Pháp.
Ngày tới đây chư hiền có trách nhiệm về quyền pháp cũng như toàn thể đạo tâm quyết định tôn trí ngôi Trung Tông Thánh Tịnh để làm tôn chỉ, mục đích cho mình và cho người về sau. Giáo Tông chấp thuận lời cầu xin của toàn đạo, ban một quyền pháp để trấn thần an vị thì việc làm quan trọng này mong toàn đạo duy nhứt một tinh thần để làm khởi điểm cho công cuộc trung hưng, hoàn thành nhiệm vụ quyền pháp nầy. Giáo Tông ủy nhiệm cho Giáo Hữu Thượng Khải Thanh hành pháp. Chư hiền cùng toàn đạo chung tinh thần để việc làm được trọn.
Đức Trần Hưng Đạo ấn định về chủ lễ, sắp đặt vị trí của mỗi pháp cụ trên Thiên Bàn, cách thức hành pháp, lễ phẩm… và ấn định lễ khai đàn vào ngày 08-6 Bính Ngọ.
Tại Trung Tông Thánh Tịnh, Tý thời, ngày 08-6 Bính Ngọ (25-7-1966):
LÝ tâm mong mỏi đạo trung hưng
BẠCH hắc khuyên nhau hiểu rõ cùng
GIÁO hóa cho đời thông lẽ đạo
TÔNG thành cơ chỉ gội ơn chung.
Bần Đạo lâm đàn hành pháp cho công cuộc thiết lập ngôi Trung Tông Thánh Tịnh hầu có một lối thông giữa Trời và người, giữa Thiên ân cùng toàn đạo để tu thân xử đạo và phần hoàn nguyên của mỗi người, để đón lấy phần xứng đáng mà Thầy đã dành cho, và cũng lướt qua một vài công vụ để nội bộ hành quyền chấp pháp làm đẹp lòng Thầy, vừa ý nhơn sanh.
(…)
Đây đã nói lên được cái lập trường của toàn đạo, chí hướng của Thiên ân, tôn chỉ cao cả Thánh Thần thì Bần Đạo cũng đáng mừng cái sự nhận hiểu con đường trung đạo, mà công việc các hiền phải làm, phải tu để thành công cho sứ mạng. Bần Đạo ước mong ở chỗ thực hiện để tránh cái lối năng thuyết bất năng hành.
Từ đây các hiền nơi đây nói chung còn phải trải qua nhiều khúc quanh co. Có vậy mới đáng con người quyền pháp hướng đạo nhơn sanh. Cái khó nầy do các hiền tạo nên, mà cũng ở một phần lớn trong cơ thử thách. Xưa dân Do Thái từ Ê-díp-tô trở về đất hứa, khoảng đường chẳng xa mà lúc đi phải mấy mươi năm, thì việc này cũng tương tợ.
1. Dung hòa duy nhất tại Trung Việt một Hội Thánh để làm đến thống nhất toàn bộ các Hội Thánh, để công đức đó mang mang vô tận ví như Thánh như Thần.
2. Không thể hiệp lại được thì phải có một tổ chức mạnh mẽ: Hàng ngũ trên dưới nhất tề, quyền pháp minh định; hướng đạo nhứt trí cùng một việc làm, tín kỉnh nhau như một khối chặt chẽ, như Lưu, Quan, Trương nhà Hán mới làm nên sự nghiệp; pháp môn tu học phải đắc chứng, không nên nhận sai nói càn mà đưa quần chúng vào nơi tăm tối sai lạc.
3. Hai lẽ trên không làm được thì trách nhiệm quyền pháp sứ mạng giao lại cho nhơn sanh toàn đạo để tự quyết, đừng nên trù trừ mà chẳng được cho thân, lợi cho đạo.
Về cơ bút là một lợi khí giao thông. Lúc toàn đạo gặp nhiều khó khăn bởi nạn đời gây nên, chư hướng đạo khi chưa trực thông cùng chơn lý đạo pháp cần để cầu hỏi Thiêng Liêng khải thị để hành quyền chấp pháp cho trúng mà dìu dắt đạo hữu lập công tu học. Song Bần Đạo nhận thấy lợi bất cập hại, mà sau nầy làm trở ngại đức tin. Ví như sự giáo hóa bình thường còn có kẻ tin người ngờ. Nếu đến một cái lịnh Thiên Đình, phải cấp tốc theo lịnh để kịp hầu chuyển loạn thành trị, nếu chậm chạp thì loạn chuyển nên loạn, loạn sẽ tiêu diệt lẫn nhau. Quyền pháp lúc này quan trọng nên Bần Đạo đề nghị tạm ngưng cơ thời gian sáu tháng.
4. Việc sắp xếp cơ sở quyền pháp nơi đây là một sự khó làm cho tròn, vì lịnh xuất đa môn, quyền hành không nhứt thống. Dưới trên lớn nhỏ còn sống trong nếp đời dân chủ quá trớn nên trên dưới chống nhau. Nếu một tổ chức không có một Giáo Sư quyền pháp cầm đầu thì sẽ loạn mà loạn trái mãi.
5. Các cơ sở xây dựng bị đặt không phải chỗ của nó.
Về quyền hành nhiệm vụ của cơ Giáo Pháp, hai ngành như một, một như hai. Nghĩa là phần bảo pháp đường lối luật pháp chưa rành rõi để bảo tồn nền móng chơn truyền.
Phần hành pháp nguyên tắc hành chánh chưa thạo mà có phần bất công gây sự lờ mờ của nội bộ. Như lịnh vừa rồi ban pháp trấn thần, Bần Đạo không trực tiếp ban mà trao qua Thượng Chánh Phối Sư Hành Chánh ra lịnh. Đó là nguyên tắc để các hiền học mà tu. Nên ở đây Hiệp Thiên Đài nếu có thì phải chỉnh đốn Hiệp Thiên Đài và bộ phận thông công đừng nên lầm lẫn. Cửu Trùng Đài cũng có một bộ máy lành mạnh chủ quyền điều khiển. Bộ máy có một Hội Trưởng là Phối Sư hay Giáo Sư mới đủ đức đủ người. Nếu quyền hành không do bởi một tay chấp chánh thì sẽ loạn. Song một tay chấp chánh không phải độc tài, mà chấp hành chương trình do hội đồng nội bộ quyết nghị.
Về việc ngưng cơ là Bần Đạo mới đề nghị, còn chờ ý chư hiền. Nếu cần mà việc không giải quyết được như thời thế chuyển biến, thì lúc đó cứ xin lịnh mà cầu rồi ra quyết nghị lại.
Cơ Quan Giáo Pháp tiến triển khá êm đềm. Ơn Trên liên tục nối điển quang làm sáng tỏ chánh pháp Cao Đài nơi miền Trung, vun đắp sự tốt đẹp cho chơn truyền Đại Đạo. Về bên Trung Hưng Bửu Tòa, Giáo Sư Thượng Hậu Thanh chấp chưởng Cơ Quan Hành Chánh, còn các phần vụ khác cần điều phối lại.
Về vai trò Chủ Trưởng, vì Phối Sư Ngọc Quế Thanh không thường xuyên tại Trung Hưng Bửu Tòa nên Hội Thánh sắp xếp Giáo Sư Ngọc Tín Thanh làm phụ tá. Hội Thánh điều dụng Giáo Sư Thái Phẩm Thanh đang là Đầu Tỉnh Đạo Quảng Ngãi về vị trí Chưởng Quản Cơ Quan Phước Thiện kiêm nhiệm Đầu Tỉnh Đạo Quảng Tín. Đồng thời cử Quyền Giáo Hữu Lê Quang Sách đảm nhiệm Đầu Tỉnh Đạo Quảng Ngãi.
Hội Thánh tiếp tục xúc tiến nhiều đạo sự quan trọng:
Năm Bính Ngọ (1966): Lập trường huấn nghệ tại tỉnh đạo Quảng Ngãi, tổ chức phái đoàn Hội Thánh thăm viếng các tôn giáo bạn và các Hội Thánh Cao Đài.
Năm Đinh Mùi (1967): Hội Thánh cho thành lập ký nhi viện tại khu Linh Tháp (Quảng Ngãi) do Quyền Giáo Hữu Lê Quang Sách làm giám đốc. Tại Quảng Ngãi Hội Thánh còn mở trung tiểu học Hưng Đạo do bác sĩ Tôn Thạnh Giang làm hiệu trưởng. Vào tháng 3 Đinh Mùi (tháng 4-1967) Hội Thánh lập Tỉnh Đạo Daklak tại Ban Mê Thuột, cử Quyền Giáo Hữu Đỗ Thanh làm Đầu Tỉnh Đạo.
Năm Mậu Thân (1968): Hội Thánh cử Quyền Giáo Hữu Nguyễn Đình Hoành đặc trách thành lập khu giáo dân Bình Tuy tại Võ Đắc.
Ở Sài Gòn, Văn Phòng Đại Diện Ngoại Giao được nâng lên thành Tòa Đại Diện Ngoại Giao, vẫn đặt tại thánh thất Trung Minh.
Chăm lo việc tu học cho bổn đạo miền Trung di cư sinh sống ở Lâm Đồng, Đà Lạt, cuối năm 1968 Hội Thánh lập Thiên Bàn Đơn Dương tại xã Lạc Nghiệp, thị trấn D’ran (sau này là thánh thất Trung Dương).
Song song với việc phát triển dân sinh, dân trí, dân đức Hội Thánh đầu tư mở nhà in Trung Hưng tại Đà Nẵng, đặt trong khuôn viên Đền Thánh.
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có bốn Giáo Sư. Giáo Sư Thượng Hậu Thanh gắn bó với Tịnh Đường hành trì tâm pháp vô vi. Đến lúc xây dựng Cơ Quan Giáo Pháp cho Trung Tông Đạo, với nhiệm vụ Chưởng Quản Cơ Quan Hành Chánh, Giáo Sư Thượng Hậu Thanh linh hoạt mở mang mặt công truyền hành đạo, thực hiện mọi chủ trương, mọi công trình của sứ mạng tận độ nhân sinh về tướng pháp. Còn phần tâm truyền, Giáo Sư vẫn kín cổng cùng Tịnh Đường hành trì công phu, liên tục tham gia hầu đàn cơ để tiếp ơn giáo hóa.
Giáo Sư Thượng Hậu Thanh rất phấn khích cảm nhận về cơ thành đạo của Trung Tông đang hiển lộ. Việc Thầy phong quả vị Thiên Đức Chơn Quân cho Bùi Đặng Đán và Thiên Bảo Chơn Quân cho Ngô Thanh Toàn đã nung nấu đức tin mãnh liệt trong Giáo Sư về sự thành tựu chánh pháp của đường trung đạo.
Cuối năm Mậu Thân (đầu năm 1969) tại Trung Tông Thánh Tịnh, Giáo Sư Thượng Hậu Thanh được Đức Trần Hưng Đạo ban huấn dụ:
TRẦN, Lý quân dân đạo nhất thành
HƯNG khai pháp tượng độ quần sanh
ĐẠO Trời nay đã khai thông khắp
Giáng điển đổ thần giải nghiệp thanh.
Bản Thánh chào các đệ.
Hôm nay Bản Thánh lâm đàn cũng được ơn Tam Giáo muốn cho hiền Hậu một khẩu khuyết về môn tu học chánh pháp trung hưng từ bao năm nay bị chư chức sắc đã làm cho quyền pháp không còn hiệu năng, cũng vì tự thị, tự khôn biết mà che mờ huyền linh sứ mạng.
Ơn cứu chuộc của Chí Tôn cũng vì bên trong nội bộ của mỗi Hội Thánh chỉ nghĩ cá nhân mà quên phần đại sự. Đạo Thầy không chỉ các hình thức nhiêu đó, mà còn phải có được con người thánh minh khai thác kho tàng huyền diệu còn nằm nguyên trong cảnh giới lý trí con người. Nếu Đạo Thầy chưa có bậc chơn trí đắc chứng huyền cơ, thì không bao giờ giải quyết mọi đen tối cho cảnh giới trần hoàn và gom tụ các nguyên căn bên ngoài cửa đạo. Các Thiên ân không quyết tâm đi vào cảnh giới nội tâm, thì không được cái gì là ơn ích cho cơ tận độ cả.
Sứ mạng trung hưng mà Thầy đã giao phó nơi tay chư Thiên ân cầm giữ, mà nay nơi mỗi người chẳng thấy được một ai còn nắm trọn cả. Vì lẽ đó mà Thần Lẽ Thật và sứ mạng trung hưng bị phân tán khắp nơi. Còn một ít nằm gọn trong danh từ hình bóng hữu vi. Mặc dù bị mờ lấp ở sau con người, song biết quay về tự tâm thì sẽ nhận lại căn nguyên động lực ban đầu. Nền đạo bất cứ Hội Thánh nào mà được một vài bậc chơn tu giác ngộ siêu phàm chứng Thánh cũng đủ nhích lại cán cân, thì có lo gì thiên hạ không quy tụ, đạo hữu không nhất tề.
Phần lớn chư đạo hữu quan niệm môn tu quá sức tưởng tượng. Phải nhắm mắt làm thinh, suốt ngày ngồi yên trong mật thất mới gọi là tu. Đó là tu ở hình thức theo khuôn sáo cũ.
Tu cũng không phải học cho nhiều, biết cho lắm, mà cốt thấy cho được tự tánh, chủ cho được tâm cơ. Từ bỏ cho được ngã chấp, giữ cho được bình thường tâm. Không đắm nhiễm chạy theo ngoại vật mà quên lãng chủ nhân ông của chính mình. Hoặc lầm tưởng cầu cái Đạo qua tay người khác ban cho, không ngờ Đạo thật ở nơi lòng. Lòng Đạo đã sẵn từ vô lượng kiếp lai. Khi có thân tứ đại nầy thì Đạo cũng lồng trong xác thịt chớ nào ai cho, hay rèn đúc nơi lò nào.
Nói vậy không phải phủ nhận phương môn trì tu. Phương pháp truyền đạo của Giáo Tổ nào cũng chỉ là thứ phương thức làm công cụ đả phá, khai quật mọi chướng ngại phiền não vô minh đem tự tánh chủ nhân ra ngoài ngục đời phàm tục để nó biểu hiện không còn cái gì ngăn ngại. Khi nó đã được xuất hiện tự do, thì tất cả thị, thính, ngôn, động là chơn lý, chơn thật cả. Nên nền Chánh pháp của Đạo Thầy muốn sao chư Thiên ân cầm giềng mối Đạo, ý thức môn tu hành, làm chủ được tình thức dục vọng, thì có thể làm chủ thiên hạ. Việc đó quá rõ ràng. Nếu không thấy cái huyền cơ, không thông lẽ biến hóa, không nắm được thời, không loại trừ ngã chấp, thì không thể nói là hướng đạo.
Hướng đạo là người chứng ngộ tự tâm, huyền đồng cùng Thượng Đế. Nếu con người tài trí lỗi lạc, thông tuệ hơn người, mà không tương hệ với Thượng Đế, cũng là giặc của chánh pháp. Đó là nẻo đưa chúng sanh vào chỗ tranh giành, gây ra phiền não chướng ngại. Nếu lý trí tuyệt trần mà không vun bồi cội đức, thì lý trí là mầm loạn, đâu ích gì cho ai. Sở dĩ chúng sanh không thoát được nghiệp, không tỏ được Đạo là do tài trí. Tài trí càng phát triển thì càng che mờ giác tánh, làm trở ngại, nhiều kiếp luân hồi.
Tóm lại Hội Thánh nào, tôn giáo nào cũng quý con người tài năng lanh lẹ. Tài năng để phục vụ cho chánh pháp, tài bồi cho cuộc sanh thành của Tạo Hóa, thì đâu bỏ được tài năng. Song con người có chút tài thì ngạo mạn tự kiêu, không cho giác tánh liễu ngộ. Nên kẻ tài trí cần phải biết tự tỉnh, thấy cho được cái gì sanh ra tài trí. Nếu chỉ biết cái bóng hình nhánh nhóc mà quên cái gốc bên trong, thì đâu còn gọi là tài trí nữa.
Công việc cử tác của Hội Thánh đâu phải sai. Nhưng chỉ ôm lấy cái vỏ kình càng mà không thấy cái luật biến thông là công dụng về đạo pháp. Sau khi Chí Tôn và Ngô Đại Tiên đã áp dụng môn tu học, hành đạo đi đôi, để chứng tỏ chánh pháp trung hưng là trung đạo, nội thánh ngoại vương. Nghĩa là tự giác giác tha, chánh kỷ để hóa nhân bằng con người nhơn sanh thừa mạng. Con người thừa mạng Chí Tôn mà còn phàm thì làm sao thánh hóa muôn người? Cần có cơ sở, cần có môn thế đạo, môn giải thoát. Nhưng cần thiết hơn hết là làm sao cho con người cùng trong một thánh thể, ai nấy cũng được nối mối thông công liên hệ với Thầy bằng môn tu châu tịnh định. Tất cả ngọn đuốc tâm linh đều được thắp sáng soi đường cho thiên hạ. Nên cần nhất là sự nối liền giữa Thầy và nhơn sanh trong Giáo Hội. Đó là dòng suối tâm linh, dầu chưa nhập thánh siêu phàm cũng làm được con người chân thật.
Có con người tu châu rồi sẽ có con người giải thoát. Cầu sao cho mọi người cùng trong một thánh thể, sở dĩ họ giải thoát là nhờ tu châu mà bừng tỏ tâm hồn khát khao chân lý. Con người Giáo Hội đã được tu châu thì dòng điển quang sẽ soi sáng đả phá vô minh. Tự họ sẽ thành con người thiện dân Thánh Thần, con người quy luật.
Làm nên cho Giáo Hội, chỉ cần con người biết tu tỉnh tâm linh, tô bồi gốc Đạo. Gốc là Thầy. Có Thầy thì việc gì cũng ổn định, việc gì cũng thành công. Nên phải lấy chữ tu làm mục đích. Nhưng cũng đừng chấp tu phải lìa đời xa bạn, mà càng sống trong thanh sắc. Phía trong thanh sắc là Thánh. Cứ an nhiên tự tại. Bất cứ cảnh nào cũng được ứng thông nhật dụng thường hành.
Đạo pháp là thế gian pháp. Phiền não là bồ đề. Trần tục là thánh đền của bậc giác ngộ. Nên các bậc đạo sư minh triết không cần xuất tục, mà tục là chỗ đạo tràng của thiền định. Cái khó của người tu sống trong đám đời mê muội đầy tham sân nghịch ngợm, mà lòng tu không chấp mắc, không phân biệt, không lấy bỏ, không ta người. Có được vậy là nhờ bao nhiêu ma lực nhất thiên nhiên bán đời bán đạo. Thích là con đường giải thoát, nhứt trần bất nhiễm, vượt cả Thánh Thần.
Trong lúc hiền đệ cần bồi dưỡng cho nội tâm sung mãn thì tùy nghi phương tiện thuận lợi mà an dưỡng tâm linh. Song được phần mình mà mất phần nhơn sanh, kẻ được no cũng nhớ đến người đương đói khát. Đó là Thượng Đế, là lẽ thật là sự sống và tình thương. Người Thiên ân cần chỗ an tâm, cần có thì giờ để chiếu phá vô minh còn lẫn sót, thì sự hành quyền, sử vị mới linh động sáng suốt. Song Hội Thánh không người thì hiền đệ cân nhắc cho đúng mức, thì đẹp lòng Trời thuận ý người, nên việc cho ngày mai. Hội Thánh hiện nay kẻ cầm lèo lái nếu biết quay vào nội tâm, tẩy tâm thối tàng ư mật, thì sứ mạng Trung Hưng ở ngay trước mặt.
Đàn giao thừa ngày 01-01 Kỷ Dậu (17-02-1969) tại đàn Chợ Lớn. Phò loan: Quảng, Châu. Độc giả: Phụ. Điển ký: Huệ.
THI
CAO ban phúc đạo tiết xuân sang
ĐÀI thượng gia ơn khắp cả đàn
GIÁO lý độ đời nêu bảng Thánh
CHỦ tâm thoát kiếp đoạt khoa tràng
NGUYÊN nguyên mặc hộ trần ai khổ
ĐÁN vọng âm phò nghiệp thế gian
GIÁ ngự chiêu chương chan rưới điển
LÂM truyền các trẻ gội thanh quang.
Đức Chí Tôn ban danh hiệu Huyền Quan Đàn cho Trung Tông Thánh Tịnh:
Huyền công dụng điển đề thơ
Trung phần Đà Nẵng điện thờ nghiêm trang
HUYỀN QUAN ĐÀN Thầy ban danh hiệu
Lịnh Thầy truyền chiếu diệu hôm nay
Danh xa Minh Chiếu Cao Đài
Giống lành gieo tốt hậu lai nối truyền.
Tịnh Đường, đàn Tý thời ngày 02-01 Kỷ Dậu (18-02-1969), Liên Hoa thủ cơ:
NGỌC Kinh Thầy ngự hội quần Tiên
HOÀNG Phụ thương con mở thánh truyền
THƯỢNG hạ một lòng thanh tịnh giới
ĐẾ ngôi cựu vị được hoàn nguyên
GIÁNG thăng pháp đạo thông thiên địa
HUYỀN tẫn nhiệm mầu kết hống diên
QUAN khiếu mười phương cơ tiếp độ
ĐÀN trung vi hiến nhứt môn thiền.
Thầy mừng các con.
Hôm nay ngày tân xuân năm Kỷ Dậu, Thầy lâm cơ bố điển, ban rưới hồng ân cho các con nam nữ nơi nầy cùng tất cả hoàn cầu và đặc biệt cho Việt Nam Thánh Địa.
Thầy miễn lễ. Các con an tọa nghe dạy.
Trải bao ngày tháng thăng trầm, cuộc dinh hư biến dịch của cơ Tạo nhiệm mầu các con cũng không thoát ngoài công lệ mà cơ đạo cũng nằm trong khuôn khổ của thời gian. Thầy cũng đành để cho các con phải trả xong nợ tiền kiếp, tạo lập cho mình một địa vị xứng đáng để được quyền pháp trọn trao, luật công bình Thầy không sửa được.
Nhưng các con đã đến nơi trường đời nhờ hoàn cảnh đào luyện. Nếu các con có chí, chầy sớm cũng trở thành bực vĩ nhân hiền đức, đủ tư cách đảm nhiệm sứ mạng của Thầy dự định phó thác vào những con, để thay Thầy nơi cõi thế nầy đem mối Đạo mà quảng truyền cho bốn biển, hầu tiếp độ nhân loại đương có đủ thiện căn.
Hạt giống trọn lành ở trong thân tâm con người nhơn khí xuân dương tái phục. Sự sống đâu đó được nhô lên. Chỉ còn chờ sự tiếp tay của người có sứ mạng ở nơi Thầy vun tưới, đắp xây cho nó, thì tự khắc được nẩy nở sum sê, hoa thơm trái ngọt, đạo đức kết thành. Đâu đâu lại chẳng có cây lành. Một hóa trăm hóa ngàn. Cơ đạo hiển nhiên đầy trời đẹp xinh tươi tốt.
Hôm nay Thầy thấy các con nơi nầy chí tu đã vững, lòng đạo đủ đương lấy gánh nặng quyền pháp, tự độ độ tha, thành kỷ thành nhân, hầu đem nhau lại hiệp một cùng Thầy. Thầy ban cho nơi nầy một hiệu đàn gọi là Huyền Quan. Các con hướng vào đó mà tu, noi theo đó mà hành.
Trời đất không ngoài cái đó. Thành Tiên Phật bởi đó. Sự sống ở đó. Lẽ thật trong đó. Tình thương phát xuất do đó. Kiền khôn thế giới đứng vững nhờ đó. Các con đắc đạo là đắc cái đó. Mọi người, mọi giống chung chạ mà không tiêu diệt lẫn nhau cũng bởi đó.
Giữa xã hội, nó là cái cửa đạo nghĩa. Sự sinh tồn nó là mối nhân luân. Dầu kẻ ngu hay hạng người đại trí cũng một khiếu Huyền Quan. Hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc ít hoặc nhiều, muôn vàn khía cạnh xuất hiện, trông như khác nhau nhưng mọi cái sở dĩ không ngoài khiếu đó. Nhưng đạt cho được toàn diện, chứng đến rốt ráo chỉ có Phật mà thôi. Nên muôn sự muôn việc dầu hiện dầu chưa hiện, hoặc đã qua hoặc sắp đến, không có huyền khiếu đó thì không có càn khôn thế giới nầy. Mà có cũng do đó gây ra biết bao sự oái ăm trái nghịch, vui khổ ảo huyền.
Nhơn loại lên xuống sáu đường ba cõi cũng vì chưa hoạch đắc chỗ trung nhứt khu nữu của căn đề. Mà chỉ nó phát lộ ở khía cạnh hậu thiên rồi cứ chấp cứng ở một vài chi tiết, như lý trí tình cảm, rồi cho đó là trực nhập chơn tâm. Nên kẻ kia hoặc duy lý, duy tình, duy tâm, duy nghiệm, duy vật, hay duy kỷ, mà đem cái toàn diện của nó chặt ra nhiều khúc. Mỗi người giành lấy một phần, rồi tranh cãi nhau mà xô thế giới vào trường luận biện đấu tranh.
Thầy ước sao mỗi con phải can đảm chiến thắng với hoàn cảnh, vượt lên trên hình thức hẹp chật, đứng ra ngoài thị phi ẩm thực thường tình, để lòng trống không thanh thoát, hầu trầm lặng trong biển chơn như, để chứng nhập Huyền Quan, hầu huyền đồng cùng trời đất, để thị hiện con người thánh đức dung thông, cho thế giới cho tương lai một con đường trung chính, một niềm tin trọn vẹn tận đến mục đích cứu cánh cho loài người.
Các con hiện nay còn cậy sức mạnh của máu xương, tài ba bằng trường đời đào luyện, khôn ngoan ở kinh nghiệm tập tục, hoặc lời lẽ Thánh Hiền lưu tích ở sử kinh, chưa phải tự mình phục sinh nguồn đầu bản lai chí thiện.
Hôm nay Thầy ban cho con một hiệu đàn, là ban cho một bửu pháp, một quyền năng, một sự sống theo đà xuân nầy mà tiến mãi cho đến hạ thì trưởng thành, qua thu thì thâu gặt, đến đông thì tàng trữ, rồi tuần hoàn cứ đó mà thánh hóa thêm lên.
Huyền Quan chẳng những một phương tiện đạo đức của người triết nhân, mà bao hàm một sức mạnh thiêng liêng. Các con nương đó làm gậy đỡ chân trên đường ghồ ghề hiểm trở, để tìm những con chiên lạc đem lại một chuồng, và cũng nương đó chống đỡ cơn phong ba, thẳng về với Thầy.
Đây Thầy nhắc sơ con người sứ mạng mà các con đã trải qua. Rồi đây cần đi đến đích thì cốt là các con hòa thuận xây đắp cho nhau một tình thân. Ai nấy cũng xứng đáng là người môn đệ yêu thương của Thầy. Có vậy mới đủ tư cách con người giải thoát để tìm về tự do.
Các con là một ngôi sao bị mây che chưa lộ vẻ đẹp, chưa cộng sức sáng cho bầu trời được quang huy. Mà mây đó là lòng vị kỷ hẹp hòi. Các con không nên khu biệt cái thân con người tu sĩ ở một phạm vi nhỏ bé nầy, mà chỉ biết mình. Còn bao nhiêu sự tương quan, nếu không nhờ lẫn nhau thì không sao thành tựu.
Đồng tử Liên Hoa đã xin nghỉ thủ cơ tại Trung Tông Đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài và được đạo trưởng Huệ Lương Trần Văn Quế - Chủ Trưởng Hội Thánh Truyền Giáo, cũng là Vĩnh Tịnh Sư Hội Thánh Minh Lý (Tam Tông Miếu) - giới thiệu vào Tam Tông Miếu làm đồng tử theo yêu cầu của ngài Minh Thiện. Tuy nhiên, nhiều đàn cơ dạy pháp tại Trung Tông Đạo vẫn phải nhờ đồng tử Liên Hoa về thủ cơ.
Sau kỳ đàn ban hiệu Huyền Quan cho Trung Tông Thánh Tịnh, đồng tử Liên Hoa thường xuyên về Tịnh Đường theo nhu cầu của các đàn kiểm tu, kiểm pháp. Các đàn cơ nầy được các Đấng về chấn chỉnh nghi thức thờ phượng, nhắc nhở việc trao giồi đạo đức, lập hạnh công phu, điểm danh các tịnh viên, dạy về nhiệm vụ người Thiên ân, minh định về bốn tầng bậc công phu luyện châu.
Đàn ngày 14-3 Tân Hợi (08-4-1971):
Huyền quan mở cửa tổng trì môn
Ai kẻ tri cơ được vĩnh tồn
Pháp đạo gắng tìm không thấy đạo
Tự nhiên sẽ gặp máy càn khôn.
TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG
Bản Thánh chào toàn thể chư Thiên ân và đạo tâm nam nữ.
Hôm nay vì lòng thành của toàn đạo hiện diện nơi đây, Bản Thánh ghé về chào mừng chư thiện tâm đặt lòng cầu tu độ thân hành đạo. Bản Thánh ước sao mỗi người nhận chân cho được chánh pháp buổi Tam Kỳ mà Thầy đã nấy đặt nơi Trung Tông quyền pháp của Hội Thánh Truyền Giáo, được trung hưng kết tinh một nền chánh pháp, không nghiêng lệch một bên nào, dầu nói đó là chơn hay cao cả.
Vậy hôm nay Thầy sẽ ban cho các hiền một phương châm tổng hợp để thưởng lòng chí thành cầu tu.
Chư hiền nam nữ nghiêm chỉnh thân tâm, tiếp giá Chí Tôn. Bản Thánh xuất cơ.
TIẾP ĐIỂN
THẦY CÁC CON
Thầy mừng các con.
THI
NGỌC lành vô giá sẽ về ai
HOÀNG Phụ chờ con đủ đức tài
THƯỢNG đạt nên người đương sứ mạng
ĐẾ quyền chớ khá để chia hai.
Thầy miễn lễ. Cho phép các con an tọa nghe Thầy dạy.
Các con từ lâu đặt hết lòng vì Thầy lo tu lo đạo, song Thầy xét lại, phần đông còn thiên chấp làm kẹt mắc trong chỗ tà kiến khiến cho càng lúc càng cách xa Thầy. Nhưng các con nào thấy được việc mình lo mình tính đó là sai. Nếu Thầy không sớm chỉ dạy cho các con, thì việc hành đạo, tu trì nhiều năm hóa ra đứng sau người mới đến. Từ ngày Thầy ban quyền pháp cho các con nơi Hội Thánh Truyền Giáo, Thầy đặt tin tưởng ở mỗi con, lòng thành và nhiều ngộ đắc.
Thầy muốn các con làm y những điều mà Thầy đã dạy. Dầu gặp khó khăn cũng nhẫn nhục mà đợi lịnh Thầy. Mặc dầu đường lối trung hưng có nhiều khúc quanh co chật hẹp, song cũng là một sự thử lòng. Năm Nhâm Thìn Thầy ban cho các con một nền chánh pháp, mà từ lâu các Hội Thánh đã chen chưn ra mắt cũng chưa hề nhận được các bí tích Khai Đạo Thông, Khai Pháp Thông, Khai Sinh Cơ Thông, Khai Nguyên Giáo Pháp. Bao nhiêu đó đủ cho các con tự rỗi và rỗi độ chúng sinh, kẻ quá vãng, người hiện tiền.
Song còn ban cho các con nhiều pháp môn trực ngộ nhập thánh siêu phàm. Như Hồi Hướng Linh Châu là một pháp môn đệ nhất, con đường tắt về Thầy. Dầu hạng đại ngu hay người trí cũng đều tu được pháp môn ấy. Các con cho thường. Các con cầu pháp cao hơn, mà không ngờ pháp đó nguyên gốc dựng nên trời đất sanh linh. Rồi trời đất sanh linh cũng nương đó mà về hiệp nhứt cùng Thầy.
Nếu các con tự tham khảo và lãnh hội được thì chuỗi châu 54 hạt là cả một cơ mầu tối thượng. Từ Hà Đồ 55 biến thành 45. 45 là số Lạc Thơ, hầu chúng sanh ra ngoài Hậu Thiên mà thố loạn, nghịch khắc chia cách đối thù. Mười điểm tại cung Lạc Thơ đã phóng ngoại, mà ngũ nguơn biến thành ngũ dục vô minh che phủ lạc đạo quanh trong sáu nẻo luân hồi.
Thầy dùng Linh Châu cho con phản hoàn đủ số 54 cộng 1 trở lại Hà Đồ, thì âm dương tương hội, nội ngoại nhứt tề. Một pháp môn cộng đồng bình đẳng, tâm nhứt tâm hồi hướng cùng Thầy. Sự thông công phương tiện không gì khó khăn.
Song cũng ban cho các con một pháp môn nội ngoại đồng tu, phước huệ song toàn là pháp Tướng Châu để chỉ rõ môn tu, môn học và môn hành. Cho người có vị có quyền trong Giáo Hội, bằng diệu lý đẳng thừa cả Thích, Đạo, Nho, ngoại giới thiên nhiên, nội giới tâm linh làm một. Là các pháp trừ, cộng, nhân, chia thành một con số sinh cơ nhứt tức, không chấp ngã chấp pháp, chỉ, quán đồng tu.
Nếu bước nầy không điều khí an thần thì mong gì vào cửa Tâm Châu. Đã vào Tâm Châu là một nấc thang trên chót. Thầy cũng hứa sẽ cho các con một vài phương tiện để tùy căn cơ mà độ tận các con hằng đẳng sai biệt nơi cõi phàm trần.
Như pháp hoàn đơn trên và trên đầu thang, nếu chơn không còn dựa ở thang mà vượt ngoài không gian vô tận.
Nhưng các con cũng cầu vọng cái xa xăm trống rỗng mà tự mình chưa chủ lấy tâm mình. Thử hỏi, Phật có nhị không để trừ tam tâm tứ tướng? Nhị không là vô ngã vô pháp, không ngoại giới, không thân mình. Các con đi đến đó được không?
Lão thì có tam vô: vô danh, vô kỷ, vô công. Khổng thì tứ vô: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã để cầu thành đạo quả vô sanh. Các con sao quá chấp pháp nọ pháp kia, đây hơn đó kém mà bị kẹt mãi trong vọng thức không nhận chân câu pháp vô định tướng. Pháp không cố định một hình tướng mà hiệp cơ vi diệu. Khế hiệp với căn cơ và hoàn cảnh thì linh diệu thành công. Đâu phải khư khư chấp nhứt, cứng khừ, khô khan, chết ngột không còn biến hóa.
Thuyền để qua sông, nhưng qua được bờ kia là nhờ cái tâm lái theo hướng định. Nên từ lâu các Tổ ra đời không dám hé một lời quả quyết, vừa khẳng định, vừa phủ định. Nếu khẳng định thì làm cho đệ tử kẹt vào pháp, mà pháp chuyển không sao chuyển được pháp.
Ngô Minh Chiêu thành đạo sao các con không thành? Vì các con chấp mà Chiêu không chấp. Các con chẳng những chấp pháp mà lại chấp cả Chiêu mới lạ cho kìa! Chiêu đến đây để tượng trưng quyền pháp. Mục tiêu vì thiên hạ trên trần gian, phát tâm cứu độ để rồi ai cũng trở thành Ngôi Hai, ai cũng trở thành Thượng Đế. Nào phải người đến đây để cho thiên hạ lạy thờ ca ngợi, ngắm nghía chơn tướng của người.
Các con phải học Chiêu, đức độ rộng lớn, hạnh chỉ ôn hòa, tâm tư rỗng rang cởi mở, ăn nói lợi quốc ích dân, việc làm khuôn viên mực thước, một dạ tu hành. Chớ đừng ỷ lại chánh pháp đó chắc mười phân là được, mà được không do ở một tâm. Thầy đã nói Thầy là các con, các con là Thầy, thì các con cũng thành được Thượng Đế, hà tất Ngôi Hai, Ngôi Ba. Ngôi Ba là hóa thân. Ngôi Hai là báo thân. Ngôi Một là pháp thân. Tam thân đồng nhất thể của Thầy.
Thầy đến lần nầy trao ngay chánh pháp cho các con, mà chánh pháp đó từ lâu, bị gián đoạn, từ Thích Ca truyền cho Ca Diếp đến hai mươi tám Tổ. Tổ chót là Đạt Ma truyền qua Trung Quốc đến Huệ Năng thì chánh pháp nhãn tạng bị lu mờ, nên tu nhiều mà không chứng quả.
Lần ba nầy Thầy trao truyền cho Chiêu. Chánh pháp nhãn tạng này chẳng những như xưa mà phổ cập mười phương. Dù kẻ tu nội tỉnh cầu tâm hay ngoại tu cầu pháp, cũng được siêu độ. Nên con nào tu pháp môn nào mà có Thiên Nhãn thì cũng được kết quả. Vì sao? Vì pháp môn chỉ tu khí dưỡng tinh mà không có thần làm sao hoàn nguyên đăng thượng. Cũng như gà ăn no thì đẻ trứng, song không trống khó nở con. Cây cỏ cũng thế, cô âm bất sanh, cô dương bất thành.
Mà chánh pháp nhãn tạng là sao?
Tạng là kho chứa. Nhãn là con mắt, là xu cơ ([11]) của tâm. Nếu luyện thần nhãn mà luyện song quang thì làm sao âm dương trở về cội gốc là Thái Cực. Nên phải mở mắt giữa mới thấy được Huyền Quan. Nói ‘Nhãn thị chủ tâm’, thế là tâm chủ tể của hai mắt. ‘Lưỡng quang chủ tể. Quang thị thần. Thần thị Thiên. Thiên giả ngã dã.’ Đó là một yếu quyết khai thông khi các con được truyền để hiệp một với Đại Đạo .
Hôm nay nhằm ngày lễ kỷ niệm Ngô Cao Tiên là người Thầy chọn trước, mà cũng là người tượng trưng quyền pháp cho nền đạo của Thầy, cũng người đã làm đúng lời Thầy đã dạy, mà cũng là người tin cậy trực tiếp cùng các con. Thầy mừng các con biết quý Hiền tôn Đạo mà trông cậy vào người. Điều đó có thể nối nhau thành dây quyền pháp.
Song các con là người đi thẳng với hệ thống Chiếu Minh lo tu kỷ độ thân thì cũng chẳng nói làm gì. Bằng theo hệ thống Trung Tông, thì phải đi trên đường phước huệ, tự độ, độ tha, cả cứu mình và lo cho Đạo. Nghĩa là đồng thời hành đạo, đồng thời tu luyện. Bản thân thung dung đừng gấp gãy. Lúc nào cũng tu, thời nào cũng luyện. Gặp phải cũng làm, gặp duyên lành cứ kết. Một việc thiện chớ bỏ qua, một cơ hội may chớ trễ. Đó là hệ thống kiêm cai quyền pháp, làm Bồ Tát vị chúng sanh. Còn con nào muốn thành một mình làm La Hán cũng không khó. Song chẳng khi nào được có báo thân, mà không có báo thân thì chỉ hưởng nhàn, nào giúp nên đạo cho vạn pháp được.
Thầy cũng chuẩn y lời nguyện các con. (…) Nhưng sau đừng trách Thầy không vẽ đường chỉ hướng. Ngô Minh Chiêu không phải chỉ là Giáo Chủ của Chiếu Minh mà thôi. Mà chỗ nào, nơi nào có thờ Thánh Nhãn là có Ngô Minh Chiêu ứng hóa thân, truyền pháp bằng đủ phương tiện độ người.
Các con nên nhớ rằng Thầy không giao chánh giáo cho tay phàm mà Thầy phải lập Hội Thánh để chọn người ly trần xuất tục, hòa mình cùng đạo, mà thừa lịnh Thầy để phổ hóa chúng sinh. Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy đến lập pháp cho các con mãi mãi, không phải một lần. Thuyền đạo biến hóa vô lượng thù thắng, đâu phải một vài bí tích như các con hiểu.
Thầy ban ơn lành cho mỗi con. Thầy có dịp sẽ dạy thêm. Thầy khen các con nơi nầy đã có lòng tu học, có chí cầu thánh đắc chơn. Ráng lên Thầy sẽ mượn tay các con điểm tô nền Đạo. Thầy thăng.
Từ năm Kỷ Dậu (1969) Hội Thánh Truyền Giáo cầu truy phong cho chức sắc và đạo tâm có công đã quá vãng đồng thời tổ chức lễ rước sắc phong về các thánh thất rất long trọng. Hội Thánh mở khóa hạnh đường cho hai mươi hai tân lễ sanh trong bốn mươi lăm ngày, kết quả rất khả quan.
Một duyên lành đến cho Hội Thánh là tại Tam Kỳ xin được khu đất khá rộng ngay mặt quốc lộ 1. Giáo Sư Thái Phẩm Thanh lo đảm trách việc xây dựng Thánh Đường Quảng Tín. Tại Bình Định dòng tộc Ngô Tùng Châu đã hỷ hiến cho giáo hội Cao Đài mười một mẫu ruộng để làm phước thiện. Đây là do lời Đức Ngô Tùng Châu dạy tại Kim Quang Minh Đài ngày 22-6 Canh Tuất (24-7-1970):
VIỆT bang nào phải có ba kỳ
NAM, Bắc, Trung phần do Pháp ly
CÔNG nghĩa, hy sinh vì Tổ Quốc
THẦN trung tuẫn tiết lúc lâm nguy
NGÔ thân bất độ hà thân độ
TÙNG Đạo tùng Thiên chánh pháp quy
CHÂU thỉ phục hoàn đời mạt kiếp
GIÁNG phân lý sự rõ tường tri.
Lão Thần chào chư Thiên mạng Hội Thánh Tiên Thiên. Mừng chư chức sắc các cấp Hội Thánh Truyền Giáo. Mừng các cháu trong tộc Ngô của Lão.
Giờ nầy Lão vâng Thiên sắc giáng đàn, để đôi lời đàm đạo cùng chư Thiên mạng trong việc hành đạo, sau để đôi lời với các cháu.
Những dĩ vãng chứng minh huyền linh của Đạo Trời, vì thế từ ngày khai đạo, các bậc công thần, văn võ các triều vua cùng quy phục dưới chân Thầy để lo bồi công lập đức, lãnh thánh sắc giúp phần hữu hình trên đường hành đạo. Vì vậy ý Lão không muốn cho thân tộc của Lão hưởng phần tế tự. Vì câu:
- Lưu hữu dư bất tận chi CÔNG, dĩ hoàn Tạo Hóa.
- Lưu hữu dư bất tận chi LỘC, dĩ hoàn triều đình.
- Lưu hữu dư bất tận chi TÀI, dĩ hoàn bá tánh.
- Lưu hữu dư bất tận chi PHÚC, dĩ hoàn tử tôn.
Vì yếu lý của bốn câu “Lưu” ấy mà Lão không muốn cho một cháu nào thụ hưởng phần vật chất của triều đình ban cấp tế tự lăng miếu của Lão.
Bởi câu “Thế sự vạn ban đô thị giả; nhân gian đạo đức quả vi chơn”, Lão muốn để phúc đức cho con cháu mà thôi. Vậy cháu Ngô Tùng Du, là phần hiện tại trong trưởng tộc, cháu nghe lời Lão Tổ, nhắn với các cháu nam nữ, lão ấu ráng hồi đầu hướng thiện, quy y vào Đại Đạo, để hưởng được ân xá Kỳ Ba.
Tỉnh Đạo Bình Định đã thay mặt Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài xây dựng lăng miếu Ngô Tùng Châu ở Phù Cát và hằng năm tổ chức lễ giỗ tại Tỉnh Đạo vào ngày 25-5 âm lịch rất trọng thể. Do sự kiện nầy mà Đền Ba Vua Tây Sơn ở Bình Khê hằng năm cũng mời Tỉnh Đạo Bình Định lo phần tế lễ vào ngày mồng 5-01 âm lịch.
Cùng năm Kỷ Dậu, quý Thiên ân thọ pháp đàn Chợ Lớn tuần tự dâng lễ chín năm. Để nêu cao tinh thần trung đạo, Ơn Trên đã vận chuyển tiền bối Minh Quảng ([12]) từ đàn Chợ Lớn ra Trung, xin lệnh Ơn Trên chế giảm một số niêm thức ngoại dung tạo nên sự hài hòa cho Trung Tông Thánh Tịnh.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, Hội Thánh tổ chức ban trao thiên phục cho các Đầu Họ Đạo. Lễ phục của chức sắc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài đều là bạch y, bạch cân; chỉ riêng Lễ Sanh Đầu Họ Đạo được Đức Lý Giáo Tông ban trao phẩm phục theo phái để hành quyền độ sanh độ tử.
Qua năm Tân Hợi (1971), Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài lập Thành Đạo Cam Ranh cử Giáo Sư Nguyễn Khoa Trường (Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế Hội Thánh) kiêm nhiệm chức vụ Đầu Thành Đạo.([13])
Thánh thất Trung Minh ở Sài Gòn hoàn tất xây dựng hai đài, Hội Thánh bổ nhiệm Lễ Sanh Lê Thành Tiến làm Đầu Họ Đạo, tổ chức lễ khánh thành ngày 01-6 Tân Hợi (22-7-1971).
Trận bão Hester khủng khiếp năm 1971 lại thêm chiến tranh ác liệt năm 1972 làm dân chúng và bổn đạo miền Trung khốn đốn. Ba Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh, Hội Thánh Cao Đài Trung Ương Trung Việt (Tam Quan), và Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài (Đà Nẵng) cùng hợp tác lập ban cứu trợ do Sĩ Tải Đặng Ngọc Dương (Truyền Giáo) làm trưởng ban.
Phối Sư Chủ Trưởng Huệ Lương (Trần Văn Quế) hướng dẫn phái đoàn gồm đại diện chín Hội Thánh đi Tòa Thánh Tây Ninh để thương thảo việc lập Hội Đồng Vận Động Thống Nhất Giáo Hội Cao Đài ngày 17-10 Nhâm Tý (22-11-1972).
Về chương trình sinh cơ lập nghiệp cho bổn đạo, Giáo Sư Ngọc Tín Thanh lập phái đoàn vào Phước Tuy tìm đất lập khu kinh tế mới, nhờ phối hợp với đạo trưởng Trần Quốc Luyện nên kết quả mỹ mãn.
Ngày 18-01 Quý Sửu (20-02-1973), Hội Thánh đưa ba ngàn tín đồ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định vào khẩn hoang lập nghiệp tại xã Suối Nghệ, huyện Đức Thạnh, tỉnh Phước Tuy (nay là xã Nghĩa Thành, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Hội Thánh cử đạo trưởng Bạch Hổ (Trần Quang Châu) chỉ đạo thành lập ba thánh thất Trung Nam, Trung Nghĩa, Trung Tín và thánh đường Tỉnh Đạo.
Công trình kinh tế mới của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài ở đây rất quy mô, mở đường sá, có khu dân cư, chợ búa, trạm y tế, trường học, nhà sinh hoạt Thanh Niên Hưng Đạo Đoàn, một khu nghĩa trang rộng bảy mẫu tây. Khu canh tác bạt ngàn, tùy sức bổn đạo phân lô khai thác. Hội Thánh liên tục cử chức sắc vào thăm viếng, ổn định tổ chức nhân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tu học cũng như phương tiện sinh cơ lập nghiệp. Ở miền Nam, nhiều phái đoàn các Hội Thánh bạn đến thăm và ủy lạo trong tinh thần tương liên đồng đạo.
Giáo Sư Ngọc Trường Thanh ở Phú Yên đang là Đầu Thành Đạo Cam Ranh phối hợp với Sĩ Tải Đặng Ngọc Dương vận động xin khẩn hoang lập khu định cư Trung Hiệp tại Suối Hòa (Cam Ranh). Nơi đây tiếp nhận ngót hai ngàn đạo hữu ở Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín và thành lập thánh thất Trung Hiệp. Hội Thánh bổ nhiệm Quyền Giáo Hữu Nguyễn Phái làm Đầu Họ Đạo.
Tại Trung Tông Thánh Tịnh, đàn Tý thời ngày 01-7 Quý Sửu (30-7-1973), Đức Cao Đài dạy:
THI
CAO quyền đâu phải cậy danh suông
ĐÀI thánh thông công đạo tận nguồn
THƯỢNG đẳng pháp môn Nho, Thích, Lão
ĐẾ triều tận độ mở Thiên môn.
Thầy hôm nay vì lòng từ bi không lẽ để cho các con ngày tháng nổi trôi theo dòng trào lưu mà chưa quyết được bến bờ để sớm chiều yên thân mở rộng cửa từ cho nhơn sanh noi theo hướng để cùng chung vui trong sứ mạng. Thầy cho phép các con an tọa.
BÀI
Đạo là cái, cái không phải cái
Đạo là không nào phải ngoan không
Đạo là muôn lối cộng thông
Bao hàm tất cả hẳn không danh từ.
Nếu suốt lẽ thiệt hư, hư thiệt
Nào chấp nê trái mất chơn truyền
Nguyên đầu hỗn nhứt tiên thiên
Phân Nghi lập Tượng pháp quyền khởi đoan.
Cơ mầu nhiệm linh quang biến hóa
Mà có nên tất cả sắc không
Kiền khôn một chủ nhân ông
Thiên sai vạn biệt ngoài trong cũng Thầy.
Tuy mắt phàm đó đây khác biệt
Mà kỳ trung vốn thiệt không hai
Đừng lầm nghĩ quấy chấp sai
Cổ kim chỉ một Cao Đài hiện thân.
Vạn giáo thể vạn dân mà có
Đủ muôn màu đen đỏ vàng xanh
Thuốc hay trúng chứng bệnh lành
Tùy duyên hóa độ sở hành khế cơ.
Thấy được tâm nào ngờ chi nữa
Thần ra vào không cửa pháp môn
Pháp môn chế phách luyện hồn
Bệnh đời đủ loại, pháp môn đủ đường.
Mượn pháp môn định phương dẫn lối
Vì pháp môn gây lối tranh giành
Phải chăng họa ấy lộng hành
Mà Thầy phải đến điều đình quy nguyên.
Dung nhiếp cả công truyền, tâm pháp
Dung hòa cho ứng hợp cơ linh
Nếu ai còn chỉ thấy mình
Đời còn tranh cạnh bất bình khổ đau.
Con cùng Thầy chung nhau cải tạo
Cho cảnh đời toàn hảo tồn sinh
Chúng nhơn cộng hưởng thanh bình
An vui tiến bước Thiên Đình lại quê.
Chưa tỏ ngộ vì mê còn chấp
Chấp càng nhiều tâm lấp càng sâu
Biết phương phản tỉnh nội cầu
Cùng Thầy ở chỗ nguyên đầu nhứt như.
Người giải thoát vô tư vô niệm
Tuy căn cơ đốn tiệm hành công
Vạn duyên giữ sạch nơi lòng
Để tâm ngoại sự bao đồng ích chi.
Tu mà còn thị phi ái ố
Mở rộng đường rước khổ chiêu oan
Vào đâu là cửa Thiên Đàng
Vin đâu mới thiệt Niết Bàn của con.
Nếu một niệm mà còn mê chấp
Thì vô minh che lấp chơn như
Ngày nào tâm trẻ hư hư
Lo gì lập đảnh an lư không thành.
Còn chấp ngã, chấp danh, chấp pháp
Mãi trong vòng đối đáp lại qua
Đạo Thầy tổng hợp dung hòa
Quy nguyên phục nhứt một nhà cộng thông.
Khắp nam bắc tây đông trời đất
Dù duy tâm, duy vật trăm đường
Quý là ngàn sắc muôn hương
Tinh hoa rải rác mười phương thiếu gì.
Bậc thánh trí biết quy tụ lại
Người ngu mê chấp mãi một bề
Mộng đời chưa chín nồi kê
Nhục vinh được mất chán chề chăng con.
Ngoài tai mắt không còn ưa ghét
Trong não cân đoán xét cũng không
Rỗng rang mở một đường thông
Thích, Gia, Nho, Lão huyền đồng tương dung.
Pháp tu luyện bảo trung thủ nhứt
Mà đạt trong tận thức siêu phàm
Nếu còn say đắm muốn ham
Nói Tiên nói Phật thêm làm vướng tâm.
Vô vi tuyệt thanh âm sắc tướng
Đạo phải đâu hình tượng ngôn từ
Nếu mà ngộ kiến minh sư
Ứng thông không thiếu không dư mới mầu.
Xưa lập pháp năm châu tế độ
Tùy cơ duyên tùy chỗ bịnh sanh
Thế nhơn gặp thuốc tất lành
Khư khư tin chỉ Thầy mình là hay.
Quên dưới trần, nhiều tay y thủ
Quên trong đời có đủ các khoa
Dĩ nhiên trong chính có tà
Trong tà có chính chọn ra phần nào.
Thế thường biết khen cao chê thấp
Mà mấy ai tự lập lấy thân
Dầu ai là Thánh là Thần
Mà mình bỏ mất thiên chân ích gì.
Lỡ buông ra mau quy trở lại
Biết dung hòa tự tại an vui
Cớ sao có mắt mà đui
Thấy mình mà chẳng thấy người chung quanh.
Lòng vị kỷ chia ranh mất bạn
Kiếm si mê cắt đoạn tình thương
Giữ tâm cũng phải lắm đường
Quy căn phục mạng Tây Phương phản hồi.
Quyết không để chia đôi tâm vật
Quyết không cho lẽ thật lấp vùi
Khổ là trống ngược kèn xuôi
Mà Thầy vì trẻ ngậm ngùi từ lâu.
Nạn riêng rẽ đám đầu môn pháp
Thiếu tinh minh lạm trái quyền hành
Phương tu pháp đạo chưa rành
Trung hưng cốt để tài thành phục nguyên.
Pháp trung hưng vô thiên vô ỷ
Thời trung hưng bất nhị bất phân
Chỉnh tu hình thức Thiên ân
Chỉnh tâm lệch lạc quy chân phản tiền.
Sứ mạng muốn trao quyền cho trẻ
Bởi mỗi con bác bẻ lời thề
Lời Thầy Hội Thánh bỏ bê
Bửu Chương Pháp Đạo không về tận tay.
Mới có cuộc đổi thay biến chuyển
May ơn Thầy bốn biển hồi sinh
Năm châu tâm hướng hòa bình
Mỗi ngày thế giới thâm tình giao thân.
Lòng nới rộng xích gần nhau lại
Dẹp tư riêng phe phái đối thù
Trong đời cũng lắm lối tu
Gặp nhau ở chỗ công phu dung hòa.
Cao Đài Giáo lại là chỗ đó
Đó là tâm có có không không
Có không trời đất hội thông
Hội thông cho được chủ ông muôn loài.
Chủ được tâm không ngoài hư tịnh
Không chủ tâm bá bịnh trùng sanh
Chủ tâm ngụy tật tiêu lành
Buông tâm nô lệ hư danh mất quyền.
Thầy hôm nay cho các con một đường hướng, để định đoạt danh phận của đời mình. Thầy không phủ định mà cũng không khẳng định đó là đúng hay sai. Nhưng khi Thầy trao quyền tự lập cho mỗi con. Thì quyền pháp ấy ở vị trí nào lo an toàn cho cơ sở đó chờ Thầy đem nhau lại.
Đây tới ngày Long Hoa cũng không còn bao nhiêu năm nữa, con phải làm gì để được dự vào ghế Thiên ân, làm xong và đúng sứ mạng của mình?
Các con là hướng đạo. Con sai thì tất cả đều sai. Con đúng thì mọi người mới được ơn. (…) Chẳng những các chi phái ở trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mà cả vạn giáo trên toàn cầu, đều có một trách nhiệm riêng. Trách nhiệm ấy là một trong tất cả. Chờ Thầy để kết tinh. Không nơi nào và đứa nào được nói mình là đúng mà kẻ khác là sai. Nhưng các con từ lâu cũng có công và giàu tâm tu học, đáng nên chung lại, mà lập lấy sự nghiệp cao quý nầy. Tùy căn cơ và trình độ thành một hệ thống tâm linh, hà tất phải bôn Nam tẩu Bắc, mà kết cuộc là tay không như giấc mộng huỳnh lương. Nếu các con biết thương nhơn sanh và quý trọng quyền pháp của Thầy, nên bình tĩnh họp nhau mà vạch một con đường, giúp tất cả đạt trình độ, lớp nào cũng cộng sự sống với nhau thì Thầy hứa không để các con cô lập.
Thầy ban ơn mỗi con. Thầy thăng.
Hội Thánh mời họp cả Trung Hưng Bửu Tòa và Tịnh Đường, có Phối Sư Huệ Lương, đạo trưởng Thanh Long, đạo trưởng Bạch Hổ, và đạo trưởng Trần Quốc Luyện về dự. Với tinh thần kiện toàn bộ máy Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài xứng tầm là Hội Thánh công vụ sứ đồ, theo nghị định số 001/47/HT/NĐ ngày 12-02 Nhâm Tý (26-3-1972), chức sắc lưỡng đài quyết định lập đàn vào ngày 15-7 Quý Sửu (13-8-1973) để dâng sớ cầu thăng Phối Sư Chủ Trưởng lên Chánh Phối Sư để đủ uy lực nắm quyền Nội Chánh phần hữu hình.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, đàn Tý thời, ngày 15-7 Quý Sửu (13-8-1973):
THI
HƯNG truyền chánh pháp cậy Thiên ân
ĐẠO đức rèn tu độ khách trần
ĐẠI chí vượt qua muôn trở ngại
VƯƠNG công hầu bá cũng vì dân.
Bản Thánh chào mừng chư chức sắc lưỡng đài, đạo tâm nam nữ. Đẳng đẳng thanh tịnh an tọa.
Hôm nay nhân ngày Trung Nguơn Địa Quan xá tội, Bản Thánh vui mừng được tâm tình cùng lưỡng phái Thiên ân.
(…)
Hôm nay Hội Thánh thiết cơ đàn để cầu thỉnh thánh ân quyền pháp, buộc người hướng đạo phải luôn luôn tôn trọng để tự khép mình mà làm gương cho kẻ dưới. Một oai nghi, một cử chỉ, nhất tịnh, nhất động phải đặt mình trong khuôn khổ đạo đức, hầu làm sáng danh Thầy, sáng danh Hội Thánh. Không nên vì một cớ nào, rủi bị sơ hở làm cái cớ cho kẻ khác vấp phạm.
Quyền đạo khác hơn quyền đời. Người hướng đạo lo cho nhân dân, cho tín chúng, phải chịu nhiều hy sinh để lợi đời lợi đạo. Người Thiên ân càng ôn hòa nhường nhịn trước mọi thử thách mà chẳng động tâm. Được vậy không cần giới thiệu mà mọi người kính yêu. Mọi người men chân bén gót cùng mình mà về với đạo. Hội Thánh trải qua bao nhiêu năm khảo đảo bên ngoài lẫn bên trong làm cho quyền pháp bị lu mờ, tình đạo mỗi ngày suy sụp.
Hội Thánh là đầu não cho các guồng máy nhỏ lớn ở rải rác xa gần. Nếu động cơ chính bị ngưng thì cơ cấu các nơi đều đình trệ. Người Thiên ân có sứ mạng nơi mình phải là người có quyền pháp, không còn thấy một cá nhân của mình. Vì vậy mà lúc nào cũng nghĩ đến mình đến đạo. Lấy đạo làm tâm, thì tâm được thích nghi thỏa hợp cùng mọi người. Dầu cảnh ngộ thiên biến thiên sai cũng có thể khế ứng, ủy khúc tùy hình để hóa dân vi thiện.
Quyền là lẽ sống mà Thầy đã ban cho, thì quyền ấy ai ai cũng có. Có sự sống là có Thầy. Thầy là lẽ thật và tình thương, nên giữa nhau phải được yêu kính hòa thân. Hòa là nơi làm tòa ngự của Thầy thì thua kém người đời lắm nhỉ?
Đạo có thành, Hội Thánh có uy danh, hàng ngũ cơ cấu đạo quyền được an lành mạnh mẽ. Cũng bởi hòa mà công nghiệp rực rỡ bền lâu.
Vậy tóm lại, các hiền là người vì đại cuộc, lại không quên mình mà thành tựu cho sứ mạng được sao?
Hôm nay vì những sự thiết cần, vì luật pháp không cho phép vượt qua, nên thỉnh lịnh chuẩn phê, đó là một việc mà còn biết bao nhiêu việc, dầu Thầy có từ bi, nhung lưu tệ sau nầy thì trách nhiệm kia ai nhận?
Hôm nay Thầy không đến cũng như Lý Giáo Tông, nên cho Bản Thánh đến đây để thỏa nguyện chư Thiên ân. Quyền lập họ là quyền của Giáo Tông, mà phong thánh và ban sắc là quyền của Thầy, thì bảo lãnh phải được hai quyền mới đủ.
Các hiền! Về vấn đề nào cần cấp hơn nên giải quyết trước. Còn những quyền mà nội bộ chưa thỏa thuận thì cần xét lại và cầu ân Thầy xin phong cho những vị ấy. Bằng vội vàng sau nầy có chỗ bất nhứt thì phạm đến hồng ân. Các hiền nghĩ sao?
[Giáo sư Ngọc Tín Thanh bạch …]
Theo thánh ý thì Thầy và Giáo Tông muốn cho Hội Thánh Truyền Giáo đứng trên cương vị trung hưng, lấy quyền pháp làm then chốt cho công cuộc đem đạo vào đời. Danh và thực, chất và văn phải được tương xứng, đó là hạnh lớn của người Thiên ân. Chức vị từ hàng Lễ Sanh trở lên các cấp trong Hội Thánh thấy vậy cũng vừa. Đem so với các Hội Thánh ở mỗi phái thì phẩm vị có phần vượt đẳng ra ngoài luật lệ, đối vị nơi Thiên Đình trời vực khác xa. Nếu hưởng cái danh vị bây giờ thì mất phần hưởng về sau. Bản Thánh tưởng các hiền nên thực hành quyền hạn địa vị của mình đúng với Pháp Chánh Truyền. Tuy thiệt thòi ở thời loạn ly đen tối, song cũng tự hào mình là một ngôi sao ở giữa đêm dài. Hơi nào lấy chơn đo giả, bỏ thực cầu danh.
Còn về Huệ Lương, Hội Thánh muốn tiến phong người lên Ngọc Chánh Phối Sư, Thầy cũng thể lòng Hội Thánh và nhơn sanh. Nhưng mong đợi một ngày hồng ân mà Ngọc Chánh Phối Sư y hành theo Pháp Chánh Truyền, hầu làm gương cho khắp cả mọi nơi và làm tỏ quyền pháp Trung Hưng cho Hội Thánh và nhơn sanh nhờ. Nếu không gì trở ngại thì vào tiết Nguơn Tiêu năm Giáp Dần chư chức sắc các cấp, các ngành về Hội Thánh cử lễ bái mạng thọ phong và toàn đạo suy tôn chào mừng ngày Hội Thánh có đủ quyền đời trong cửa đạo.
Chánh Phối Sư là người thay Đầu Sư về quyền hành chánh trị đạo, tức là người cầm đầu Hội Thánh hành pháp. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài là Hội Thánh cấp hành pháp với cơ chế ba phái bốn cơ quan gọi là Tòa Nội Chánh do Đức Thượng Chánh Phối Sư Trần Hưng Đạo làm Tổng Lý Vô Vi.
Nay theo ý nguyện của các Thiên ân dâng sớ xin phong Chánh Phối Sư cho Phối Sư Chủ Trưởng Ngọc Quế Thanh, Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo đã thỉnh lịnh chuẩn phê và thay mặt Thầy cũng như Đức Giáo Tông ban lệnh bái mạng tiến phong cho Chủ Trưởng Hội Thánh vào vị trí Chánh Phối Sư để cầm quyền lảnh đạo toàn diện về mặt hữu hình.
Theo thánh ý thì lễ bái mạng vào ngày Nguyên Tiêu (rằm tháng Giêng), nhưng Hội Thánh đã tổ chức vào dịp lễ Vía Đức Chí Tôn (09-01 Giáp Dần, 31-01-1974). Đức Trần Tổng Lý giáng đàn ban ân mừng lễ: “Bản Thánh thừa lệnh Thầy và Tam Giáo đến ban quyền chủ hành pháp sự cho Ngọc Chánh Phối Sư và ban ân chung chức sắc cùng toàn thể đạo tâm nam nữ trong lãnh vực Hội Thánh.”
Một tuần trước đó, đàn ngày 02-01 Giáp Dần (24-01-1974) tại Trung Tông Thánh Tịnh, Đức Chí Tôn dạy:
Các con nghe đây! Cơ sở giáo pháp lấy Trung Tông làm nền móng cho sự giải thoát. Các con cần phối hợp nhau cải tổ cho một tổ chức điều hành, nhắm hướng xây dựng một nền tâm pháp tổng hợp mọi tân cựu vô vi. Lấy chữ trung làm trung tâm quyền pháp, phối đồng giữa công truyền và tâm truyền, người xuất gia, người tại gia tu học, giữa pháp môn Tam Giáo và Tam Thanh. Giữa Tịnh Đường, tịnh thất, nhà tu có một tổ chức ban điều hành lãnh đạo.
Các con cần coi họp lại, định một chế ước tạm thời cho các thành phần tu học tại gia, xuất gia, hoặc lập công và hộ trì, cũng như đường lối sinh hoạt. Cốt sao hòa thân nhau và giữ lấy thanh tịnh, giữ danh dự của Trung Tông, nhà tu, tịnh thất. Tịnh thất cho phép được sinh hoạt theo họ đạo, có tiểu ban dưới quyền Ban Tịnh Đường.
Mặc dù xã hội bấy giờ biến động quá dồn dập, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài vẫn nhất tâm với sứ mạng cho đúng thánh ý. Hội Thánh đặt kế hoạch kiện toàn dòng tu Bảo Thọ, mở khóa tu học mười ngày cho nữ tu, tổ chức đại hội kỷ niệm mười năm thành lập Hưng Đạo Đoàn. Phái đoàn Hội Thánh do Chủ Trưởng Ngọc Quế Thanh hướng dẫn đến thăm các khu khẩn hoang ở Suối Nghệ, Cam Ranh. Hội Thánh cho xây dựng trường học ở Trung Hiệp, thiết lập Trung Tâm Sinh Hoạt Thanh Niên Hưng Đạo Đoàn ở Mỹ Khê (Đà Nẵng), tiếp tục phát triển khẩn hoang lập ấp tại Láng Dài (nay thuộc huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), từ Bưng Kè (nay thuộc xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đến Dầu Giây (nay thuộc huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai).
Đàn cơ xuân Ất Mão (1975), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Về đường tu nơi đây, nên mượn nhiều phương tiện mà đưa người đến mục đích. Đừng chấp nhứt hẹp hòi. Mở rộng phạm vi dung chứa tất cả. Cũng đừng chấp mình là phải, người là sai. Trong cái phải bao giờ cũng có cái trái, trong cái sai có cái trúng, mà căn cơ cũng đủ hạng người. (…)
Kẻ tu cũng đừng thiên vô vi là trúng, mà hữu hình là sai. Con đường phước huệ, nếu kẻ tu phước để gieo duyên cùng sanh chúng, để tập mở rộng lòng vị tha, lập công bồi quả mà đoạn lần trái oan, đó là dọn sẵn con đường đại thừa cho kiếp lai sinh. Còn kẻ tu huệ, cũng không nên chấp mình là thấy rõ đạo mà cứ ngồi lỳ, ai chết sống vô can, mà phải giữ tâm vô sai biệt, để lòng bình đẳng, hầu nhận lấy quả vô sanh.
Các hiền nếu mong thành một sứ giả của Cao Đài, phải tỏ đạo sáng tâm, bao dung mọi tầng lớp, mọi tín ngưỡng, mọi dị đồng.
Ngày tái tạo hòa bình thánh đức, Thầy đã sắp sẵn các vai trò những sứ giả của Thầy ở khắp mọi nơi mọi chỗ. Họ đương hoạt động trong mọi tôn giáo, mọi dân tộc, mọi xứ mọi nơi. Chúng ta sẽ cùng với mọi sứ giả kia làm một. Còn về con đường bí pháp nơi đây, cần được đồng tâm nhứt trí. Dầu ngày kia có bề thế lớn lao cũng đừng vì đó mà kiêu. Cơ thử thách sẽ bất thần đưa đến. (…)
Còn Huyền Quan [Đàn] từ đây trở đi, hồng ân đã ban cho một phần thông công về tâm pháp. Nói chung, Thầy ban cho nơi nầy một cặp đồng loan là ban chung cho toàn đạo. Các hiền và đạo tâm cứ vững lòng tin nơi đó, thì mọi việc dù tư hay công cũng được an toàn. Các hiền thanh tịnh lo tu thì thân tâm ấy là thân của đạo. Đã là của đạo thì một sợi lông chẳng hề mất đi đâu mà phòng ngại. Dầu ai nói qua nói về, nhưng nên nhớ lời Thầy đã dạy: Mọi sự chi chi đều có bàn tay của Thầy trong đó.
Còn việc Bùi Hà Thanh có truyền đạo vượt ngoài khuôn khổ Chiếu Minh, các hiền cũng không nên lấy đó làm lạ. Chi chi cũng có Thầy mà ta lại có bổn phận tương quan. Kẻ gieo người lo bón tưới, cho giống sao được sum sê.
Còn những anh em đồng đạo, không phước nào lớn bằng sự quay về, không vui mừng nào hơn là tìm lại được món đồ đã mất.
Sau tháng 4-1975, mọi mặt công truyền phổ độ hầu như đều ngưng lại. Chính quyền quản lý các cơ sở văn hóa, xã hội của Hội Thánh. Không ít thánh sở đóng cửa, tín chúng xiêu lạc. Tuy vậy, tại Trung Tông Thánh Tịnh các tịnh sĩ vẫn ngày đêm ôn dưỡng, hành trì tâm pháp. Giáo Sư Ngọc Trường Thanh (Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế) thọ pháp với Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh (Chiếu Minh Giáo Tòa, Vĩnh Long).
Sau nghị quyết 297-CP ngày 17-11-1977 của Hội Đồng Chính Phủ về một số chính sách đối với tôn giáo, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài được tiếp tục duy trì nề nếp sinh hoạt thuần túy tôn giáo.
Do ảnh hưởng sự kiện ngày 20-9-1978 tại Tòa Thánh Tây Ninh, một số họ đạo ở các tỉnh bị giải thể Ban Cai Quản và Ban Trị Sự; chính quyền cho lập Ban Hành Giáo. Các việc quan hôn, tang tế ở các họ đạo còn được duy trì. Các nhà tịnh vẫn ổn định, tứ thời công phu tịnh luyện.
Trung Hưng Bửu Tòa hầu như thưa vắng cả nhân sự lẫn đạo sự. Ngược lại ở Tịnh Đường các tịnh viên tu tập khá đầy đủ. Ơn Trên đã ban ơn cho tập cặp phò loan Minh Cư và Minh Tuyến để rồi rất đắc dụng cho những kỳ đàn liên tục. Kể từ năm Ất Mão (1975) các thánh giáo dều dạy tu tịnh.
Tại Huyền Quan Đàn, ngày 13-3 Mậu Ngọ (19-4-1978), Đức Lý Thái Bạch dạy:
Con đường duy nhất, tâm tướng không hai, vô vi hữu hình là một, nên mới có thánh thất, tịnh thất để đưa toàn đạo từ tiệm giáo đến đốn giáo, từ phổ độ đến tuyển độ.
Tại Huyền Quan Đàn, ngày 01-6 Kỷ Mùi (24-7-1979), Đạo Đức Kim Tiên dạy:
Bước đạo nơi đây đương thời phục khởi. Bước tu của mấy em qua khỏi thời Thái, bước sang thời Đại Tráng. Với tư cách là huynh trưởng thay mặt Thầy đến đây có mấy lời chỉ dạy. Đã biết bước tu của mấy em đến thời Đại Tráng thì biết rằng còn bao lâu nữa đến hào cửu ngũ là “Long phi tại thiên”, đương hành sứ mạng.
Các em hôm nay đã vượt qua bao sự khảo thí, giũa mài, công phu tu đã chắc thực, điển linh đã ngưng tụ nơi thần thể của mỗi em, nên Thầy ban ơn cho đợt tu trăm ngày, để kiểm điểm, bổ khuyết những điều lệch lạc mấy năm, mà sửa xét dọn mình cho sớm hiện được được thân Bồ Tát. Bản Huynh có bổn phận trông coi, ghi chép công hạnh mỗi em, ghi vào Thiên thơ mà ban ơn liễu ngộ.
Các em đã biết đường sứ mạng nơi đây lớn lao hệ trọng là dường nào, nên nó đòi hỏi các em phải tu chứng đạo quả trường sanh, liễu ngộ chơn như tự tánh, thì mới đồng nhất cùng Thầy mà khai đường tận độ. Đó là sự đòi hỏi của cơ đạo và sự mong mỏi của Thầy.
Hôm nay Bản Huynh đến đây nhắc lại và ban ơn cho mấy em.
Gánh đạo trung hưng bước vững vàng
Đây là ơn phước của Trời ban
Lập chí công phu cầu liễu ngộ
Thành Tiên chứng quả vạn bình an.
Ngày 14-10 Canh Thân (21-11-1980) tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, Ngọc Chánh Phối Sư Huệ Lương (Trần Văn Quế), Chủ Trưởng Hội Thánh, quy thiên, hưởng thọ tám mươi tuổi.
Ngày 09-12 Tân Dậu (03-01-1982), đạo trưởng Thanh Long (Lương Vĩnh Thuật), Tổng Đại Diện Ngoại Giao Hội Thánh quy thiên, hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi.
Tại Minh Lý Thánh Hội (Tam Tông Miếu) ngày 07-6 Tân Dậu (08-7-1981), Chủ Trưởng Huệ Lương về cơ với quả vị Quảng Đức Chơn Tiên. Ngài Huệ Lương vừa là Chủ Trưởng Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài vừa là Tổng Lý Minh Đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, vừa là Vĩnh Tịnh Sư Minh Lý Thánh Hội. Do đó khi giáng cơ Quảng Đức Chơn Tiên nhắn nhủ cả ba nơi ấy:
Chư Thiên ân sắt son gìn giữ
Mối Đạo Trời tuần tự hóa hoằng
Trung Hưng, Minh Lý, Cơ Quan
Tuy ba mà một chu toàn đồng thân.
Sau ngày quy thiên một tháng, đạo trưởng Thanh Long về cơ tại Trung Hưng Bửu Tòa với quả vị Bảo Pháp Chơn Quân:
Quên sao được Tam Kỳ Đại Đạo
Hiệp Ngũ Chi, Tam Giáo một nhà
Kết tinh tổng hợp dung hòa
Thuần chơn vô ngã bao la đại đồng
Nhìn tâm vật sắc không chẳng khác
Mới là người thấu đạt cơ vi
Hơn thua phải trái mà chi
Công truyền, tâm pháp đồng thì phải tu
Lấy công quả đền bù nợ trước
Dụng công phu chế ước lòng tà
Để rồi tự giác giác tha
Song hành phước huệ mới là viên thông
(…)
Giờ ta thử truy nguyên nguồn cội
Năm Canh Thân mở hội Tam Kỳ
Cao Đài tâm pháp vô vi
Đức Ngô gặp đạo tu trì đầu tiên
Sang Bính Dần công truyền mở rộng
Danh Cao Đài chấn động gần xa
Pháp quyền sứ mạng ban ra
Hình thành thánh thể Thánh Tòa Tây Ninh
Tu tâm pháp nâng mình nên Thánh
Cảm hóa người vạn hạnh nơi thân
Công truyền cứu thế độ nhân
Hiện bày sắc tướng uy thần quyền năng
(…)
Pháp Trung Hưng đã đem về một
Dính chùm nhau như hột ác xoa
Dầu mà muốn gỡ không ra
Khác nào sữa nước tan hòa lẫn nhau.
Hai vị đạo trưởng lãnh đạo Hội Thánh đắc quả và về cơ dạy đạo đã củng cố đức tin bổn đạo Trung Tông. Mọi người phấn chấn tinh thần, dõng mãnh tâm tu theo đường hướng công truyền và tâm pháp kiêm tu, thế đạo và thiên đạo đồng hành. Mọi người tâm tâm niệm niệm lời Thầy dạy: “Pháp môn nầy các con đương tu, đương học và đương hành là một pháp môn để tất cả con và nhân loại trên trái đất nầy hiệp một cùng Thầy. Pháp môn về tâm pháp là pháp môn có một không hai.”
Không chỉ là hai vị đạo trưởng Huệ Lương và Thanh Long, mà còn nhiều trường hợp đắc quả khác đã làm chứng cho chánh pháp cứu độ Kỳ Ba. Chẳng hạn: Truyền Trạng Ngô Thanh Toàn đắc quả Thiên Bảo Chơn Quân và Giáo Hữu Bùi Đăng Đáng đắc quả Thiên Đức Chơn Quân (Đinh Mùi, 1967), Trần Minh Quang đắc quả Giác Chơn Đạo Nhơn (Giáp Dần, 1974), Nguyễn Minh Tài đắc quả Thiên Phước Chơn Quân (Bính Thìn, 1976), Ngô Minh Trĩ (thân phụ Ngô Thanh Toàn) đắc quả Phổ Minh Đạo Nhơn và Trần Thị Minh Liên đắc quả Từ Ý Tiên Cô (Canh Thân, 1980), Trần Thị Minh Tiềm đắc quả Từ Quan Tiên Cô (Tân Dậu, 1981).
Thêm các trường hợp khác như: Trần Minh Kiên (đắc quả Thiên Ý Chơn Quân), Nguyễn Phú Minh Huyến (Giác Bảo Chơn Quân), Văn Quy Minh Miên (Thiên Quan Chơn Quân), Đoàn Minh Chân (Chơn Giác Chơn Quân), Nguyễn Thượng Minh Khải tức Minh Phòng (Oai Đức Chơn Quân), Võ Hương Yến (Từ Bửu Tiên Nương)…
Tất cả tịnh viên thọ tu Tam Bảo Hoàn Châu đều có thánh danh với chữ Minh. Từ năm Tân Dậu (1981), những tịnh viên đắc quả vị và được về cơ như: Minh Mua (quả vị Pháp Bửu Chơn Quân), Minh Cửu (Pháp Bửu Đạo Nhơn), Minh Lễ (Lạc Đức Chơn Quân), Minh Mân (Chơn Đức Đạo Nhơn), Minh Đãi (Chơn Minh Đạo Nhơn), Minh Hội (Hội Đức Chơn Quân), Minh Trân (Pháp Hòa Chơn Quân), Minh Khánh (Chơn Ý Đạo Nhơn), Minh Đà (Lạc Không Đạo Nhơn), Minh Truyền (Huyền Quan Đạo Nhơn), Minh Vọng (Phổ Quang Chơn Nhơn), Minh Nghiễm (An Tánh Chơn Quân), Minh Anh (Ngọc Diệu Đạo Nhơn), Minh Cẩn (Hương Huyền Đạo Nhơn), Minh Tuế (Thanh Hương Đạo Nhơn), Minh Liên (Diệu Thành Đạo Sĩ), Minh Quang (Huyền Môn Chơn Nhơn), Minh Minh (Thanh Vân Đạo Sĩ), Hương Đơn (Từ Bích Tiên Nương), Minh Thừa (Phổ Diệu Chơn Nhơn), Minh Sau (Ân Quang Đạo Sĩ), Minh Lư (An Đức Đạo Nhơn), Minh Bổ (Ngọc Bảo Tiên Nương).
Hội Thánh lập một đàn cơ ngày 09-01 Giáp Tý (10-02-1984) tại Trung Hưng Bửu Tòa, có mặt: Liên Hoa (đồng tử), Giáo Sư Thái Phẩm Thanh (pháp đàn), Giáo Sư Thượng Hậu Thanh (hầu đàn), Truyền Trạng Nguyễn Thanh Giang (độc giả), Giáo Hữu Trần Cư (điển ký).
BẠCH HẠC ĐỒNG TỬ
Chào chư Thiên ân, chư đạo tâm. Chí thành chí kỉnh, thanh tịnh tiếp giá Chí Tôn.
NGỌC còn trong đá biết không con
HOÀNG lịnh trao cho khéo giữ tròn
THƯỢNG hạ thỉ chung tâm có một
ĐẾ trào mới thấy cảnh vàng son.
Thầy mừng các con.
Thiên Đình sứ mạng đã ban trao
Mấy ải trẻ qua được ải nào
Quyền pháp trung hưng con đã nhậm
Chơn truyền trung đạo được Thầy trao
Hình thành Hội Thánh vang danh tiếng
Hồng thệ Thiên ân khảo lộn nhào
Tranh chấp giữa nhau không kiến giải
Thuần chân vô ngã bỏ nơi nào
Con thuyền mất lái lững lờ trôi
Thầy đến thì con có lại rồi
Hội Thánh, nhơn sanh lòng có một
Công truyền, tâm pháp đũa thành đôi
Quyết tu chứng quả xương minh Đạo
Vì Đạo quên thân cứu độ đời
Phải trái không còn yên sóng gió
Hồng ân nối lại được mừng vui.
BÀI
Từ Mậu Dần [1938] đến năm Ất Vị [1955]
Đạo hưng hòa thánh ý nhơn tâm
Bồ đề phước địa sanh mầm
Xiển dương chánh pháp ân thâm quả lành
Xa gần một tấc thành chung thỉ
Dưới trên đều nhất trí tu hành
Không quyền, không vị, không danh
Không nhơn, không ngã, không tranh, không lùi
An hay nguy cũng vui với Đạo
Mất hay còn vẹn thảo trọn ngay
Tin Thầy lòng chẳng đổi thay
Quyết tu gian khổ đâu nài tấm thân
Việc Giáo Hội ân cần công quả
Được thánh ngôn quý giá hơn vàng
Xem kinh lòng đặng rỗng rang
Khi nghe thuyết giảng hân hoan cả người
Gặp nghịch cảnh quyền đời cáng đáng
Bị tù đày càng rạng thanh danh
Trung Châu cấm Đạo lưu hành
Chùa niêm thất bế giống lành cứ gieo
Đời đen tối càng khêu đuốc tuệ
Đạo cứu đời dám trễ được đâu
Khó khăn cũng phải đương đầu
Tiên phong mở lối bắc cầu tiến nhanh
Trên đã có đàn anh hướng đạo
Trên nữa Thầy chỉ giáo thực thi
Chung quanh đạo hữu hộ trì
Đoàn quân sứ mạng ra đi oai hùng
Đó thuở Đạo miền Trung lúc mới
Không mảy hào vụ lợi riêng tư
Đến khi chức sắc vào tù
Ở nhà đạo hữu tiến tu gấp mười
Lo tiếp tế những nơi lao ngục
Chung giúp nhau những lúc cơ hàn
Xa gần thắt mối tương quan
Bắt dây liên lạc hỏi han đạo tình
Từ Quảng Đà, Nghĩa Bình, Phú Khánh
Khắp các vùng hẻo lánh nhân gian
Ghé thăm thánh thất, Thiên Bàn
Trao tin kể chuyện vấn an thăm dò
Đọc thánh lịnh Thầy cho biết trước
Họa sắp qua ân phước gần kề
Ít lâu chức sắc trở về
Dọn lòng tu học nhất tề cầu xin
Khéo xây dựng đức tin mãnh liệt
Khéo giục lòng tha thiết đạo tâm
Khuyên nhau chờ đợi vài năm
Huy hoàng trở lại, tối tăm không còn
Thật như lòng nước non đổi mới
Đạo có cơ thắng lợi lại về
Vui mừng khôn tả cho xuê
Bửu Tòa xây dựng bốn bề hân hoan
Trùng tu lại huy hoàng tất cả
Góp đều tay công quả chóng nên
Thánh đường, thánh thất, thánh đền
Phú, Bình, Nam, Nghĩa tiến lên rập ràng
Đó là lúc giàu sang của Đạo
Cơ trung hưng Truyền Giáo đại hành
Pháp quyền vị thứ định rành
Bảo dân giáo tứ tịnh hành Thiên nhơn.
Quả hy hữu đại ơn ít có
Lúc Đạo Trời sáng tỏ biết bao
Tinh thần sống đạo dồi dào
Cớ chi nên nỗi tiêu hao mỏi mòn
Thầy muốn hỏi các con nghĩ thử
Oan gia nào sinh sự, sự sinh
Bỗng nhiên sóng gió bất bình
Các con tự hỏi lấy mình thì ra
Đáng sợ nhất quần ma hùa trợ
La rùm beng đổ vỡ đại đồng
Hóa nên lưỡng diện thành công
Nhơn sanh, chánh pháp bị vòng đau thương
Ai cũng tự có phương diệu dược
Thuốc tuy hay không được thầy hay
Hóa nên căn bệnh kéo dài
Phối, phương dùng tễ hôm nay có Thầy
Không ai giỏi, ai hay, ai trúng
Chỉ nhất tâm tận dụng pháp quyền
Trí tài hợp với cơ Thiên
Thuần chơn vô ngã hoàn nguyên Đạo Trời
Đời biết bao hạng người tài trí
Còn chiếm trên thế vị hùng cường
Tung hoành định bá đồ vương
Có thừa sức mạnh phô trương thị quyền
Tài sức làm cho yên hay loạn
Trí mưu thêm ra bạn hay thù
Trí tài kết quả đến đâu
Hay làm nghiêng đổ trộn bao cuộc đời
Ai cũng biết chín người mười ý
Được mấy người chịu nghĩ mình sai
Ỷ còn nô lệ mắt tai
Mắt tai nô lệ bên ngoài vô minh
Chỉ có Thầy trọn lành độc nhất
Siêu thoát ngoài pháp luật mà thôi
Muốn cho sứ mạng phục hồi
Chuẩn thằng quy củ nhớ lời đừng xê
Hội Thánh mới đề huề mạnh mẽ
Mà nhơn sanh vui vẻ hành trì
Lo gì không hiện quyền uy
Bên ngoài mới phải nể vì kính tôn
Đó mới gọi tài khôn trí sáng
Thì có đâu dục loạn tranh quyền
Chung nhau một khối tâm điền
Mới rằng hiệp nhứt quy nguyên đại đồng
Tin nghe Thầy thì không mất quả
Bỏ ý Thầy thì đọa trầm luân
Khuyên nhau tâm chánh ý thuần
Rẽ chia chước quỷ hợp quần phép Tiên
Vì sứ mạng tư riêng đừng chấp
Vì tiền đồ tìm gốc hướng chung
Trung Hưng giữ lấy điểm trung
Chỗ hành pháp luật, chỗ dùng thiện nhơn
Khi thông công tiếp ơn giáo hóa
Còn nghĩ suy chơn giả đem so
Lưỡng đài lấy luật mà đo
Không sai quyền pháp sẽ cho ban hành
Đủ ba đài mới thành quyền pháp
Thiếu ba đài mời họp vạn linh
Vạn linh y pháp luật hình
Nghị xong ủy nhiệm chương trinh năm năm
Bất thường gấp chuẩn xăm quyết định
Quyền lưỡng đài trù tính luận ưng
Ban hành các cấp y tuân
Điều nào trở ngại trình dưng thỉnh cầu
TỨ BỬU PHÁP nhiệm mầu phép lạ
Tối uy linh bất khả tư nghì
Chú phù ấn quyết tuân y
Lệnh truyền Thần Tướng mau đi chớ chầy
Nhập môn rồi con Thầy, Thầy độ
Tẩy uế oan nghiệp khổ tận trừ
Khai đàn mở lối Ngọc Hư
Trấn thần định tỉnh tâm tư tịch tà
An vị rồi có Cha làm chủ
Thoát tôi đòi khỏi lũ quỷ ma
Giải oan rửa sạch oan gia
Hồng ân đại xá Kỳ Ba của Thầy
Từ vô thỉ đến nay tạo ác
Thầy lãnh thay giải thoát cho con
Sinh sinh vay trả vẫn còn
Đem con tắm thánh là con đạo dòng
Phép trị bệnh trừ xong chướng nghiệp
Sớm mạnh lành cho kịp đời tu
Quyền năng sẵn có ấn phù
Thiên ân đạo hữu hộ cầu Chí Tôn
Chẩn tế bạt cô hồn thoát hóa
Khuyên âm nhân cải quá hồi đầu
Rồi ban cho một phép mầu
Nghe kinh nương điển làm cầu tiến lên
Tiếp quy kêu đích tên người chết
Mà dặn dò chớ lệch đường mê
Hôm nay đạo hữu trở về
Bỏ buông ân oán đừng hề bận tâm
Thừa mệnh lệnh Thiên ân quyền pháp
Nương quyền năng trấn áp ma tà
Đạo cao đức trọng ở ta
Thần khâm quỷ phục đúng là Thiên ân
Lo tịnh luyện cho Thần nhập pháp
Lo hoàn châu kịp đáp nhu cầu
Trấn phương giới hạnh làm đầu
Độ sanh độ tử phải đâu dung thường
Việc Hội Thánh chủ trương ủy thác
Lo chu toàn công tác công phu
Nhắc khuyên hướng dẫn người tu
Cấm ngăn tranh luận nghịch thù câu mâu
Nhắc đạo hữu tu châu, trì giới
Để đón ơn Thiên khải nhiệm mầu
Đại thừa Tam Bảo Hoàn Châu
Hạ trung Tâm, Tướng, Linh Châu nương Thầy
Có được vậy sống đầy ân điển
Còn làm cho linh hiển Đạo Trời
Đoạn dây sinh tử luân hồi
Mới là sứ mạng ra đời quy nguyên
Không tu chứng pháp quyền giác ngộ
Thì mong gì cứu độ được ai
Lăng xăng xuôi ngược bên ngoài
Cậy phần vật chất an bài Đạo Cha
Sao không chịu thấy xa nghĩ rộng
Tu cho thành Phật sống cao Tiên
Ngoài trong có đủ Thánh Hiền
Vạn dân thế giới đương nhiên kính thờ
Đó không phải chuyện mơ lý tưởng
Mà quyền năng tối thượng của Thầy
Đại đồng bốn biển sau nầy
Thượng nguơn thánh đức ơn Thầy lần ba
Trước chưa thông sau đà thấu đáo
Thầy không giao chánh giáo tay phàm
Xa Thầy chia Bắc rẽ Nam
Có Thầy mọi việc mới làm trọn nên
Có mà chẳng chịu tin cũng vậy
Trái ý mình phải mấy cũng nghi
Thiên đài tòa ngự mất đi
Chỗ nào Thầy đến chủ trì nay mai
Thôi câu chuyện còn dài sẽ biết
Có thương nhau mới thiệt thương Thầy
Thật lòng hòa hiệp về đây
Chiết trung lý tưởng được vầy mới thông
Còn những việc ban phong tạm đợi
Để chờ cơ thuận lợi trong ngoài
Nhớ câu hiệp nhứt dung hòa
Thỏa vui mới gọi thánh tòa Thiên nhơn
Con phải sợ cạn ơn thiếu phước
Mà pháp quyền không được chở che
Gia đình Hội Thánh mấy phe
Biết theo ai phải, biết nghe ai nhằm
Đường đạo bị tối tăm che án
Nay trời đà gần sáng rồi con
Rẽ riêng chắc cũng không còn
Có Thầy chủ tọa các con yên lòng
Thương những đứa đôi tròng mắt lệch
Không thấy đường lính quýnh lạc xa
Lỡ rồi qua được cho qua
Từ đây sắp tới thuận hòa nghe con.
Huyền Quan Đàn, ngày 07-02 Giáp Tý (09-3-1984), Thầy dạy:
CAO đức ân lành bủa khắp nơi
ĐÀI linh ứng hóa độ trần vơi
THƯỢNG căn tỉnh ngộ lo tu đức
ĐẾ mạng hồng ân trẻ phải thời.
THẦY CÁC CON
Thầy mừng chung các con nam nữ. Các con dâng bồ đào mừng Thầy và chư Tiên Phật giáng trần ban ơn xuân quyền pháp phục sinh chánh giáo.
Trong tiết Nguyên Tiêu, ngày đại đán, Thầy cảm lòng thành của các con nên giáng trần ban ơn phục sinh sứ mạng. Các con dâng lòng thành kính chầu đón xuân quang hiệp với thiên vận mà bảo Thái trì Thái,([14]) thừa hành pháp đạo xiển minh chánh pháp. Vậy các con nghe Thầy điểm hóa.
BÀI
Xuân Giáp Tý xuân đầy thanh phước
Xuân hồng ân thánh đức ngập tràn
Vui xuân con trẻ hướng nhàn
Trọn tâm giải thoát bước sang cảnh Bồng
Xuân nay trẻ ân hồng tắm mát
Nhuận thánh tâm chí đạt đạo mầu
Luyện thành ba báu minh châu
Thanh cao thú lịch một bầu càn khôn
Xuân đạo pháp phách hồn tươi tỉnh
Xuân đạo tâm chí kỉnh chí thành
Phước lành quả báu trường sanh
Đàn trung vui đẹp rạng danh độ người
Con hớn hở tươi cười với đạo
Đạo đến ngày chánh giáo xiển minh
Các con trên dưới thuận tình
Lập công lập đức vẹn gìn ngôi linh
Mừng con trẻ trọn gìn tu kỷ
Xuân thanh nhàn hoan hỷ đầy vơi
Xuân thiên thú lịch ơn Trời
Trời cao ban bố nơi nơi phước lành
Xuân Giáp Tý Thầy dành đức tốt
Ban cho con trọn một chữ thành
Xuân đầy hạo khí trường sanh
Các con chung gội ơn lành Thầy ban.
Các con! Trước hoàn cảnh khó khăn nhiều con như ngọn đèn trước gió, vì vậy Thầy mới gia thêm chư Thần hộ mạng các con để các con được trọn lòng tin tưởng tinh tấn tu hành. Vậy các con xoè hai bàn tay đưa ra hứng lấy thần lực của Thầy tiếp cấp các con.
Các con từ đây lo luyện tu cho đúng đắn, giới hạnh phải nghiêm minh để đón cơ thành đạo.
Thầy ban bồ đào linh điển, bố phước cho mỗi con. Thầy phản giá.
----------------------------------------------------------
([1]) minh lãng: Trong sáng.
([2]) Cung Nê: Nê Hoàn (Huờn) Cung.
([3]) Thiếu hai câu.
([4]) lảng: Lẩn tránh.
([5]) Câu nói của Khổng Minh (Chư Cát Lượng): Mưu sự tại nhơn, thành sự tại Thiên. Nhơn nguyện như thử như thử, Thiên lý vị nhiên vị nhiên. (Mưu việc tại người, thành tựu tại Trời. Người muốn như vậy như vậy, lẽ Trời chưa vậy chưa vậy.)
([6]) xú bì nang: Túi da thối, ám chỉ thân xác con người.
([7]) đương: Đảm đương, gánh vác, lo liệu.
([8]) vạn đợi: Vạn đại, muôn đời, đời đời, mãi mãi.
([9]) bốn nguyên tắc chính: Bốn dụng cụ đo đạc gồm có quy là com-pa, để vẽ vòng tròn, đo khoảng cách trên bản đồ...; củ là ê-ke, cây thước vuông; chuẩn là thước thăng bằng để kiểm tra mặt phẳng nằm ngang; thằng (tức thằng mặc) là dây thợ mộc dùng để lấy mực thẳng.
([10]) Tá Cơ Quân Huệ Minh Đức và Tiếp Cơ Quân Liên Hoa.
([11]) xu cơ: Phần trọng yếu, then chốt.
([12]) Nguyễn Minh Quảng (quả vị Ngọc Hư Chơn Tiên) đã dắt dìu quý Thiên ân Hội Thánh Truyền Giáo thọ pháp tu ở đàn Chợ Lớn năm Tân Sửu (1961).
([13]) Sau tháng 4-1975 Thành Đạo Cam Ranh bị giải thể, thánh sở nầy chuyển thánh thánh thất Trung Chính.
([14]) bảo Thái trì Thái: Tháng Giêng ứng với quẻ Địa Thiên Thái.
PHẠM VĂN LIÊM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét