Thánh Thất Thái Hòa, ngày 01-9-ĐĐ.30 (Ất Mùi)
(16-10-1955)
THI
BẢO chư Đạo hữu lập công đầu,
NGUƠN hạ lần ba lắm khổ đau;
CHƠN lý hiện ra ai sớm biết?
QUÂN tâm mới đạt đến cơ mầu.
Chào chư Thiên ân, chư đệ.
Đọc lại bài trước. (tiếp bài trước).
Tại sao nói là mầu nhiệm?
Tại con số 1 là con số ẩn hình, mà cũng là con số độc nhất của vũ
trụ. Nó là tự thể, nghĩa là không nương đâu mà có, nên gọi là mầu nhiệm. Mà có
để mà có, có để mà không, có không cũng mầu nhiệm!
Số độc nhất là Đạo hay là THƯỢNG ĐẾ. Mà THƯỢNG ĐẾ là chơn tánh của
vũ trụ. Tánh ấy trọn lành, không tịch mà huyền minh, hàm tàng mà thường trụ, là
chơn như tự thể, huyền huyền cương kiện, mầu nhiệm vô cùng!
Không hình, sắc, thanh, khứu nên gọi là ”không”. Lặng lẽ thăng
bằng nên kêu là “tịch”. Không thay đổi biến trá nên nói rằng “chơn”. An nhiên
thường trụ cho là “như”. Sâu kín đầy đặn gọi là” huyền huyền”. Mạnh mẽ vững
chắc nên nói là ”cương kiện”.
Vì Tánh được thế ấy, bất dịch bất di, làm chủ ở tâm người, thống
ngự cả Trời Đất. Người được Tánh đó Trời ban phú cho, thì Người với Trời là
một.
Người nhờ linh giác của tánh chiêu nhiên cách cảm mà có lương tri,
lương năng. Lương năng không cần học hỏi mà hay. Lương tri không cần suy nghĩ
mà biết. Mối tri năng có được là nhờ chơn thường thanh tịnh mà suốt thông cơ
mầu nhiệm của Tạo hóa. Người nhờ mối tri năng nên hay đạt cơ tận thức mà siêu
hóa lên cõi siêu nhiên, làm chủ được tâm
người mà điều khiển cả hành vi
động tác cơ hữu hình.
Mà linh giác nơi tự thể ẩn khuất vô vi, rất tế nhị, tế huyền,
không thể dùng mắt phàm tai tục mà nghe mà thấy được, nên số 1 phải đứng sau
con số 2.
Con số 2 là cơ năng hiển hiện, có thể thấy được, nghe được mà cũng
không thể nghe, không thể thấy được là vì bán hữu bán vô, nửa Đời nửa Đạo, hồn
xác ký lưu.
Số 2 là số phân hình lập pháp của Tạo công, cơ quan lưu tán điều
hòa và nhóm khởi tại đó.
Số 2 là Khí hóa, ta cũng tạm mượn lấy danh từ mà gượng đặt tên cho
nó là Tri giác. Tri giác nơi Trời hay nơi Tâm ở người là một cơ quan yếu trọng
làm cho hồn xác nương nhau, thuận với lẽ sanh tồn theo cơ lưu hành của Tạo hóa.
Cơ lưu hành buộc tất thảy vạn pháp trong vũ trụ phải thuận theo để
cho Càn Khôn nhơn vật có một sự điều hòa trật tự, đều phải nương tựa lẫn
nhau để an bài hòa khí.
Cơ lưu hành lôi cả lương tri, lương năng quay chuyển theo bánh xe
thiên lý mà thi thiết sự hành động để tiến triển theo luật tuần huờn, sớm về
hợp một cùng Trời, yên ngôi nơi Bồng Lai Tiên Cảnh.
Số 2 là cơ lưu hành thiên lý, mà cũng hay nhóm khởi các ý thức để
tạo thành hình thể vũ trụ. Vũ trụ hay chúng sinh đều do Đất, Nước, Gió, Lửa
Không khí và Thức dựng nên gọi là Lục đại. Lục đại hay Thể đại là hình thể của
vũ trụ, hình thể ấy chưa gọi là Pháp, vì chưa có tự thể chơn tánh, mà tự thể và
linh thể đã cấu thành, hàm tàng cơ động tịnh gọi là Pháp.
Pháp là cơ quan HIỆP THIÊN ĐÀI giữ chặt, thời HIỆP THIÊN ĐÀI làm
trung gian: Phi ẩn, phi hiện, nhi ẩn, nhi hiện. Phi ẩn nhi ẩn, mới suốt thông
hiển đạt lẽ mầu nhiệm linh giác linh năng. Phi hiện nhi hiện mới tiếp giao các
thể hữu hình, hữu sắc mà đem hình sắc hòa với linh năng, đem linh năng hiệp
cùng hình sắc.
Hình sắc là Đời, Linh năng là Đạo thì đem Đạo cứu Đời hay đem Đời
về Đạo. Vì thế mà con số 2 phải nối liền với con số 3 và con số 1.
Con số 3 là CỬU TRÙNG ĐÀI. Nó là hình của Đạo. Hình thì được mực
thường, mà giữ lấy mực thường thì bốn biển hòa vui, càn khôn an lạc. Hình nương
nơi tánh, tánh dựa nơi hình, để làm tròn cái thiên mạng là luật tự nhiên. Luật
ấy ở trong mọi giống mọi loài, bàn bạc ẩn tàng trong vũ trụ.
Nhưng vì hình phải nương nơi thể, mà thể do thức làm chủ nhóm khởi
phân tán. Mà thức làm chủ sự động thì hình thể khó yên. Muốn khỏi biến thay
điên đảo vô thường thì thức phải tùng luật pháp của cơ lưu hành mà khiển định
lấy tình lấy ý.
Thức như thế nên hay vọng. Vọng thì sinh ý. Ý động lại sinh tình.
Thức, Ý, Tình vọng động liên tiếp mà được thuận thời hợp Đạo, kết nhiều duyên
lành quả tốt, thì gọi Thức là tự thể thức, Ý gọi là ý chỉ, Tình gọi là tình
đồng. Còn vọng động xao xuyến liên tiếp, bị vật chất lôi cuốn đi ngoài lẽ phải,
xa Thiên ý thì gọi Thức là tạp thức, Ý là vọng ý, Tình là dục tình. Ý Tình như
thế tạo thành nghiệp quả muôn kiếp lôi theo trong vòng sanh tử luân hồi mà chôn
lấp linh năng tự tánh.
Nên CỬU TRÙNG ĐÀI, hay hình thể vũ trụ, phải chịu dưới quyền lập Pháp
của CHÍ TÔN.
Mà quyền Lập Pháp nơi BÁT QUÁI ĐÀI đã được ban hành thì lẽ tất
nhiên Thầy đặc nhiệm vào Cơ quan HIỆP THIÊN ĐÀI giữ phần Bảo pháp.
Và HIỆP THIÊN ĐÀI theo hình đồ của Đông Phương Lão Tổ đã vạch thì
Đức Ngài cũng dựa theo Cửu Trùng Thiên cảm sinh hóa dục.
Hình đồ chia làm hai phần:
Phần trên là Vô vi: Biểu thị cho linh năng
linh giác, phần làm chủ cho cơ mầu nhiệm. Cơ mầu nhiệm ở đâu thì Đạo ở đó, nên
tượng trưng NHỨT
KHÍ HÓA MUÔN TRÙNG.
Số 1 là ĐẠO, là Chơn Nhất, Chơn Nhất hay Thái Hư. Thái Hư đã phân
hình Lập Pháp gọi là ĐẠO. Một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật, rồi vạn
vật cũng trở về một. Vì lẽ mầu nhiệm kia mà có BA NGÔI. Ba ngôi lập 3 cõi Trời
THÁI, THƯỢNG, NGỌC Thanh hay là 3 Khí. Mỗi Khi lại hóa 3 Khí nữa thành 9 Khí.
Chín lại hóa 3, mỗi đơn vị thành 27, cộng 9 là thành 36 (27 + 09 = 36) gọi là
TAM THẬP LỤC THIÊN. Thiên đây là Thanh Thượng Dương Quang hạo khí.
2. Phần dưới có 3 + 6 + 12 . 3 hữu vi nương với 3
vô vi gọi là hồn hợp xác. 3 với 3 thành 6; 6 nhơn 6 thành 36, hay 6 nhơn 12
thành 72. 72 là THẤT THẬP NHỊ ĐỊA. Địa đây là Nhiệt Huyền Hậu Thiên Âm Khí. Vì
lẽ đó mà nơi đây ngôi hữu hình đối hàm chỉ ngang bực Giáo sư trở xuống. Mà cơ
lập pháp nơi Trung Tông cũng quyền hành do đó mà ra. Các Hiền coi rồi vạch định
con đường thực tập.
THI
Các đệ xuyên qua mấy cõi lòng,
Để coi mầu nhiệm đấng Thiên Công;
Úp nghiêng lật ngửa Đời trong nháy,
Bước Đạo dò nương mỗi nhắc phòng.
( Chú
ý )
Thôi, chào chư
Hiền và các bạn./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét