(Sự Nghiệp Trung Hưng / Phạm Văn Liêm)
Đàn tại thánh tịnh Thanh Quang ngày 22-02 Đinh Sửu (03-4-1937), Đức Chí Tôn dạy:
Trước lo tròn bớ con nam nữ
Nghe Thầy chia phận sự mỗi con
Mỗi con lo liệu cho tròn
Quả công vì Đạo, sử còn tạc ghi.
Đàn tại thánh tịnh Thanh Quang ngày 25-01 Mậu Dần (24-02-1938), Đức Nhị Trấn Oai Nghiêm Quan Âm Bồ Tát dạy:
Biển khổ sóng khua lã chã reo
Từ đây Nam Hải đã gay chèo
Buồm trương thẳng bến bờ đông độ
Bớ các hiền ân chóng bước theo!
Tín nữ ôi! Những lời kim thạch ta đây, khá nhớ chạm lòng, rồi mới mong ngày tới đây Ta sẽ độ rỗi cho.
Đàn tại thánh tịnh Thanh Quang ngày 25-02 Mậu Dần (26-3-1938), Đức Mẹ Diêu Trì dạy:
Giờ nầy về sau, Mẹ khuyên nữ phái các con, chị em chung tâm hiệp trí để độ dẫn cho nhau, kết nên đoàn thể hầu ra độ dẫn chúng sanh. Lo lập công cho kịp kỳ Long Vân Đệ Bát đó con.
Bớ trẻ mau chơn chớ thõng thừa
Ngày giờ thấm thoát tợ thoi đưa
Buổi mai chưa ngót chiều xoay đến
Gần hội Long Hoa trẻ rõ chưa?
Đàn tại thánh tịnh Thanh Quang ngày 23-9 Mậu Dần (14-11-1938), Đức Trưng Trắc Thánh Nương dạy:
Non sông khí tượng đúc anh tài
Phong hóa suy đồi hỏi tại ai?
Gái chẳng xử xong rồi phận gái
Trai còn không đáng mặt làm trai
Râu mày lem luốc anh hùng lợt
Son phấn bồi tô nữ liệt phai
Hồng Lạc hỡi ai, ai đó nhỉ?
Miếu đường ai chống vững lâu dài?
TRƯNG TRẮC THÁNH NƯƠNG
Thánh chào chư Thiên mạng, chư tín nữ.
Chư tín nữ ôi! Trào lưu tân tiến, bồng bột nổi sôi. Ôi, nhơn sanh ơi! Phụ nữ rất tệ rất hư. Luồng gió văn minh càng độc ác dữ kia, từ Âu Mỹ, từ Tây phương thổi đổ phong trào Đông phương đạo đức. Đời ở vào thế kỷ 20, nhơn loại vì miếng đỉnh chung cấu xé giựt giành mà phải đến nỗi chém giết lẫn nhau, chẳng chút lòng ghê gớm.
THI
Nhơn loại than ôi, khó nỗi than
Văn minh phong hóa sắp điêu tàn
Tàn linh phải chịu cơn lao lý
Lụy đổ dầm dề khó nỗi than.
Thánh rất đau lòng, rất thống khổ cho phận nữ lưu. Kể lại hai thời kỳ, như thời kỳ thế kỷ 18 sắp sau, Đông phương đạo đức học, thì phận gái ở vào một khuôn khổ là tùng phụ, tùng phu, tùng tử. Ôi, tùng cho đến nỗi mãn thân nô lệ mà tùng chưa hết tùng! Cho đến chết mất, luân hồi cũng chuyển thân vì nghiệp cũ. Vì thế mà văn minh cải cách nhơn loại duy tân, bày ra giải phóng bình quyền. Cho đến nỗi trai bỏ vợ, gái bỏ chồng, ngổn ngang dồn dập, má phấn môi son, lũ bảy đàn năm. Đời như thế có ai gọi rằng văn minh đó nhỉ? Ôi, tệ thay! Tệ thay!
Ôi, gái ôi! Con Lạc cháu Hồng, móng nhà non sông đúc nắn, đời mãi kiếp làm thân phụ nữ, khôn ngoan mấy cũng đàn bà. Đời có vui thú chi, có quý trọng chi mà toan lớn tiếng cao lời, mong để kẻ bẩm chào, người kính trọng. Ôi! Ba ông táo chưa ra ngoài khỏi, có ra gì mà giải phóng bình quyền. Rất tệ hại cho hai chữ nữ quyền. Ít nữa một hạng người thượng lưu trí thức chưa chắc hiểu được, thế mà nhơn sanh thường dụng, mở miệng bình quyền. Ôi!
THI
Xem gái nhà Nam khó nín cười
Đầu người hình thú có chi vui
Than ôi! Nước đổ nhà xiêu thế
Thế cũng vì hư lại trách Trời.
Tội nghiệp cho đến một hạng người hang sâu cùng ngõ, chân lấm tay bùn, thế mà hở môi cũng muốn bình quyền. Mà hỏi lại hai chữ bình quyền thì chỉ biết mắng chủ chửi chồng, ai cũng có một quyền đặc biệt. Ôi, đời như thế! Nước non như thế!
Phận gái là phận tề gia. Nếu gia bất tề thì làm sao mà đại đồng xã hội, hỡi ai? Thế thì phải cậy một tôn giáo để cứu rỗi cho người biết lẽ phải, không thì họa may đời mới sót lại một đôi người đạo đức. Vì cớ mà Việt Nam ta nhờ chư Thánh Thần Việt Nam cầu khẩn mà đặng một nền chơn đạo quảng truyền thì một dịp ngàn năm có một. Lẽ đâu nữ phái đành làm ngơ đó ư?
THI
Cơ hội trăm năm đặng một lần
Quyết mà tìm đến ở nguyên nhân
Nhà Nam phong hóa tô bồi lại
Cậy phái nữ lưu sớm bước lần.
Giờ nầy Thánh rất mừng vì đắc lịnh lập Nữ Phái Liên Đoàn.
Than ôi! Vì nghĩa vụ mà Thánh xin mượn tay đồng tử để trực tiếp với các nữ lưu. Sau nầy nữ phái lo tổ chức cơ quan, Thánh sẽ nguyện lãnh lấy một phận sự. Vậy chư tín nữ bằng lòng chăng? Nếu bằng lòng sẽ chia cho Thánh một phận sự nghe. Thôi, vì gấp quá, lịnh sắc Mẫu Hoàng, Thánh phải lui. Khá thành tâm khử trược chỉnh tề tiếp giá nghe.
Thánh chào các vị. Thánh lui.
TIẾP ĐIỂN
DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC TỪ TÔN
Mẹ mừng các con. Các con nữ phái ôi!
THI
Trăm chiều ruột đứt chẳng đành than
Than nỗi con ôi, Nữ Phái Đoàn
Đoàn Nữ nếu mà không sớm lập
Sau này chẳng khỏi hiệp rồi tan.
Các con an tọa.
Các con nữ phái ôi! Mười mấy năm nay rồi, Mẹ quyết lập nền chơn đạo, sẽ tầm hết phương mà độ rỗi các con, nâng cao trình độ nữ lưu đặng như các Thánh Thần, Tiên Phật.
Ôi, con ôi! Thế mà đã mấy phen, nào là Nữ Chung Hòa Phái, Nữ Đạo Hòa Minh, cho đến Nữ Phái Liên Đoàn. Thế mà mẹ coi lại tuổi tên thì nhiều chớ kỳ trung người đâu chưa thấy. Các con ôi! Nếu cứ bỏ qua lơ lửng, việc khó không làm thì bao giờ mà nên được hả các con? Hai chữ Liên Đoàn ngày hôm nay là chỉ để nói suông ngoài miệng, cho biết là nữ phái có Liên Đoàn, rồi phải liên đoàn đến quốc gia, xã hội mình mới lớn lao chớ!
Con ôi! Nói qua phải lo làm. Làm phải chịu cực khổ. Đây rồi một phận sự của mình đối với đời. Một phận sự mình rồi thì ngước lên chẳng hổ với Thánh Thần, cúi xuống không thẹn cùng cỏ cây, cầm thú đó con.
Giờ một điều quan hệ là nữ phái thất học, phải chịu quê mùa, rồi ra lý tưởng chẳng đủ đầy. Người phải nghe đâu tin đó, nào dị đoan, nào là mê tín. Thứ nhất là lũ tà quái hay gạt gẫm nữ lưu. Các con vì những cớ đó mà trình độ nữ phái ngày nay càng thấp hèn, càng bữa càng hư tệ. Mẹ rất đau đớn bèn lập Nữ Phái Liên Đoàn là để dạy dỗ các con có hai điều mà thôi:
Một là chị em biết thương yêu nhau. Hai là chống lại cái nạn thất học cho nữ lưu đặng bước lên con đường tối tân đạo đức đó con. Thế mà, một hai năm nay, ra lệnh nhiều lần song mà việc hành vi chưa có chi kết quả. Nay đây một lần nữa Mẹ quyết định lập cho rồi. Các con nên tận tâm với Mẹ, nghe các con!
THI
Đã lắm phen rồi đó bớ con!
Dạy ra phận sự trẻ chưa tròn
Làm sao nữ phái chưa thành lập
Con hỡi hay chăng đó hỡi con?
Giờ các con phải thực hành như thế nầy: Nơi Thanh Quang cũng còn mượn để lo tổ chức cơ quan. Còn trong Nữ Phái Liên Đoàn có chia ra làm nhiều chi nhánh. Cần nhất là tín đồ nơi nào phải rõ ràng tên họ thuộc vào thánh thất ấy. Mỗi thánh thất có một chi nhánh Nữ Phái Liên Đoàn, trong đó có hai người quan hệ: Một là Hội Trưởng, hai là Thư Ký. Còn ngoài ra liệu lấy mà đặt, như Thủ Bổn, v.v...
Mỗi nơi đều có một cơ quan thực hành lo phần tài chánh. Tài chánh thì nơi nào để nơi ấy giữ. Và tùy phương tiện mà làm ra, công, nông, thương tự ý. Nơi cơ quan Tổng Hội thì không cần những điều ấy, song mà cũng phải đặt một Ban Hành Sự cho đủ. Nếu như khi nào có sắm điều gì, thì phải yêu cầu nơi các chi phái rõ ràng rành rẽ xuất phát ra mà cứu cánh.
Còn lại cơ quan Tổng Hội một tháng hội một lần. Một lần đó chỉ quan hệ với mỗi chi phái. Phải có hai người về họp, hai người ấy là Hội Trưởng và Thư Ký. Tùy tiện có khi trở sự phải có người thay mặt.
Còn các chi nhánh, mỗi tháng nhóm bốn lần để lo bàn bạc việc hành sự của chi nhánh mình.
Nơi cơ quan có một tòa soạn nghĩa là cho có chỗ để kinh sách, thư từ nơi đến, để có người chưởng quản. Giờ chưa có ai để cậy nam phái. Trác thay mặt dùng tòa soạn đó ở Trung Thành vì phương tiện hành sự.
Nơi tòa soạn mỗi tháng phải lập ra bốn vấn đề gì cần hỏi, cần làm.
BÀI
Cung Diêu Mẹ đau lòng lắm trẻ
Ghé lại đàn chỉ vẽ cho con
Con ôi, lòng sắt dạ son
Quyết lo nữ phái cho tròn phận tu
Đời các con ví dù danh vọng
Cũng chưa ai khỏi hỏng hờ đâu
Con ôi, muôn kiếp dãi dầu
Mảnh thân lịu địu khó hầu mang đi
Hỡi nầy con thời kỳ sắp đặt
Đặt Liên Đoàn dìu dắt chị em
Chi chi trên chống dưới kèm
Chị lo phần chị thì em sẽ rồi
Ôi, con ôi, đành ngồi vậy ngó
Ngó cho đành con có rõ chưa
Hềm vì phận gái thớt thưa
Liễu bồ dãi gió dầm mưa chưa tường
Đời khổ nỗi vui mừng chi trẻ
Trẻ con này, Mẹ kẽ cặn rồi
Chẳng nghe thì chớ, đành thôi
Chẳng nghe, con chớ trách Trời, nghe con!
Thôi, Mẹ ban ơn các con. Mẹ thăng.
Hội Thánh không thể chậm trễ thành lập Nữ Đoàn. Giáo Sư Nguyễn Quang Châu lo sắp xếp nhân sự cho Liên Đoàn Trung Ương; ngày 09-9 Mậu Dần (31-10-1938) dâng lên Ơn Trên danh sách gồm có:
Chánh Hội Trưởng: Lê Chơn Giác (cụ bà Lê Trí Hiển)
Phó Hội Trưởng: Lê Thị Tịnh (Xã Nho)
Chánh Thư Ký: Trương Thị Ngọc Dung (Cửu Đô)
Thủ Bổn: Phan Thị Chuyển (Chánh Diệm, cụ bà thân mẫu Giáo Sư Nguyễn Quang Châu)
Nghị Viên: Nguyễn Thị Hiến (bà Trần Công Ban)
Liên Giao: Trần Thị Tuyết
Phụ Tá Phó Hội Trưởng: Nguyễn Diêu Trinh (Thanh Sang từ Minh Chơn Đạo), Võ Thị Yến
Cuối năm, các chi đoàn ở tám thánh thất được thành lập và cắt đặt người trách nhiệm trị sự:
1. Thánh tịnh Thanh Quang: Phan Thị Chuyển
2. Thánh thất Nam Trung Hòa: Lê Chơn Giác, bà Cửu Diễn
3. Thánh thất Từ Quang: Lê Thị Tịnh
4. Thánh thất Linh Bửu: Bà Phó Huỳnh, bà Chánh Tiềm
5. Thánh thất Trung Quang: Bà Xã Ngại, bà Xã Hoài
6. Thánh thất Trung An: Võ Phi Yến, Trần Doãn Cơ, Trần Chơn Bảo, Trần Thục Cơ, Phan Thị Hòe, Võ Thị Tuế
7. Thánh thất Trung Hòa: Bà Cử Quỳnh, Nguyễn Chơn Hóa
8. Thánh thất Trung Thành: Thanh Sang
Đàn tại thánh thất Trung Thành, ngày 14-10 Mậu Dần (05-12-1938), Đức Vân Hương Thánh Mẫu dạy:
Bần Nữ thọ mạng Diêu Cung đến đây tỏ đôi hàng cùng chư tín nữ. Tín nữ à! Liên Đoàn Nữ Phái, Bần Nữ rất mừng vì cũng đã thành lập. Vậy từ đây chư tín nữ khá tiến hành cho kịp lời Ơn Trên đã dạy như mấy đàn trước. Chư tín nữ ráng tận tâm tận lực sẽ có Trưng Trắc Thánh Nương giúp tay cùng chư tín nữ.
Cùng đàn cơ này Đức Trưng Trắc Thánh Nương dạy:
Giờ này Ta đến đây để tỏ qua vài câu chuyện. Chư hiền nữ ôi! Ta đã dạy rồi mà chư tín nữ có người nào bằng lòng cho ta chung sức lập Liên Đoàn Nữ Phái chăng? Cười… Sao?
Phận gái linh đinh giếng nước bèo
Lớn ròng muôn kiếp vẫn đeo theo
Thảm thương, bánh méo vì khuôn méo
Chẳng đặng con lân bởi mẹ mèo.
Phần đông phái nữ sống ở miền quê, ít học hành. Từ khi tiếp xúc thánh ngôn, thánh giáo, họ dấy lên phong trào tu học, để cùng chung bước với phái nam trên sứ mạng độ đời.
Đàn tại thánh tịnh Thanh Quang ngày 03-01 Kỷ Mão (21-02-1939), Đức Trưng Trắc Thánh Nương dạy:
THI
Trăm hoa đua nở, cảnh trời xuân
Nghìn tía khoe tươi rộn rã mừng
Mừng gặp Tam Kỳ cơn mạt kiếp
Mừng nay Nam Việt hết gian truân
Mừng câu bác ái tràn ba cõi
Mừng tiếng Cao Đài khắp bốn phương
Hỡi kẻ độ đời mau bước chóng
Có về nhắn hỏi khách Đông Quân
Hỡi khách Đông Quân thấu nỗi lòng
Liên Đoàn liên mãi, mãi chưa xong
Ngày nào Nam Bắc Trung hòa hiệp
Hai chữ Liên Đoàn khỏi tiếng suông.
Chào chư hiền nữ. Văng vẳng bên tai cái tên Liên Đoàn Nữ Phái đã lan chảy Trung Kỳ.
Hỡi chư hành sự Liên Đoàn Nữ Phái ơi! May mắn chư hiền nữ gặp Đức Cao Đài lập nền chơn đạo nơi nước Việt nầy. Hôm nay chư hiền nữ đã bước một bước khá cao trên nấc thang tôn giáo.
Nói đến hai chữ Liên Đoàn ta rất ngậm ngùi đau xót trên hai năm trường có lẻ, mà hôm nay cái danh với cái thực chẳng chung đường, rồi làm sao đây?
Cơ quan Tổng Hội cũng vẫn thiếu nhân tài, biết ngày nào chư tín nữ thực hành theo bản ý Đức Mẫu Hoàng giữa cõi đời trường học tiến hóa này, dù gái hay trai cũng phải đương nhân bất nhượng.
THI
Hồ thỉ kiếm cung gái há không
Ai kia nợ nước lại ơn chồng
Chị em đua mãi tuồng son phấn
Quần vận yếm mang nhục nhã chung.
BÀI
Thân cá chậu khó bề lặn lội
Phận chim lồng khó nỗi nghinh ngang
Lỡ bề sinh phận hồng nhan
Cam bề dưới trướng trong màn tối tăm
Xét suy kỹ tủi thầm cho phận
Gẫm nhân tình mà giận cho duyên
Sinh chi cái phận thiền quyên
Trọn đời nô lệ dưới quyền nam nhân
Nghĩ mà tủi cho thân nhi nữ
Nghĩ mà đau kìa chữ tam tùng
Vì đâu phụ nữ chịu chung
Hết tùng cha mẹ lại tùng chồng con
Suốt đời phải cúi lòn xó tối
Việc sơn hà thây thối mặc ai
Biết đâu gái cũng như trai
Cũng con Thượng Đế, hai vai cũng đồng
Cũng gánh nổi non sông Tổ Quốc
Cũng cứu cơn dân tộc trầm luân
Kiên trinh đáng mặt tề quân
Công dung ngôn hạnh đáng trang nữ hiền
Đặng như thế nữ quyền khỏi tệ
Thoát ngoài vòng hạn chế nam nhân
Như vầy ai dám khinh lờn
Không còn phải xướng bình quyền đầu môi
Cuộc dâu bể đổi dời non nước
Sóng văn minh đảo ngược tinh thần
Tân thời, tân tiến, tân văn
Bình quyền bình đẳng lăng xăng nhộn nhàng
Trong gia đạo dọc ngang lấn lướt
Hà hiếp chồng trái ngược luân thường
Dạy con chẳng giữ giá gương
Gia đình xáo trộn chẳng nhường chẳng kiêng
Cũng vì bởi bình quyền mà hỏng
Cũng vì nơi giải phóng mà hư
Hai mươi lăm triệu có dư
Dung hình tiều tụy phong tư tiêu mòn
Người thế ấy nước non buồn bã
Chừ ai ra luyện đá vá trời
Nước non cây cỏ ngậm ngùi
Cũng vì chia rẽ phanh phui tinh thần
Lời cặn kẽ phân trần hơn thiệt
Khuyên nữ lưu hãy biết lấy mình
Trời chiều bóng đã xế chinh
Ai người nữ sĩ hy sinh độ đời
Biết bao kẻ chơi vơi bể ái
Cậy Liên Đoàn Nữ Phái ra công
Lo toan chủ nghĩa đại đồng
Giàu sang nghèo khó cũng đồng mới nên
Vậy mới đáng nêu tên thanh sử
Vậy mới rằng danh dự quần thoa
Nước non vẫn nước non nhà
Liên Đoàn Nữ Phái mau ra với cùng
Cả tiếng kêu nầy Trung nầy Bắc
Nầy là Nam dìu dắt lẫn nhau
Dưới trên hòa thuận một màu
Hy sinh cương quyết cùng nhau độ đời.
Chào chư hiền nữ, Ta lui.
Thơ tiên ý thánh đã vang dội vào tâm hồn phái nữ, giục lòng ngoan đạo. Họ cùng nhau sắp mình vào khuôn khổ giới luật của đoàn thể, phát huy tinh thần chung tu, chung học của nữ phái nhà đạo. Danh xưng Liên Đoàn Nữ Phái đổi thành Tân Nữ Lưu Đạo Đức Đoàn.
Cuối năm Kỷ Mão (1939), Ơn Trên cho mở một khóa học gọi là khóa Chơn Giác. Nề nếp sinh hoạt tu học vững mạnh nhưng chưa phát huy được ở các địa phương.
Đàn tại thánh thất Trung Thành ngày 20-11 Kỷ Mão (30-12-1939), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
THI
Tiếng khóc đêm đông thấu giật mình
Họa tràn thế giới gẫm mà kinh
Đạo đời hai nẻo chia đôi ngả
Nhân loại hay chăng nỗi bất bình?
BÀI
Tay Tạo Hóa dày công un đúc
Cõi dinh hoàn ra cuộc trò chơi
Nấu nung chi cái loài người
Cho thêm chọc nước khuấy trời lăng xăng
Có thân phải lo ăn lo mặc
Vì thân mà sanh ghét sanh thương
Có thân thân phải đoạn trường
Vì thân cam chịu trăm đường lao lung
Nhưng thân đã đứng trong vũ trụ
Nợ non sông chừ phú cho ai
Oằn oằn nặng trịu đôi vai
Trả xong cái nợ râu mày cho xong
Đời phải lúc Tây Đông quyết liệt
Đời phải cơn chém giết lẫn nhau
Nước non thay dạng đổi màu
Người đau ta há chẳng đau đớn cùng?
Cuộc chiến tranh nổ bùng năm cõi
Sóng bất bình óng dậy mười phương
Chông gai để bước lên đường
Kiếm cung hồ thỉ can trường nấu nung
Quyết tranh đấu cho càng phấn đấu
Đoạt huyền công cho thấu Hóa Công
Tấn tuồng xương núi máu sông
Rồi ra cỏ loáng đồng không, không người
Nào ai thế vén trời vạch đất
Nào trí mưu đổi vật thay người
Mảnh thân mài miệt trong đời
Rồi ra cũng một trận cười mà thôi
Miếng đỉnh chung xúi người nô lệ
Phẩm nhân luân vì thế rã rời
Không phương giáo dục cho người
Quốc phong, gia tộc tơi bời phong nghi
Vận nước phải suy vi tan tác
Hồn dân còn trụy lạc tả tơi
Phải cơn nước lửa tơi bời
Cam lồ rưới tắt, Đạo Trời mở tung
Chuông khử ám gióng rung inh ỏi
Trống truy hồn kêu gọi mười phương
Đưa tay dắt khách lên đường
Tuốt gươm dứt sạch cái màn vô minh
Cho mình biết thân mình nghiệt khổ
Cho đời hay đời chỗ hý trường
Không còn ghét chẳng còn thương
Nhân sanh đã bước lên đường tự do
Người sống chung trong lò Tạo Hóa
Đời hưởng chung trên đóa thiên luân
Tâm không muôn vật đều không
Chung nhau hưởng phước đại đồng nơi nơi
Dưới chế độ hết người nô lệ
Ngoài dã lâm không kẻ quan cô
Mênh mông bốn bể năm hồ
Trời là chủ tể, cơ đồ là dân
Trước tất phải bảo thân nhân loại
Sau tìm phương kêu gọi quốc dân
Quốc dân nung đúc tinh thần
Tinh thần tráng kiện, thể thân điều hòa
Nhưng than ôi! Đời đà cay nghiệt
Hỡi than ôi! Đời thiệt dở dang
Mải mê trong cuộc dinh hoàn
Say sưa trong giấc mộng tràng mà thôi
Đánh thức dậy, thức rồi ngơ ngẩn
Kêu hồn về, hồn vẫn mê man
Từng phen tiếng thở tiếng than
Tiếng cười tiếng khóc, tiếng bàn tiếng khuyên
Nền chánh đạo thất điên bát đảo
Mười bốn năm kẻ tảo người tần
Xuôi chiều chi phái phân vân
Ai toan đồ bá, ai phần định vương?
Vì vương bá gây trường chinh chiến
Vì định đồ sanh chuyện cạnh tranh
Gương treo trước mặt rành rành
Ai còn rước giặc vào thành làm chi
Đạo phải lúc khuynh nguy nhiều nỗi
Đời gặp cơn thay đổi lắm chiều
Cậy ai sớm dắt tối dìu
Phất cờ giục trống hầu kêu nhau cùng
Xướng rát cổ, xướng không ai họa
Kêu hao hơi, kêu chả người ơi
Toan lên, lên hỏi thăm Trời
Việt Nam há lại không người vĩ nhân?
Kìa cẩm tú giang sơn một khoảnh
Kìa danh lam thắng cảnh ba kỳ
Sơn hà anh khí phương phi
Đất linh há đúc người gì không linh?
Ngũ Phụng Lĩnh phụng trình đơn quyện
Cửu Long Giang long biến hồng vân
Nam phương xưa cũng Thánh Thần
Anh hào nay há trong trần không ai?
Sông Nhị Hà nước xoay cuồn cuộn
Núi Tản Viên mây cuốn tầng tầng
Ngũ Hành Sơn vẻ Thiên công
Bắc Trung, à cũng giống dòng Nam ta
Bức phong cảnh xem qua vài đoạn
Ngẫm non sông mà ngán nhân tình
Hồn dân, dân hỡi có linh
Thương đời giúp đạo quên mình hỡi ai
Dù cho gái hay trai cũng vậy
Tâm thương đời tâm ấy vẫn chung
Mày râu đắp vẽ non sông
Phấn son tô điểm sắt đồng nấu nung
Toan lấp bể gọi hồn Tinh Vệ
Tính dời non học chí Ngu Công
Muốn cho thế giới đại đồng
Thảy đều một dạ đắp trồng cho xinh
Mưu cái cuộc hòa bình thế giới
Thảy không còn chia mối chia manh
Quy nguyên Đại Đạo ngày thành
Đại đồng tôn giáo mở tranh thái bình
Nầy nầy, nầy hỡi nhân sinh!
Thăng.
Vì tình thế quá chộn rộn, Đạo Đức Đoàn cố gắng duy trì sinh hoạt trong thầm lặng với tinh thần thuần chơn vô ngã, thuần túy đạo đức. Năm Tân Tỵ (1941), Đoàn lại đổi tên là Thanh Xuân Tân Sinh Hoạt Đoàn; mỗi đoàn viên gọi là Nữ Thanh Tân.
Năm 1941 khởi đầu giai đoạn gian truân của đạo Cao Đài. Các hướng đạo bị chính quyền Nam triều bắt bớ, giam cầm; thánh sở bị đóng cửa; hầu như mọi sinh hoạt tu học bị ngừng lại, liên lạc giữa các nơi bị cách ngăn.
Một nhân vật tiêu biểu của Thanh Xuân Tân Sinh Hoạt Đoàn là Trần Doãn Cơ đột ngột quy thiên. Người chị cả của Đoàn là Chơn Giác cũng tạm nghỉ để lo chăm sóc bịnh tình cụ Hiệp Lý Lê Trí Hiển và cuối cùng là tang lễ của cụ. Đoàn viên Nguyễn Thị Lang thọ tử trong pháp nạn tại Quảng Ngãi, gây hoang mang khiếp sợ. Do chiến tranh, bổn đạo Đà Nẵng, Quảng Nam di cư lập sở nông Phước Hội (Quế Sơn, Quảng Nam). Hoàn cảnh quá khó khăn làm cho Thanh Xuân Tân Sinh Hoạt Đoàn hầu như tan rã.
Đàn tại sở nông Phước Hội ngày 13-02 Đinh Hợi (05-3-1947), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Chị em thử mau mau tỉnh ngộ
Tu cho cần tận độ về quê
Hiện nay có cuộc gớm ghê
Trong cơn bát loạn khó bề an thân
Ai có phước, Thánh Thần hộ mạng
Ai có duyên, ngọc bảng đề danh
Ngôi xưa Thầy Mẹ sẵn dành
Tại sao đạo dức tu hành lảng lơ?
Cùng đàn nầy Đức Lý Trần Hưng Đạo dạy:
Tổ Quốc đương hồi nạn ngoại xâm
Ai không đau xót, lụy không cầm
Đạo đời há chẳng chung lo nghĩ
Trải mấy nghìn năm nổi tiếng tăm.
Chư hướng đạo cùng đạo hữu ôi! Cái số mạng quốc gia gặp phải hồi rối rắm. Ai là người cùng chung một dòng máu đỏ, một sắc da vàng không sao nguôi dứt mối căm hờn mà để mặc cho cơ thành bại. Phương chi với chúng ta đây cũng đã hấp thu nền giáo pháp của Thầy trên hai mươi mấy năm, không được quét sạch chông gai thì cũng tâm tâm niệm niệm cùng Thầy ban ơn cho Tổ Quốc chúng ta qua cơn khói lửa.
Đàn tại thánh thất Trung An ngày 14-7 Đinh Hợi (29-8-1947), Đức Từ Hàng Phổ Độ dạy:
Trần ai cuộc sống mảnh hồng nhan
Nhi nữ sanh ra luống ngỡ ngàng
Quần vận dẫu nên thân cá chậu
Yếm mang dù phải kiếp chim lồng
Chung phần nam tử phần tai mắt
Đồng phận nhân loài phận nước non
Thời mới đã nên nhân thế mới
Chạnh lòng nhi nữ phải thon von.
Các em ôi! Cái danh từ Thanh Xuân Tân Sinh Hoạt Đoàn đã bao hàm ý tứ văn minh đó. Thanh Tân là một tuổi xuân mới mẻ cho các em đó, cũng là nơi các em tranh đua tài đức đó.
Cũng tai mắt, mặt mày như nam giới, cũng đầu đội trời, chân đạp đất, cũng giang san thổ võ như người, các em chẳng phải nhi nữ đê tiện như ai.
Các em cũng có đủ sở năng tiến thủ, có đủ nghị lực phô bày, sao cho nữ giới cũng được một giá trị như nam giới, một cốt cách như con người, thì Bần Đạo không gì sung sướng hơn.
Tân Sinh Hoạt mới hợp với trào lưu hiện tại, cũng là việc nên làm. Nhưng các em sinh hoạt bằng cách gì? Há phải có mưu mẹo cho giỏi, trí khôn cho lắm, để rồi sinh hoạt với thời đại văn minh nầy chăng? Các em phải nhớ rằng sinh hoạt nghĩa là làm cho đủ mọi công việc, cho kiếp sống được có giá trị, và các em tìm cách tháo vát về công việc, đoan trang về dung mạo, bặt thiệp về ngôn ngữ, nết na về đức hạnh, đó mới là sinh hoạt vậy.
Được lời Thánh phủ dụ, phái nữ cùng nhau gầy dựng lại Đoàn, thúc đẩy mở mang, phát triển sinh hoạt trong lúc vẫn phải khéo léo lách khỏi nghịch cảnh bên ngoài. Đoàn viên được kết nạp ở các thánh thất Hưng Đông, Từ Vân, Trung Nguyên.
Trong giai đoạn nầy đứng đầu điều hành Đoàn là Lễ Sanh Võ Phi Yến. Có bốn Lễ Sanh Phan Thị Hòe, Trần Thục Cơ, Triệu Thị Huyên chung tâm góp sức để củng cố và phát triển Đoàn ở các thánh thất trong bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú.
Qua giai đoạn Chỉnh Cơ (1950-1955) Ơn Trên thăng bốn nữ Lễ Sanh điều hành lên Giáo Hữu và phong ba mươi Lễ Sanh ở các thánh thất trong bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú.
Giai đoạn Chỉnh Cơ sắp hoàn tất, tiến qua giai đoạn Khai Cơ, xây dựng Đền Thánh (Trung Hưng Bửu Tòa) và thành lập Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Bốn nữ Giáo Hữu lãnh đạo nữ đoàn quyết noi chí “không gọi người dưng là cha mẹ” của bậc đàn chị Trần Doãn Cơ. Cũng noi gương ấy, đông đảo chị em khác cùng phát nguyện theo đường tu đồng chơn giải thoát (không lập gia đình). Thay mặt chi hội Phước Thiện, Giáo Sư Ngọc Tín Thanh đỡ đầu, lập Nữ Đoàn Giải Thoát, và được Cơ Quan Truyền Giáo dâng cáo trình lên Ơn Trên.
Đàn tại thánh thất Thái Hòa ngày 15-9 Ất Mùi (30-10-1955), Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
DIÊU Điện ngồi lâu mỏi đợi chờ
TRÌ môn đứng ngóng lũ con thơ
KIM Bàn những tưởng khi cười nói
MẪU tử tình thâm chẳng bến bờ
Đã mấy mươi năm Mẹ hết tình
Thương đàn con dại nỗi linh đinh
Ngày lo đêm sợ lòng non nớt
Rủi phải sa cơ phạm luật hình.
(…)
Các con hôm nay đã thành lập Nữ Đoàn Giải Thoát, Mẹ chi xiết vui mừng. Mừng các con nêu cao hai chữ giải thoát lên trên quyền lợi cá nhân. Ôi, quý hóa thay hai chữ giải thoát! Danh dự thay hai chữ giải thoát!
Có giải thoát mới gọi là người. Người có giải thoát thì người mới khỏi nô lệ cho miếng ăn tấm mặc, cho danh dự tài sắc ở đời. Có giải thoát thì thân mới thoát ra kiếp ngựa trâu, thân nô tỳ, mới làm chủ được sáu dục bảy tình. Mà làm chủ được sáu dục bảy tình thì sai khiến được mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng, thân, thì đâu còn khổ, còn nhục, còn hèn hạ tấm thân. Thân được tự do, thắng cả ngoại giới, nội tâm, thì thân tâm thanh tịnh, tình ý lặng trong, sức khỏe ngày một tăng lên, tinh thần ngày thêm sáng suốt, hào quang chiếu diệu mười phương, trí tuệ cảm thông trời đất.
Quý hóa thay cái công phu giải thoát! Nó làm cho phàm hóa Thánh, Phật hiện ma tiêu. Người tự nhiên mà bay bổng lên chín tầng mây, không bị một mảy trần dính bợn. Ma nào cản, quỷ nào ngăn? Mặc ý bốn phương đi lại.
Ôi, quý hóa thay! Trọng thay! Con nào là đứa con gương mẫu, đứa con làm được? Hiểu chưa? Con làm được là đại chí anh hùng.
Thật thế. Dù cho dưới đời, kẻ có sức có tài đánh Đông dẹp Bắc, thôn tính mười phương, ngang trời dọc đất, uy linh chói lọi hoàn cầu mà cũng phải làm nô lệ cho vật chất lợi danh, tài sắc, thân, ý hằng ngày, thì sao gọi tự do? Sao gọi là anh hùng quán xứ?
Vậy Mẹ mong và đặt tin tưởng nơi nguyện lực của các con. Các con có làm được thì ngày mai mới tạo thành cho nữ phái một Cơ Quan Hội Thánh. Có hình thành Hội Thánh mới đủ tự do, mới mong cứu đời độ chúng mà lập công tu đức cho ngôi vị nơi cõi đời đời.
Các con làm được. Chỉ có hòa, tín và thương yêu lẫn nhau. Vậy các con gắng lên.
Mẹ ban ơn mỗi con. Mẹ thăng.
Nữ Đoàn Giải Thoát được thành lập, ban hành sự gồm có:
1. Đoàn Trưởng kiêm Trưởng Thanh Chánh Ban: Giáo Hữu Võ Hương Yến.
2. Phó Đoàn Trưởng kiêm Trưởng Minh Chánh Ban: Giáo Hữu Triệu Hương Huyên.
3. Thư ký kiêm Trưởng Hương Liên Ban: Giáo Hữu Phan Hương Hòe.
4. Ủy Viên kiêm Trưởng Ngọc Định Ban: Giáo Hữu Trần Hương Thục.
Đàn tại thánh thất Kim Quang Minh Đài ngày 10-12 Ất Mùi (22-01-1956), Đức Mẹ dạy:
Con ôi! Nữ phái tiến lên
Công phu, công quả xây nền thánh nhi
Đời giữa lúc khuynh nguy khốc liệt
Đạo đương hồi phân biệt giả chơn
Các con mau lẹ phản huờn
Đừng nên do dự gặp cơn não phiền
Cơ lập pháp ban truyền khắp cõi
Mẹ khuyên con bước giỏi kịp kỳ
Kệ kinh, công quả vào thi
Thi tâm đức đủ pháp nghi Đạo nhà
Chị em con phải hòa phải mến
Phải giúp nhau đến bến đến bờ
Đường tu nương níu đợi chờ
Đừng vì ghen ghét lảng lơ phụ phàng
Trong gia thất lo toan phận sự
Giúp chồng con vẹn chữ nghĩa tình
Chồng lo gánh nợ quần sinh
Con lo xếp đặt gia đình dạy con
Lo kinh kệ cho tròn chiều sớm
Lo sửa mình can đảm tiến lên
Hằng ngày đạo đức đừng quên
Giờ làm giờ nghỉ con nên xử tròn
Giờ làm để nuôi con giúp Đạo
Lo thay chồng hoài bão gia nghi
Tiếp giao giữa bạn tu trì
Ra người lịch duyệt phòng khi hóa người
Lúc nghỉ đến thăm chơi nhà bạn
Để cùng nhau thông cảm nỗi tình
Để nhau giúp đỡ phẩm bình
Cho thêm sáng suốt sửa mình đoan trang
Đến thánh thất, Thiên Bàn chầu lễ
Hội họp nhau tìm kế dựng xây
Phong trào nữ giới lo quây
Pháp quyền giữ vững góp tay tô bồi
Đừng nhàn rỗi xúm ngồi đùa bỡn
Kiệm những giờ chơi giỡn lập công
Con ôi! Quả phúc lo trồng
Con ôi! Khuya sớm dọn lòng thờ Cha
Ngày mai có sẵn Bửu Tòa
Các con phải được đứng ra chấp hành
Ngày mai Hội Thánh hoàn thành
Ngày nay nữ phái tu hành cho mau.
Tuy đã có Ban Hành Sự, nhưng mãi hơn cả năm trời mà Nữ Đoàn vẫn còn rời rạc, hàng ngũ chưa đâu ra đâu trong khi Trung Hưng Bửu Tòa đã xây dựng xong, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài đã hình thành, tiến vào mùa xuân Khai Cơ Giáo Pháp (xuân Đinh Dậu).
Đàn tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 15-01 Đinh Dậu (14-02-1957), Đức Bảo Thọ Nương Nương dạy:
BẢO nhau cùng bước nhịp theo xuân
THỌ lãnh hồng ân cứu vạn dân
NƯƠNG giữ pháp quyền cầu giải thoát
NƯƠNG cùng Hội Thánh chỉnh tâm thân.
(…)
Vậy Tiểu Nương thừa lịnh đến đây bảo chị em cùng nhau xây dựng thân tâm và xây dựng cơ sở nữ phái để có nơi sớm chiều nương núp cơn sóng to gió lớn bất kỳ. Không còn đợi ngày giờ nào nữa và cũng không nài nạnh ai đâu. Phải tự nhiệm lấy quyền pháp mà đứng lên hò hét khúc xuân thiên, tiến lên cho kịp kỳ Long Hoa đại hội.
Bảo Thọ Nương Nương hay Bảo Thọ Thánh Nương là quả vị của nữ tu Trần Doãn Cơ (1912-1944), thế danh Trần Thị Tín, là cháu gọi Hộ Đạo Thiên Quân (Hiệp Lý Trần Nguyên Chất) bằng chú ruột, và là chị của Bảo Nguơn Chơn Tiên Trần Nguyên Chí.
Lúc sanh tiền tiền bối Doãn Cơ ít học nhưng rất thông minh, tính tình khảng khái như nam nhi, quyết lập chí tu hành đồng chơn, không theo đường thế tục. Người từng nói: “Tôi không dám nói như bà Triệu Thị Trinh cỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kinh ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người. Nhưng tôi đã thực hành được đoạn chót ở câu nói của bà, và tôi mong học theo tinh thần ý chí bà để phụng sự Đạo Trời. Tôi quyết lập thân lập chí, thượng đẳng nữ lưu bất hố tha nhân phụ mẫu.”
Ngày 29-4 Nhâm Thìn (22-5-1952) Đức Phổ Đà Bồ Tát đưa chơn linh Trần Doãn Cơ về đàn tại thánh thất Hưng Đông, cho biết người đã đắc quả vị là Bảo Thọ Thánh Nương.
Khi Đức Thượng Đế thâu các tiền bối hướng đạo Trung Kỳ về Tiên giới đứng vào hàng Thiên Đồ Trung Bảo để hộ trì các cơ quan Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài thì Đức Bảo Thọ Thánh Nương hộ trì nữ phái.
Đàn ngày 15-8 Đinh Dậu (08-9-1957), Đức Bảo Thọ Thánh Nương dạy phái nữ:
Chị em nên biết rằng sống giữa buổi đời mạt pháp may gặp chơn truyền, ráng mà tu tránh tai tránh họa. Ta xét coi người ở thế nầy có khác chi gà ở trong giỏ, bị tréo cánh cột chân đem ra giữa chợ, vào chảo nước sôi chưa biết giờ nào, mà chúng thấy gì đâu! Hễ thấy lúa bỏ vào, thì đua giành nhau. Thóc đầy diều mà cắn xé hơn thua từng hột. Khổ thay! Chắc chị em mình không như thế được. Ta phải ngó xa xa tí nữa để lánh cõi điêu tàn. Một kiếp không tu muôn đời đọa lạc.
Hôm nay Hội Thánh đã giúp đỡ chị em đi đến ngày thành lập. Ráng chung lo với nhau. Đừng nói chỗ nầy chỗ nọ, người dở người hay, vị thân vị kỷ, mà phải đi trên mục đích của Pháp Chánh Truyền thành lập mà thôi.
Lẽ thiệt hư khó biết. Hư hóa thiệt, thiệt hóa hư là then chốt âm dương biến hóa để lọc lừa thánh đức, ngăn che phàm phu. Ta nhớ đừng cao ngôn phạm thượng.
Song hành với Đức Bảo Thọ Nương Nương còn có Đức Chơn Giác Nương Nương cùng hợp điển lực dìu dẫn, hộ trì nữ phái, Nữ Đoàn.
Đàn tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 13-01 Mậu Tuất (02-3-1958) Đức Chơn Giác Nương Nương dạy:
CHƠN tâm tu học nguyện từ đây
GIÁC tỉnh lòng ta tưởng nhớ Thầy
NƯƠNG cửa từ bi trau hạnh đức
NƯƠNG đoàn giải thoát thẳng cung mây.
Bản Nương chào chư Thiên ân, chư hiền nữ.
Giờ nầy Bản Nương hân hạnh được thọ ký thánh ân phục kỳ sứ mạng, được về gặp cùng chị em, tưởng còn chi vui mừng hơn nữa.
(…)
Chị em ôi! Từ ngày tôi liễu giải tấm thân về chầu Từ Mẫu, được sống liền trong khối vô cực bao la. Sớm động tiên, chiều cảnh thánh, qua Nam Hải lại Đào Nguyên, nương gió cỡi mây say sưa cùng ý thánh lòng tiên. Trông lại cảnh trần hoàn chật hẹp, biển khổ đào độn, lắm lượn sóng xô xát nhau, hằn học chụp nhận con người trầm luân vĩnh kiếp.
Người ở đời là ở trong sông mê bể khổ, chịu mãi đau thương. Bờ giác bên kia, nếu không hồi đầu làm sao thoát ra ao sầu vũng khổ?
Đời là khổ. Có thân có khổ, từ lúc chào đời. Thân bởi nhân duyên giả hợp, do thức quy tụ mà có. Thân tàng trữ những ý tình tham dục, xúi người đi đến cội rễ đau thương.
Hôm nay đã gặp Đạo, được Thầy Trời soi dẫn, Hội Thánh đưa đường, chúng ta đã giác tỉnh đi trên đường giải thoát thì cứ đi tới, đừng nghi gì, lo gì, tính gì lộn xộn rồi bị ý thức lôi cuốn, rồi sa ngã vực sâu của bể khổ, khó ngày trở lại.
Bản Nương nhờ đức tin và lòng hồi hướng, lúc đầu tuy công quả không bao lăm, công phu chưa được mấy, nhưng buổi đại xá Thầy ban ơn tận độ Bản Nương được về cựu vị.
Nay Giáo Hội trung hưng chánh pháp, nữ phái nơi nầy được hồng ân có sứ mạng Chỉnh Cơ tiến sang ngày Giáo Pháp. Thầy mẹ giao trách nhiệm dìu dẫn chị em cho Bản Nương. Nhưng Bản Nương tự thấy tài đức còn non, quyền pháp chưa tỏ, chưa đúng phẩm hướng đạo ngày nay. Vì vậy Bản Nương xin lập công trong giai đoạn Chỉnh Cơ. Ngày Hội Thánh nữ phái thành hình nhượng cho bực tài đức cao quyền lớn pháp, còn chị Bảo Thọ từ đây làm phần dìu dắt đoàn nữ giải thoát trên phương diện tu học.
Cùng đàn ấy, tiếp theo có Đức Bảo Thọ Thánh Nương giáng dạy:
Vì vậy nữ phái y Pháp Chánh Truyền, quyền hành nhiệm vụ của mình nên biết. Còn việc tương thù tương tiếp ở Pháp Chánh Truyền từ Đầu Sư phân ra thì quyền hành minh bạch. Có như thế mới ngăn ngừa được cơ xáo lộn. Từ đây đẳng đẳng nữ phái y tuân:
1. Cũng cố hàng ngũ chức sắc, chức việc và chọn người tài đức sung bổ thay đổi kẻ thiếu tâm, thiếu nguyện.
2. Thắt chặt hàng ngũ đạo hữu gây lòng tin và giữ đạo.
3. Phát triển pháp môn giải thoát. Xây dựng cơ sở giải thoát.
4. Tạo điều kiện để đạo tâm có đủ công phu, công quả tịnh dưỡng tu học.
Vì Nữ Đoàn Giải Thoát, chị em đã phát nguyện. Làm được việc ấy là một bước tiến bộ. Sau cần kế hoạch Bản Nương sẽ chỉ dẫn. Bây giờ hàng ngũ chức sắc cần cảo chọn, thải loại những vị phạm vào quyền pháp để bảo tồn danh nghĩa của đạo. Nhưng cơ tận độ, chị em khéo léo, cảm dụ lòng dạ ấy được sớm hồi tâm giác ngộ để phục quyền an vị.
Còn việc có người để giao tiếp đoàn chức sắc ở các phái chi đến ta hỏi về chánh pháp, nữ phái được quyền lập Hội Thánh thì pháp môn ấy chưa được lý giải bao nhiêu. Nếu có lệnh Lý Giáo Tông cho thành lập thì sẽ giải chương TỐN, LY, KHÔN, ĐOÀI, bốn phần âm trong Bát Quái.
Về đạo hữu, từ nay không nên mở khóa, y theo Tân Luật.
Việc làm nhiêu đó, các chị em đi ra hay ở Cơ Quan cũng cẩn tắc đốc thực, sau có Diêu Trì Thánh Mẫu dạy thêm.
Theo lời dạy của Đức Bảo Thọ Thánh Nương, phái nữ chăm lo phát triển pháp môn giải thoát, xây dựng cơ sở nhà tu giải thoát. Ngay bước đầu đã gây được hưởng ứng khá đông đảo, noi theo chí hướng của tiền bối Trần Doãn Cơ lúc sanh tiền: Nữ lưu thượng đẳng không gọi người dưng là cha mẹ. (Thượng đẳng nữ lưu bất hố tha nhân phụ mẫu.) Nhiều chị em đã có đính hôn cũng xin từ hôn để phế đời, gia nhập đoàn giải thoát. Lễ xuất gia được tổ chức ở nhiều họ đạo rất trang trọng, cũng chúc mừng, tặng quà tiễn chân các chị.
Đức Mẹ Diêu Trì, Đức Bảo Thọ Thánh Nương liên tục giáng đàn dạy dỗ, củng cố nguyện lực, vạch đường lối xây dựng tổ chức, tiến đến lập dòng tu, nhà tu. Hội Thánh vâng thánh ý lập dòng tu nữ giải thoát lấy tên là dòng tu Bảo Thọ, nhà tu Phước Huệ Đàn, và đặt tại Tam Kỳ, thuộc tỉnh đạo Quảng Tín (nay là Quảng Nam).
Đàn ngày 06-02 Kỷ Hợi (14-3-1959), Đức Mẹ dạy:
Mẹ mừng các con.
THI
VÔ vi thanh tịnh nhẹ lòng con
CỰC nhọc quả công gắng chí bòn
TỪ thuở khai thiên nay một hội
TÔN ty em chị giới quy tròn.
(…)
Các lễ long trọng chỉ có lễ xuất gia là hơn cả. Xuất gia để tìm lấy một nguồn sống êm đềm, một cảnh đời vinh quang chân hạnh phúc, rồi đưa nhân sanh đến cùng chung hưởng cái lạc thú vô sinh bình đẳng ấy, loài người thoát khỏi oan trái khổ đau.
Không phải xuất gia để tránh cái bổn phận làm người trong xã hội, làm con trong gia đình, làm dân của một nước. Mà cũng không phải bị tình duyên bạc đãi, thất vọng với nỗi nọ điều kia. Mà xuất gia với một trách nhiệm tương lai giải phóng nhân quần ra ngoài ảo vọng cạnh tranh khổ đau trong trường thế sự. Thế thì xuất gia đầy thơ mộng yêu đương, đầy nhiệt tâm độ thế.
Có xuất gia mới được lẽ Đạo bao hàm, xô thành kiến chật hẹp, dẹp bản ngã thấp hèn, bỏ tự tư tham dục, ngoài ái ân tình cảm nhỏ nhen, để lòng mình không một chướng ngại ngăn che, một mối trái oan nào ràng buộc. Thân được tự do, tâm được sáng suốt, thì việc làm mới minh chính, lời nói mới chân thật, phán đoán được công bình. Người giải thoát chưa nói là Thần Thánh đi nữa, lòng cũng chứng điển cao đẳng linh thông. Vì vậy mà phần thưởng trên Thiên Đình chỉ dành cho người giải thoát hơn cả.
Người giải thoát là đại hùng chiến thắng ma nghiệp, can đảm hơn cả, mãnh lực vô cùng. Thật thế, chỉ có hàng giải thoát mới không bị nô lệ cho ma danh quỷ lợi, ái ân yêu tà. Người giải thoát không hẹp chật tình thương, không nhỏ nhen sự sống, không ích kỷ hạnh phúc riêng mình, mà đứng ngoài thế gian, lo cho thế gian những phần hy vọng, không con ràng chồng buộc, không lợi khiến danh sai. Ở trần muôn kẻ mất tự do mà chỉ mình thong dong tiêu nhàn, không bị một vật gì ngăn trở thì người giải thoát không hơn sao được?
Thử hỏi ai dưới thế nầy không đắm sắc mê duyên, say tình luyến lợi. Con con cháu cháu, lắm phải tồi tàn. Con mình sanh con mình nuôi, dạy khôn chỉ khéo, đổ sức trút thần vào xây đắp nó. Lẽ ra nó phải hết phận đền bù, thế mà dưới trần mấy ai ngưỡng lên, mà bao nhiêu đều trút xuống. Bởi thương xuống mà phạm tội bất hiếu, bất nhân. Cha mẹ đâu bằng con. Ông bà đâu bằng cháu. Ôi, loạn nghịch đạo lý nên gây biết bao nhiêu oan trái trả vay! Nợ ấy cấu hợp còn nhiều, thì tử sanh luân hồi mãi mãi.
Đời nầy nói nhơn đạo, chưa mấy người biết trung biết hiếu. Vì thế mà luân thường sụp đổ. Đã sụp đổ, con người vụ lợi quên nghĩa, nên cần phải xây dựng đời, lập nên thế đạo lành mạnh.
Muốn có nền thế đạo lành mạnh thì ai là người phải lo đóng góp, đương đầu việc nầy? Ai cũng bận lo cho thân mình, con cháu mình, vợ chồng mình, thì việc đời tới đâu hay đó. Suy đổ rồi! Nguy cấp đến nơi rồi! Nên gánh nợ quần sinh thì chỉ có người rảnh thân mới làm được, không nhà mới lo được. Vì vậy mà nền đạo cứu đời đòi hỏi kẻ giáo sĩ là người xuất gia.
Người xuất gia có hai hạng. Hạng có gia đình rồi, vợ con rồi, mà đành đoạn cắt mối thân ái, phế cả lợi danh vì tiền đồ nhân loại mà lên đường hành đạo. Hạng nầy cũng anh hùng có gan. Nhưng hạng đồng chơn chưa nhúng mùi đời là xứng đáng. Vì ai đến đây mà không nhiễm. Kẻ bị nhiễm mà biết cởi mở cũng ít người. Vì vậy trong nền Đạo hai hạng nầy làm quân khu tiền phong, an bang tế thế.
Đã được danh dự nhất trong đời, dù chưa có công đức với chánh pháp nhơn sanh, lúc chung liễu cũng chứng được ngũ đẳng linh thần, huống là mang một sứ mạng, có một trách nhiệm, lòng lại giác ngộ, về ngôi trên, cửu phẩm cũng được dự phần.
Có một điều Mẹ lo. Nguyện chưa quyết, chí chưa lập, tình ý còn ngóng đó trông kia. Ngoài thì lành lẽ trơn tru, mà trong lòng bẩn hôi chất chứa. Nếu không dốc tình đoạn tuyệt, thì lâu mau nó cũng kéo tới trì lui. Đời con mãi lẩn quẩn không ra khỏi vòng oan khiên nghiệp chướng, tối tăm phiền não.
Con phải có gan. Tuy đau nhưng chỉ đau một hồi, chứ để mãi thì liên tiếp chập chồng khốn khổ. Về đoàn, sống tập đoàn, các con nên bỏ hẳn cái thói nữ nhi thường tình phụ nhơn nan hóa, mà lấy lòng vô tư ăn ở với nhau. Đừng hẹp chật ganh tương rồi đi đến ngày tan vỡ.
Mẹ cũng cho các con biết rằng số đã xuất gia nầy một ngày kia không phải được trọn vẹn, nhưng lòng từ bi độ được bước nào mừng bước nấy. Các con cố gắng và cẩn thận giữ mình, nên luôn luôn cầu nguyện.
Mẹ cầu xin Lý Bạch lập cho con một nhà tu, vừa luyện trí quy thần, vừa chế ngự cảm tình, ngăn phần tư dục. Nên tại tu xá cần được đòi hỏi một số giáo sĩ để xây dựng Hội Thánh nữ phái. Nên mở một kỳ học tập đủ các khoa học, chính trị học, để mở đường trí thức cho các con, ổn định phần tâm linh, chế kiềm bớt tư dục. Rồi đây con lên đường hành đạo lập công, lượm lặt ít nhiều nhơn duyên trong quần chúng.
(…)
PHÊ y tâm nguyện trẻ mong cầu
CHUẨN tắc nơi đây chớ nhắm đâu
NỮ hạnh quyết tâm lo lánh tục
ĐOÀN viên dốc chí sự đương đầu
GIẢI mê sanh chúng toan tu học
THOÁT khỏi trần hồng phải tựa nhau
THÀNH bại đứng ngoài toan giải quyết
LẬP nền Phước Huệ nhớ cho sâu.
Nhà tu Phước Huệ Đàn được Đức Mẹ phê chuẩn, đặt tại Tam Kỳ dưới sự bảo hộ của ba vị Giáo Sư Cửu Trùng Đài, một vị đại diện Hiệp Thiên Đài. Hội Thánh dâng cáo trình lên Ơn Trên.
Đàn ngày 08-02 Kỷ Hợi (16-3-1959), Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch dạy:
LÝ tình hai mối biện phân rành
THÁI độ người tu phải nhiệt thành
BẠCH bạch phân minh quyền pháp rõ
GIÁNG thăng đừng để lệch công bình.
Bần Đạo chào chư Thiên phong, chư đạo tâm nam nữ, chư đệ, chư muội an tọa.
Hôm nay Hội Thánh Truyền Giáo được thành lập tu xá cho Nữ Đoàn Giải Thoát vào tu học, là một ân phước cho nhân sanh, mà cũng hồng ân to tát của chư hiền trong Kỳ Ba tận độ.
Bần Đạo đến để chứng minh sự hiện diện và lòng nhiệt thành của đoàn viên có chí xuất gia tìm về lẽ thật, hầu ngày mai đem sở đắc trên đường công phu thọ chứng mà đền đáp lại bao nhiêu sự lo lắng của toàn đạo. Mà ngày mai có thành công cũng do nhiều trợ duyên mới đủ phương tiện vượt qua muôn trùng khó khăn trắc trở.
Chư hiền đạo tâm đã giác ngộ trên đường đạo pháp bằng sự kết duyên giữa nhau, với sự xây đắp lẫn nhau. Xưa thời của pháp Phật sáng suốt bằng sự cứu độ chúng sinh, nên Phật đã gây duyên nhiều kiếp. Khi Phật ra đời, chúng sinh được vui mừng đón tiếp lấy nguồn chơn lý một cách dễ dàng. Giữa Phật pháp cùng chúng sanh chia vui sớt khổ, lân mẫn trên việc thi ân bố đức cho đời. Nên Phật trải qua mấy mươi thế kỷ mà còn được bền vững. Ánh sáng oai đức của Người trở nên mãnh liệt trong lòng nhân loại. Phật pháp đã sẵn nền công đức vô ngã vị tha, chư tăng noi đấy mà vượt lên vững chắc, hằng lo thế pháp hóa duyên, kết mối thiêng liêng giữa người và Phật pháp.
Chúng sanh thì mê muội, phải làm cho chúng sanh giác ngộ. Không phải một sớm một chiều mà cả một công trình hóa độ. Bữa bữa lui tới dạy khuyên, hoặc bằng lời lẽ, bằng dung nghi, bằng quyền pháp, hoặc bằng công sức để cảm dụ độ người.
Làm như vậy cũng chưa dễ thành tựu cho người, mà người phải cúng dường cho Phật, bố thí cho tăng, tin cầu chánh pháp. Nên chúng sanh nhờ nhiều lần phát tâm từ thiện, phát lòng kính Phật trọng tăng. Tuy một tháng một ngày bằng dâng cơm cúng vải, xây chùa đúc Phật, đúc chuông mà duyên ấy khởi, lòng ấy sanh, giống bồ đề nứt nở, nên sự sáng suốt càng được tăng huy.
Cũng như hôm nay nền tân pháp, tuy trong hàng chức sắc không đi khất thực hóa trai, không đến chia vui sớt khổ, nhưng tổ chức đã lan rộng, quyền pháp được rải gieo. Hội Thánh lúc nào cũng nghĩ đến nhơn sanh, nỗi nọ điều kia, đen tối về tinh thần, khổ nhục về xác thịt, mà ra lệnh đồng đạo giúp lẫn nhau, nhơn sanh đóng góp công quả vào sự chi thu, vào việc tế tự, vào việc ăn mặc đi lại của hàng Thiên ân chức sắc, chức việc.
Thiên ân chức sắc, chức việc được gây duyên cùng toàn đạo, kết duyên cùng Hội Thánh và nhơn sanh, nên cái duyên được hòa lẫn tương quan xa cũng có, gần cũng có. Vì thế mà thiện duyên đã xây đắp một nền phước đức lâu dài. Người nầy lo cho kẻ kia, kẻ kia lo cho người nọ. Ai cũng có tâm lo, ai cũng có nghĩ đến con đường cứu cánh lẫn nhau, thì việc tổ chức ngày nhập tu xá nầy chư đoàn viên vào học. Học để mà tu, tu để tìm lẽ thật. Đem cái lẽ thật mà thay vào cảnh giả tạm ảo hoặc thế gian, vào trong lẽ thật, hưởng lấy đời sống đời đời, tình thương bất diệt.
Lẽ thật không phải ai tìm cũng ra, ai muốn cũng được, mà phải có lòng thanh tịnh giác ngộ. Vứt bỏ quyền lợi ái ân kia, phải ở một người có chí nguyện, người đứng ngoài tham muốn, đứng ngoài vòng nhà cửa chồng con. Người ấy lòng không bận nghĩ cơm ngon áo lành, con no chồng sướng. Không nhúng tay trong việc thị phi, thì người không bận nợ đời, không chứa của riêng, không lo tư thất thì người rảnh rang. Lòng không bận rộn thì tình ý mới lắng trong. Chừng đó lương tri phát hiện, lương năng đủ đầy, trực giác cảm thấu lẽ mầu nhiệm, mà đạt thành lẽ thật là chân lý vậy.
Người ấy là ai? Người giải thoát vậy. Thế thì giúp đỡ cho người giải thoát cũng là một công đức chính đáng, dù người ấy không trở lại gieo chơn lý cho đời cũng cứu được phần hồn họ trở về tịnh cảnh.
Đã nói sự bố thí công đức lớn. Tiền bạc đem ra bố thí cho muôn người được sống đầy đủ cũng không bằng cho một người có chí hành đạo. Cho một người có chí hành đạo không bằng cho một người thật tâm giải thoát tìm lẽ thật cho đời.
Vậy ai là kẻ cản trở bước tu là người phạm vào sơ nhất điều trong giới cấm. Mà kẻ không tự chủ cũng chịu dưới quyền tà quái đời đời.
Hôm nay Bần Đạo đến đây là một quyền pháp để chứng minh tất cả quyền hành nữ phái bởi trong tay Bần Đạo ban ra.
Bần Đạo đã lập thành Hội Thánh nữ phái thì lẽ tất nhiên hàng Thiên ân trong Hội Thánh đều nhứt nhứt tuân hành, nếu ai trái phạm lời Bần Đạo thì cửa Thiên môn bởi tay Bần Đạo đóng chặt.
Về Nữ Đoàn Giải Thoát, phần đã làm lễ xuất gia, hôm nay nghe Bần Đạo hỏi: Chư hiền nữ đã lượng được sức mình chưa? Quyết tâm giải thoát chưa? Có chịu được thiên ma bách chiết không? Còn lướng vướng mối manh nào chưa dứt được?
Đàn tái cầu có Đức Ngô giáng:
Thanh thanh không bận nợ trần gian
Nhẹ gót đến nơi Phước Huệ Đàn
Chỉ điểm môn đồ tu chánh pháp
NGÔ TIÊN chủ tọa điểm huyền quan.
Chào chư hiền đồ, chư đạo tâm nam nữ.
Nơi đây được hồng ân dưới quyền pháp Lý Giáo Tông hướng đạo. Người lại cho Phước Huệ Đàn làm nơi học đạo.
Bần Đạo cũng vui mừng mà thể lòng từ bi chỉ qua một vài yếu quyết. Chư nữ đồ còn non nớt đức tin, lòng phàm chưa gọt sạch, công phu công quả chẳng được bao nhiêu. Vì vậy Bần Đạo có thương cũng không tránh được nhiều phen khảo thí. Ma có khảo, đạo mới thành. Ngặt một điều là chư nữ đồ chưa thanh tịnh, nên khó ngừa ma tặc nơi lòng, làm cho vọng loạn tâm thần. Vì thế mà không đón ngự được ngoại giới tung hoành.
Muốn bước lên con đường thiên đạo phải dọn mình hằng bữa. Công dày hạnh đáng thì sự khảo thí cũng là phần giúp cho bước tu thêm dày dặn vững chắc. Sợ công non nghiệp lớn khi gặp khảo thí khó kiên trì, mà tình ý xui nên phải cởi đạo y, buông chuỗi hạt.
Bần Đạo muốn sao chư nữ đồ lập thêm công hạnh, lòng thường duy nhất, một điểm chơn tâm, đóng sáu cửa, ngăn ba nghiệp tham, sân, si để khử ám hồi minh, tiến lên con đường thiên đạo.
Nơi đây đã được lập thành tu xá. Tu xá nầy về đạo pháp thì chưa khế ứng địa hình, nhưng tạm có nơi di dưỡng tâm thần. Cũng nên phân biệt nhà tu, nhà ở, tránh ồn ào lộn xộn mới được truyền thụ pháp môn. Mà chư nữ đồ muốn thọ pháp phải thiết tha cầu khẩn. Không phải dễ gì làm một môn đệ nhà Tiên dưới ân oai Giáo Chủ. Nhứt nhứt tôn trọng quyền pháp. Ví như chưa cho ngồi không được ngồi, chưa cho ra không được ra. Mặc lòng quá bữa xót lòng, nhiều đêm mỏi mắt, thành Tiên không dễ, chứng Thánh rất gay, thử thách đủ điều, hành hạ vô song. Nên không hờn không giận, nét mặt hân hoan. Con người tinh tấn mới mong cướp được cơ huyền, rõ đường siêu đọa,
Vậy chư hiền đồ bây giờ muốn thọ giáo cùng Bần Đạo về đường huyền pháp thần công, tu cho đạt chứng viên minh, cướp lấy Thiên cơ Tạo Hóa, không còn sanh tử luân hồi, gọi là trường sanh liễu tử.
Bây giờ mở cho một con đường đi tới để thọ truyền bí pháp là từ nay nơi tu xá nầy có một đàn cơ dạy về pháp môn giải thoát. Chư nữ đồ học lấy pháp môn nầy để mở lần căn trí, ngày công phu tịnh định để an dưỡng tinh thần, tâm linh sáng suốt, quang năng được mở mà thông thấu huyền cơ. Chớ nói đến pháp môn vô vi là một điều khó. Tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời. Nghĩa là một kiếp tu không thấy gì, ngồi mãi chờ cho được chứng lục thông, khai cửu khiếu. Nhưng có khi mười năm, hai mươi năm hoặc năm bảy mươi năm. Một giờ chứng ngộ mà phi thăng chớ không phải bữa nào công phu, bữa nào cũng chứng ngộ.
Tại sao vậy? Nếu pháp tu mà ấn chứng dễ dàng thì tà thuyết ngoại đạo. Chư hiền nữ cũng thấy sáu năm dưới gốc bồ đề Đức Phật Thích Ca thành đạo trong một giờ. Cũng như mấy mươi năm tu hành A Nan đã chứng túc mạng thông một khắc, thì dễ sao được. Vậy cứ thế mà phát nguyện.
Dòng tu Bảo Thọ được chính thức thành lập ngày 08-02 Kỷ Hợi (16-3-1959).
Về mặt vô hình: Phần quyền pháp lãnh đạo có Đức Giáo Tông Vô Vi. Phần huấn đạo chỉ điểm pháp môn tu học có Đức Ngô Tôn Sư. Phần dìu dắt, hộ đạo có Đức Bảo Thọ Thánh Nương.
Về mặt hữu hình: Dưới quyền pháp lãnh đạo của Hội Thánh. Dòng tu có một gia trưởng và một gia phó chịu trách nhiệm điều hành.
Nhà tu Phước Huệ Đàn tại Tam Kỳ là nhà tu trung ương gồm các tu sĩ Quảng Nam, Đà Nẵng. Còn dòng tu tại các tỉnh cũng được thành lập riêng. Tổng cộng số tu sĩ toàn Hội Thánh là chín mươi hai người, trong đó hàng chức sắc giáo phẩm cũng đăng đàn hồng thệ cùng với Hội Thánh.
PHẠM VĂN LIÊM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét