Tác giả C. W. LEADBEATER
Dịch giả: LÊ TOÀN TRUNG
HUYỀN BÍ HỌC
Trích ẨN DIỆN CỦA SỰ VẬT
(THE HIDDEN SIDE OF THINGS)
Danh từ “Huyền bí học” từng bị hiểu rất sai lạc. Người vô học còn nghĩ rằng nó đồng nghĩa với ảo thuật và họ xem sinh viên huyền bí như những kẻ sử dụng tà thuật, mặc áo đỏ, vẽ bùa, ngồi giữa những đồ vật dị hình với con mèo mun quen thuộc, đang triệu quỉ ma giúp chế tạo thuốc tà.
Ngay hiện nay, trong số người có học thức không còn dị đoan, như thế cũng còn có kẻ chưa hiểu đúng. Gốc La tinh chữ Occultist có nghĩa là “khoa học những điều bí ẩn”, nhưng họ lại khinh thường coi như vô nghĩa và không thực dụng, liên quan với chiêm bao và bói toán với sự loạn thần kinh, phép cầu hồn, tìm thuốc trường sinh và đá luyện vàng. Còn sinh viên đáng lẽ là người phải hiểu rõ hơn, lại luôn nói dường như phía vô hình của sự vật bị cố tình che lấp và sự hiểu biết về điều ấy đáng lẽ phải được đưa đến tay mọi người thì lại bị một thiểu số người ích kỷ cố tình giữ lại. Sự thật là không có điều gì có thể được giấu kín đối với chúng ta, ngoại trừ do bởi những khả năng hạn chế của chính chúng ta mà thôi. Và đối với mỗi cá nhân, trong khi y lần lần tiến hóa thì thế giới càng mở rộng thêm mãi vì y có thêm khả năng nhìn thấy thế giới càng ngày càng vĩ đại và mỹ lệ hơn.
Để phản đối lời quả quyết trên, người ta có thể nêu ra một sự kiện đã được biết rõ là ở vào mỗi cuộc Đại Điểm đạo đánh dấu những giai đoạn tiến bộ trên đường tiến hóa cao sâu hơn, vị tân tín đồ được truyền thụ một số tri thức mới. Quả thật vậy, nhưng nếu những tri thức đó được ban ra, đó là vì người thọ lãnh đã tiến đến trình độ khả dĩ lãnh hội được. Tri thức này chưa thể truyền cho thường nhân, giống như tri thức về các tiết diện hình nón chưa được dạy cho em bé còn đang vất vả học bảng cửu chương. Khi nào em đủ sức hiểu nổi các phương trình bậc hai, thì thầy sẽ sẵn sàng giảng cho em những qui tắc ấy. Giống y như thế, vừa khi một người luyện đủ những điều kiện thiết yếu để thọ lãnh những giáo lý truyền thụ trong một cuộc Điểm đạo thì y sẽ được truyền thụ tức khắc. Nhưng phương thức duy nhất để có thể thông hiểu thấm nhuần tri thức cao siêu này là phải khởi công cố gắng hiểu biết điều kiện hiện thời của chúng ta rồi xếp đặt đời sống hiện thời của chúng ta một cách khôn ngoan phù hợp với những sự kiện đã tìm thấy. Như thế, Huyền bí học là sự nghiên cứu ẩn diện của thiên nhiên hay nói đúng hơn là sự nghiên cứu toàn thể thiên nhiên, thay vì chỉ có một phần chật hẹp nằm trong lĩnh vực nghiên cứu của khoa học hiện thời. Ở vào giai đoạn phát triển của chúng ta hiện nay đa số nhân loại hoàn toàn không biết đến cái phần lớn lao hơn của thiên nhiên vì họ mới phát triển được một phần nhỏ của tất cả quyền năng ẩn tàng trong mình họ. Vì thế, một thường nhân ví dù có được một triết lý sâu xa cũng chỉ xây dựng nó trên những nền tảng hoàn toàn thiếu sót. Y mới hiểu được một số ít luật trời và chiếu theo đó mà uốn nắn hành vi của y cho được ít nhiều phù hợp. Do đó mà lý thuyết về đời sống cùng đường lối thực hành hằng ngày của y tất nhiên phải sai lạc. Nhà Huyền bí học chọn một quan điểm bao quát sâu rộng hơn nhiều. Y chú trọng đến thế lực ở mấy cõi trên mà ngươì duy vật không sao nhìn thấy cách thức tác động, rồi nhân đó mà y uốn nắn đời sống của mình cho phù hợp với toàn thể luật trời, thay vì chỉ thỉnh thoảng thuận theo một phần nhỏ nhoi.
Người không biết về mặt huyền bí thì khó mà hiểu rằng chính khả năng của y đã hạn chế y cách sâu xa nghiêm trọng đến thế nào. Cách duy nhất để biểu thị những hạn chế đó là giả thiết có một trạng thái tâm thức nào đó còn bị hạn chế hơn tâm thức của chúng ta và khác biệt trên những chiều hướng nào đó. Thí dụ tâm thức đó chỉ tri giác được thể đặc mà thôi, cho nên đối với nó thì cái thể lỏng và thể hơi tuyệt nhiên không có (cũng như những hình thể cấu tạo bằng những chất dĩ thái, chất trung giới và chất thượng giới là không có thật đối với người thường). Chúng ta dễ thấy rằng một tâm thức như thế không làm sao có được một quan niệm đầy đủ về cõi đời chúng ta đang ở. Chất đặc là chất duy nhứt mà tâm thức ấy có thể cảm giác được. Chất đặc này lại đang bị biến đổi trầm trọng không ngừng khiến cho tâm thức không thể nào thiết lập được một lý thuyết hợp lý.
Thí dụ sau khi mưa to, đất bị ẩm ướt nên mềm và nặng hơn trước. Thể đặc của đất bị biến đổi nhưng nguyên nhân của sự biến đổi thì tâm thức này chẳng thể nào hiểu được. Gió có thể thổi cát bay và di chuyển cát từ nơi này đến nơi khác nhưng nếu ta không có quan niệm về sự hiện hữu của không khí thì không thể hiểu được sự di chuyển của chất đặc. Không cần thêm những thí dụ quá hiển nhiên chúng ta cũng nhận thấy rõ rệt một quan niệm như thế về cuộc đời thật là thiếu sót đến tuyệt vọng biết bao nhiêu. Nhưng chúng ta chưa nhận định được rõ rệt và rõ ràng rằng tâm thức giả tỉ này kém khuyết so với tâm thức hiện thời của chúng ta kém khuyết so với tâm thức của ngươì tiến hóa như thế ấy.
Những nhà nghiên cứu Thông Thiên Học, ít ra trên mặt lý thuyết đều quen nghĩ rằng mỗi sự vật đều có khía cạnh ẩn khuất của nó. Họ cũng biết rằng trong đa số trường hợp, phần vô hình còn quan trọng gấp bội phần mắt trần thấy được.
Giải thích ý tưởng trên theo một quan điểm khác thì những giác quan để nhận biết sự vật bên ngoài đến nay cũng chưa được phát triển toàn hảo, do đó chúng ta chỉ biết phần ở ngoại cảnh. Những gì chúng ta thấy ở xung quanh mình không hẳn là tất cả những sự vật cần được trông thấy và người nào chịu khó luyện tập giác quan sẽ nghiệm thấy rằng khi y càng tiến bộ thì đời sống càng trở nên phong phú và dồi dào hơn đối với y. Một sân trường đầy lạc thú, linh động phi thường sẽ mở ra ngay trước mắt người yêu thích thiên nhiên, nghệ thuật, âm nhạc nếu y tập đủ điều kiện để bước vào đó. Ai biết yêu thương đồng loại thì có khả năng thông hiểu thâm sâu hơn và do đó giúp ích họ nhiều hơn.
Chúng ta hiện nay chỉ vượt lên đến chặng giữa con đường tiến hóa, do đó những giác quan của chúng ta chỉ mới phát triển được nửa phần. Nhưng chúng ta có thể thu ngắn lộ trình bằng cách chuyên cần luyện tập các giác quan của chúng ta ngay bây giờ có đủ năng tính như các giác quan của nhân loại trong một tương lai xa thẳm. Người nào thành công được gọi là người có nhãn thông.
Danh từ “người có nhãn thông” có nghĩa là “người thấy tỏ rõ” nhưng thiên hạ đã lạm dụng và hạ thấp giá trị nó, xem như các hình thức lường gạt mạo nhận, như mánh khóe của mấy bà bói dạo được đặt chút tiền quẻ liền bảo cho cô tớ gái biết màu tóc của ông hầu tước sẽ cưới cô, hoặc đoán tương lai cho khách thượng lưu.
Lối hành động này thật may rủi và chẳng khoa học, lắm khi là cách làm tiền xảo trá và bốc lột trắng trợn. Nhưng không phải là luôn luôn như vậy. Người ta có thể thấy được tương lai đến một mức nào đó, điều này đã và đang được làm nhiều lần rồi. Chắc hẳn vài người bói toán trên cũng đã thỉnh thoảng thấy được vài hình ảnh vô hình, nhưng không phải lúc nào họ muốn là thấy được.
Nhưng sau những điều mơ hồ này có một nền tảng vững chắc mà người ta có thể bàn đến một cách hợp lý và khảo cứu theo khoa học. Sau nhiều năm nghiên cứu và kinh nghiệm, tôi quả quyết xác nhận những điều tôi đã viết là con người có thể khai triển giác quan của mình để thấy được tại thế giới kỳ diệu và mỹ lệ này có rất nhiều sự vật mà những người tiến hóa trung bình vẫn nghi ngờ là không có thật nên y bằng lòng sống giữa cảnh âm u mà cho là sáng sủa.
Cách đây 2 ngàn rưởi năm, đấng giáo chủ cao siêu nhất bên Ấn Độ là Đức Phật Gautama có nói với môn đệ như vầy: “Đừng than phiền, kêu khóc và cầu nguyện, mà hãy mở mắt ra và thấy. Chân lý đang ở chung quanh các ngươi. Nếu các ngươi quyết chí gỡ bỏ miếng vải bịt mắt rồi nhìn xem thì sẽ thấy rõ Chân lý xiết bao kỳ diệu, mỹ lệ, vượt khỏi những ước mơ hay cầu khẩn của người đời. Chân lý tồn tại mãi mãi, mãi mãi.”
Chắc chắn là Ngài muốn nói rất nhiều điều hơn những gì tôi viết nơi đây. Nhưng ít ra tài liệu này cũng giúp được một bước trên con đường dẫn đến mục đích vinh quang của sự hiểu biết trọn vẹn. Nếu nó chưa trình bày với chúng ta tất cả sự thật, thì dẫu sao nó cũng bộc lộ một phần lớn. Nó loại trừ nhiều quan niệm sai lầm thông thường và giải rõ nhiều điểm mà người chưa được học hỏi về môn này cho là bí nhiệm hoặc nan giải. Nó chỉ cho ta thấy rằng sở dĩ tất cả sự vật này có vẻ bí hiểm và nan giải đối với chúng ta là bởi từ trước đến nay chúng ta chỉ thấy một số ít sự kiện, chỉ nhìn từ dưới lên những hình thể vật chất khác nhau nên chúng nó là những mảnh đơn độc và rời rạc. Chúng ta phải vượt lên đến một điểm cao để trông xuống mới nhận thức được các vật thể biểu lộ như thành phần của một toàn thể hùng cường. Nó giải quyết ngay nhiều vấn đề đang còn bàn cãi sôi nổi như vấn đề sự hiện hữu sau khi con người bỏ xác. Nó giải thích nhiều chuyện dị thường do Giáo hội Cơ đốc truyền dạy. Nó xua đuổi sự vô minh và lo âu về những điều chưa biết bằng cách chỉ cho chúng ta thấy một chương trình hợp lý và trật tự.
Ngoài ra nó còn mở rộng một thế giới mới lạ đối diện với cảnh sống hằng ngày của chúng ta, một thế giới mới mẻ nhưng lại là một phần của thế giới cũ. Nó cho thấy ẩn diện nơi mỗi sự vật và những hành vi thông thường nhất của chúng ta cũng thường phát sinh những kết quả mà chúng ta không bao giờ biết được nếu không có sự nghiên cứu này. Nhờ nó ta hiểu được sự hữu lý của thần giao cách cảm. Ta thấy có những làn sóng của nhiệt, quang và điện; cũng thế có những làn sóng phát sinh do tư tưởng tuy rằng những làn sóng sau này làm bằng một vật chất thanh mịn hơn và vì thế mấy giác quan hồng trần của chúng ta không nhận thức được. Nhờ nghiên cứu những làn rung động này, chúng ta thấy tư tưởng tác động như thế nào. Chúng ta học hiểu rằng nó là một quyền năng phi thường để hành thiện hoặc tác ác - một quyền năng mà chúng ta đều sử dụng vô ý thức. Khí đã hiểu cách thức hoạt động của nó chúng ta có thể phát huy gấp trăm lần hiệu quả của nó. Đi sâu vào cuộc nghiên cứu hơn nữa, chúng ta sẽ khám phá phương pháp cấu thành “hình thể tư tưởng” và cách sử dụng chúng hữu ích cho mình và cả người khác theo nhiều đường lối khác nhau.
Nhà huyền học nghiên cứu kỹ càng tất cả hiệu lực vô hình ấy nên biết được kết quả những việc y làm đầy đủ hơn mấy người trước. Y hiểu biết hơn về sự sống và sử dụng tính năng xét đoán chí lý (common sense) để biến cải cuộc đời của y phù hợp với những điều hiểu biết. Chúng ta sống khác với tổ tiên ngày xưa theo nhiều cách và chúng ta hiểu biết nhiều hơn. Chúng ta tìm thấy vài phép vệ sinh, người khôn ngoan sống theo sự hiểu biết vì thế đời sống trung bình của họ hẳn rất dài hơn người trung cổ. Thế mà còn có những kẻ dại khờ hay vô học không biết phép dưỡng sinh hoặc thờ ơ chẳng tuân theo, họ không thấy những vi trùng bệnh nên cho là không quan trọng. họ không tin những kiến thức mới mẻ. Khi có bệnh dịch họ là người chịu đau khổ đầu tiên và một cách không cần thiết. Chẳng những họ tự hại vì tánh cẩu thả mà bởi vô minh và lơ đểnh nên họ thường mang mầm bệnh đến một vùng khác đáng lẽ có thể tránh khỏi bệnh nếu không có họ gây ra.
Vấn đề tôi luận giải nơi đây cũng giống như trên nhưng ở một vị trí khác. Kính hiển vi phát giác vi trùng bệnh. Người thông minh lợi dụng sự khám phá ấy để tổ chức lại cuộc sống, còn người tối trí thì chẳng lưu tâm và tiếp tục sống như trước. Nhãn quan siêu phàm tiết lộ hiệu lực của tư tưởng và nhiều quyền năng khác trước kia mà không ai ngờ có. Một lần nữa người thông minh lợi dụng sự tiết lộ trên để sắp xếp lại cách sống. Và một lần nữa kẻ tối dạ cũng không chú ý đến những khám phá mới mẻ; y lại nghĩ đến điều nào không thấy được thì chẳng quan trọng gì. Do đó y cứ tiếp tục thọ khổ cách hoàn toàn vô ích vì y không biết sống kịp thời.
Chẳng những y thường chịu nhiều đau khổ mà y còn mất hưởng biết bao lạc thú cuộc đời. Hội họa, âm nhạc, thi phú, văn chương, nghi lễ tôn giáo, cảnh đẹp thiên nhiên, luôn luôn có chứa một phía ẩn khuất - một sự sung mãn, một sự đầy đủ vượt ngoài phạm vi vỏn vẹn vật chất. Ai có khả năng trông thấy hoặc cảm giác được phía ẩn khuất thì hưởng được lạc thú tràn trề ngoài tầm hiểu biết của những người chưa có quan năng khai thông, họ đi qua các lạc thú trên mà không hay biết gì cả.
Những quan năng tri giác này có sẵn trong mỗi người tuy rằng chưa được mở mang trong đa số dân chúng. Cần nhiều thời giờ và công phu để khai mở nó, nhưng thật là xứng đáng. Song le, nếu ai chưa có những lý do trong sạch và vị tha thì xin đừng gắng công làm gì, vì người nào không có những mục đích cực kỳ thanh tao mà tìm cách khai triển linh năng thì chỉ rước lấy thiệt hại thay vì ân phước.
Những người bận việc không đủ thời giờ để luyện những quyền năng đó nhưng không vì lẽ ấy mà y không được hưởng một vài lợi ích của sự khảo cứu huyền bí, cũng giống như một người không có kính hiển vi vẫn được phép áp dụng vệ sinh vào đời sống. Y không “thấy được vi trùng bệnh”, nhưng dựa theo bằng chứng của nhà chuyên môn, y biết rằng những vi trùng ấy có thật và biết cách ngừa chúng. Tương tự thế, người chưa khai mở nhãn thông cũng có thể nghiên cứu sách vở của những người đã khai mở rồi và lợi dụng được kết quả công phu của họ. Đúng là y chưa có thể nhìn thấy tất cả cảnh vật huy hoàng và mỹ lệ còn ẩn khuất do giác quan bất toàn của y, nhưng y có thể học ngay cách tránh những mối hại vô hình, cách phát động thế lực vô hình xây dựng điều thiện. Mặc dầu còn lâu y mới mục kiến cụ thể những thế lực vô hình, nhưng giờ đây có thể tự chứng minh sự hiện hữu của chúng. Giống như người điều khiển một động cơ điện có thể tự chứng cho mình nhận thức sự hiện hữu của điện mặc dầu y chưa nhìn thấy điện và chẳng biết điện là gì.
Chúng ta phải tận lực tìm hiểu thế giới ta đang ở. Chúng ta chớ trễ trào lưu tiến hóa, cũng đừng lỗi thời vì thiếu lưu tâm đến những phát kiến vô hình.
Thật ra chúng chỉ là một sự trình bày nền minh triết tối cổ theo một quan điểm mới mà thôi. “Tri thức là quyền năng” và muốn bảo đảm kết quả tốt nhất, chúng ta luôn luôn phải thực hành một lượt ba nguyên lý vinh diệu hợp trong nhứt thể là: quyền năng, minh triết và từ ái.
Tuy nhiên có sự khác biệt giữa sự hiểu biết và sự thành công thiết thực. Tôi nghĩ rằng tác phẩm này giúp những sinh viên dần hiểu được những thực tại, hiểu được những quang cảnh ẩn khuất của những hành vi giao dịch hằng ngày như chúng hiện ra trước mặt người có nhãn thông. Chúng ta hãy cho người có nhãn thông là người đã luyện được nơi y quyền năng tri kiến xuyên qua thể Cảm dục, thể Hạ trí và thể Thượng trí. Nếu nhìn bằng thể Bồ Đề thì những hành vi giao dịch ấy còn rộng lớn và hiệu lực hơn nữa, nhưng không thể nào diễn tả được vì ở cõi đó mọi kinh nghiệm đều nhận được ở nội tâm con người thay vì ở ngoại giới. Sự vinh quang và mỹ lệ của cảnh trạng ở cõi này không còn là cái gì ở bên ngoài để con người ngắm nhìn mà là cái cảm giác ở tận đáy lòng vì nó là một thành phần của y.
Mục đích của quyển sách này đưa ra vài nét sơ dẫn liên quan đến nội cảnh của thế giới toàn thể và đời sống hằng ngày. Chúng ta sẽ khảo sát đời sống này theo ba phần giống với ba giai đoạn khi linh hồn của chúng ta tiến hóa từ thuở còn thơ đến lúc trưởng thành theo thứ tự thời gian là: thụ động, trung gian và tác động.
- Chúng ta chịu ảnh hưởng như thế nào.
- Chúng ta tự ảnh hưởng như thế nào.
- Chúng ta ảnh hưởng người khác như thế nào.
Và để kết thúc, chúng ta sẽ quan sát vài kết quả tất yếu do sự hiểu biết rộng rãi hơn về phía ẩn khuất của sự vật đối với những việc thực tế trong đời sống con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét