Tiếp Pháp Trương văn Tràng
Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng : " Ta vì lòng Đại Từ, Đại Bi , lấy đức háo sanh dựng nên mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ , tôn chỉ là : vớt kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng tránh khỏi số mạng luân hồi ; và nâng đỡ kẻ có tánh đức bước vào cõi nhàn cao hơn phẩm hèn khó ở cõi trần thế nầy."
Thể theo Thánh ngôn trên đây , Tân luật Đại Đạo ấn định tín đồ của Đại Đạo chia ra 2 bực : Thượng Thừa và Hạ Thừa.
Thượng thừa là người xuất thế gian , nghĩa là người đã phế Đời theo Đạo , họ chẳng còn bận rộn thế sự mà chỉ lo tự giác để rồi đem cái sở đắc của mình mà giúp cho người khác cũng khai sáng như mình . Tân luật lại định rằng Chức sắc Hội Thánh từ Giáo Hữu dẫn lên phải chọn trong hàng Thượng thừa.
Hạ thừa là những còn ở thế , vừa làm nhơn sự , vừa học thiên đạo . Tân luật quy định cho lớp này phải làm tròn bổn phận làm người , như bổn phận đối với xã hội , gia đình, bản thân, Hội Thánh , người đồng Đạo v..v...
HỌC ĐẠO và HÀNH ĐẠO
Hai chữ " HỌC HÀNH " , chúng ta phải phân tách cho chu đáo , hầu tránh sự nông nổi của mình bởi vì học là một việc , hành là một việc khác nữa. Hai phép học hành hiệp lại thì nó mới có thể đem lại cho người học kết quả mỹ mãn. Ấy vậy , nên chúng ta chia học hành chia học hành ra làm hai giai đoạn là : Lý thuyết và thực hành.
Phần lý thuyết :
Phần lý thuyết , ai cũng biết rằng : Khi mới khai đạo Đức Chí Tôn giáng cơ lập pháp luật , quy điều, lễ nghi , thờ phượng tế tự và dạy chúng ta học : từ nhơn đạo đến thiên lý. Và trước khi ngưng bút , Đức Chí Tôn còn dặn rằng : Kinh điển của Tam giáo vẫn còn ẩn tàng một phần chơn truyền yếu lý mà chúng ta cần phải tham khảo tinh tường để làm sáng thêm giáo lý của mình ; về nền tảng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là quy nguyên Tam giáo .
Xem đó , thì giáo lý của Đại Đạo cao thâm , hoằng viễ là ngần nào ; nhưng chúng ta nên biết rằng học lý thuyết chưa đem lại sự kết quả nào đáng kể cho kẻ tu hành . Tỷ như mỗi ngày chúng ta đều tụng kinh "hùynh đình " , tụng không vấp một chữ , tụng đến thuộc lòng mà không thực hành thì sự thuộc lòng ấy chưa có đem lại cho chúng ta đức hạnh chói rạng. Ấy vậy , nên hễ muốn thành đạo thì chúng ta phải thực hành giáo lý nữa . Tức là chúng ta phải học và phải làm thế nào cho giáo lý nhập tâm và biến thành đức tánh , để rồi áp dụng vào đời sống thực tế của mình ( năng thuyết bất năng hành ) Đó là phương pháp tu âm luyện tánh vậy. Về phương diện thực hành giáo lý , Đức Chí Tôn có lập tại thế gian một trường công quả , cả môn đệ của Người phải theo đó mà tập luyện.
* Vậy CÔNG QUẢ là gì :
Người nông phu cày cấy và làm công ; tới mùa anh ta gặt lúa là hái quả. Hễ cày cấy nhiều thì lúa thóc nhiều , cấy ít thì lúa thóc ít. Đó gọi là công quả của người nông phu . Kẻ tu hành cũng vậy . Hễ công dáy thì quả lớn. Công ít thì quả nhỏ. Luật thưởng phạt không hề tư vị một ai cả. Nay muốn cho hiểu rõ thế nào gọi là CÔNg QUẢ của kẻ tu hành ; chúng tôi tạm chia công quả ra hai mặt gọi là Công quả nội và Công quả ngọai.
Công quả nội : cũng gọi là công đức , phươn g pháp thực hành . Công đức là học giả phải gia công học hỏi cho thấu triệt chơn lý , cố gắng thực hành thế nào cho chơn lý biến thành đức hạnh để rồi áp dụng vào đời sồng thực tế của mình , như đã nói trên .
Tại sao phải thực hành công đức ? Vả chăng , tâm tánh chúng ta , từ khi nhập thế cuộc đến bây giờ , đã trược nhiễm nhiều vọng chấp : nào là thành kiến , nào là tật xấu , nào là nết hư , nhứt là thói ích kỷ , là một trở ngại lớn trong cuộc cảm ứng giữa Trời và Người. Như vậy , nếu chúng ta chẳng dụng công tịnh luyện , đả phá thật sạch cái màn vô minh ấy thì làm thế nào để đi đến cảnh toàn giác . Đó là nói về thực hành công đức . Còn như hỏi làm thế nào cho mình trở nên người có đức ? Thì chúng ta phải học cho hiểu đạo lý ; phải hỏi cho rõ điều ngờ vực , suy nghĩ cho thông tỏ cái lý đã học , biện bạch cho tinh tường và cố gắng làm sao cho tật xấu biến thành tốt . Nói tóm lại , là : học , vấn , tư , biện, hành. Làm 5 phương pháp nầy để lập đức của mình .
Nói rút lại : Về công phu lập đức kẻ học hỏi phải làm cho thành , nói cho thành , công thành , ngôn thành , thì đức mới rạng. Trái lại , nếu công chẳng thành , thì lời nói không được bảo đảm ; mà lời nói không bảo đảm thì đức chẳng có chổ nương , để chói rạng. Làm được những điều ấy tức là : Lập Công , Lập Ngôn và Lập Đức vậy .
Công Quả ngọai : Là phụng sự cho chúng sanh. Chúng ta nhờ có tu công lập đức mà tâm tánh trở nên thuần nhiên thiên lý ; lúc bấy giờ lòng Bác Ái của chúng ta đã được mở rộng . Chúng ta biết thương người , biết mến vật . Rồi chúng ta nương theo cái lòng vị tha ấy mà giúp người giúp vật , được an vui theo lẽ Đạo ; nhứt là độ dẫn người đồng chủng được mau tiến bước trên đường tấn hóa thiên nhiên là một việc lành tốt, mà chúng ta nên chú ý cho lắm .
Tại sao chúng ta phải phụng sự cho chúng sanh ?
Vả lại , chúng sanh đều thọ sanh nơi một nguồn , học chung một THẦY và cùng nhau đồng đi trên một đường về cội sanh mình là Tạo Hóa thành thử trên đường sanh tồn , học vấn , cả chúng sanh đều có thiếu nợ lẫn nhau . Người ta cũng vậy , nghĩa là , người ta cũng chịu sự vay trả , trả vay như các chơn hồn khác . Đại để như : từ buổi đã được kết tạo trong thai bào , mỗi chơn linh đã phải chịu nợ tiền khiên rồi , tức là nợ kiếp trước ; đến lúc chào đời và trưởng thành thì lại nặng nợ xã hội , nhơn quần như : Ơn cấp dưỡng thức ăn , chổ ở, đồ mặc. Đó là sự nhờ vả lẫn nhau trên đường sanh nghiệp. Ấy vậy , nên mảnh thân phàm của người đến thế gian nầy chẳng phải để làm việc riêng cho mình mà là vì sự liên đới với vạn vật , nên chẳng có một cá nhân nào có quyền sống riêng , mà trái lại , phải đem kiếp sống mà phụng sự cho chúng sanh toàn thể , hoặc với cách này , hoặc với phương khác .
Nghiệp quả ấy , nếu biết thì có thể trả xong trong vòng một kiếp ; còn như chẳng biết , thì con người phải chịu luân chuyển trong biển tứ sanh , cùng đà sanh hóa mà cũng chưa ắt kham.
Tóm lại , hai phần công quả nói trên phải thực hành song song với nhau . Công quả nội , toàn thành công quả ngọai , giúp công quả nội đặng chóng kết liểu.
Công quả đối với kẻ tu hành rất quan trọng . Bài Thánh ngôn của Đức Chí Tôn kế đây đủ minh chứng sự quan trọng ấy .
Thánh ngôn : " Người ở thế gian muốn giàu phải tìm phương thế mà làm ra của . Ấy là phần vật chất , còn Thánh, Tiên, Phật muốn đắc Đạo thì phải công quả . THẦY đến độ rổi các con ,THẦY lập một trường công đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng là tại các con có muốn cùng chẳng muốn .THẦY nói cho các con nghe nếu chẳng đến trường THẦY mà đọat thủ địa vị thì chẳng đắc Đạo bao giờ. "
Còn một lẽ nữa là theo lý đương nhiên : Hễ có học thì phải có thi để rõ tài đức của học sinh . Thì sự tu hành cũng không ngòai công lệ ấy; nghĩa là : kẻ học phải chịu thử thách , coi phải mình là kẻ đạo đức chơn thật chăng ? " Vàng có lửa trui thì mới rõ vàng mười.".
Trong sự thực hành đạo đức từ thử chúng ta từ một vị Đại Thiên Phong đến một đồng nhi , ai cũng biết qua một phần nào rồi vậy. Điều nầy cổ nhân có trải qua và cũng có lưu lại lời nói trong kinh điển như vầy : " VÔ MA KHẢO, BẤT THÀNH ĐẠI ĐẠO " Không ma khảo thì Đại Đạo không thành. Lại nói : " ĐẠO CAO NHỨT XÍCH, MA CAO NHỨT TRƯỢNG. ĐẠO CAO NHỨT TRƯỢNG MA THƯỢNG ĐẦU NHÂN." Đạo cao một thước, thì ma cao một trượng , Đạo cao một trượng thì ma lên khỏi đầu người .
Gẫm lại, sự tu hành để giải thóat kiếp luân hồi khó khăn đến dường nào . Tuy thế mặc dù , mà từ xưa biết bao nhiêu người đã thành công đắc quả. Mà hễ một việc nào có người làm được thì việc ấy dễ chớ chẳng khó .
Than ôi ! Việc tu hành, kẻ nói khó , người nói dễ không biết đâu mà lường . Nhưng theo kinh nghiệm , chúng tôi hiểu rằng : khó hay dễ đều do mình cả . Nếu chí tâm hành Đạo , thì việc khó hóa dễ , còn như chán nãn thì việc dễ cũng hóa thành khó ./-
____________________________
( Trích dẫn TẬP SAN ĐẠI ĐẠO PHỔ THÔNG số 12 tháng 11 năm 1997 )
Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng : " Ta vì lòng Đại Từ, Đại Bi , lấy đức háo sanh dựng nên mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ , tôn chỉ là : vớt kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng tránh khỏi số mạng luân hồi ; và nâng đỡ kẻ có tánh đức bước vào cõi nhàn cao hơn phẩm hèn khó ở cõi trần thế nầy."
Thể theo Thánh ngôn trên đây , Tân luật Đại Đạo ấn định tín đồ của Đại Đạo chia ra 2 bực : Thượng Thừa và Hạ Thừa.
Thượng thừa là người xuất thế gian , nghĩa là người đã phế Đời theo Đạo , họ chẳng còn bận rộn thế sự mà chỉ lo tự giác để rồi đem cái sở đắc của mình mà giúp cho người khác cũng khai sáng như mình . Tân luật lại định rằng Chức sắc Hội Thánh từ Giáo Hữu dẫn lên phải chọn trong hàng Thượng thừa.
Hạ thừa là những còn ở thế , vừa làm nhơn sự , vừa học thiên đạo . Tân luật quy định cho lớp này phải làm tròn bổn phận làm người , như bổn phận đối với xã hội , gia đình, bản thân, Hội Thánh , người đồng Đạo v..v...
HỌC ĐẠO và HÀNH ĐẠO
Hai chữ " HỌC HÀNH " , chúng ta phải phân tách cho chu đáo , hầu tránh sự nông nổi của mình bởi vì học là một việc , hành là một việc khác nữa. Hai phép học hành hiệp lại thì nó mới có thể đem lại cho người học kết quả mỹ mãn. Ấy vậy , nên chúng ta chia học hành chia học hành ra làm hai giai đoạn là : Lý thuyết và thực hành.
Phần lý thuyết :
Phần lý thuyết , ai cũng biết rằng : Khi mới khai đạo Đức Chí Tôn giáng cơ lập pháp luật , quy điều, lễ nghi , thờ phượng tế tự và dạy chúng ta học : từ nhơn đạo đến thiên lý. Và trước khi ngưng bút , Đức Chí Tôn còn dặn rằng : Kinh điển của Tam giáo vẫn còn ẩn tàng một phần chơn truyền yếu lý mà chúng ta cần phải tham khảo tinh tường để làm sáng thêm giáo lý của mình ; về nền tảng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là quy nguyên Tam giáo .
Xem đó , thì giáo lý của Đại Đạo cao thâm , hoằng viễ là ngần nào ; nhưng chúng ta nên biết rằng học lý thuyết chưa đem lại sự kết quả nào đáng kể cho kẻ tu hành . Tỷ như mỗi ngày chúng ta đều tụng kinh "hùynh đình " , tụng không vấp một chữ , tụng đến thuộc lòng mà không thực hành thì sự thuộc lòng ấy chưa có đem lại cho chúng ta đức hạnh chói rạng. Ấy vậy , nên hễ muốn thành đạo thì chúng ta phải thực hành giáo lý nữa . Tức là chúng ta phải học và phải làm thế nào cho giáo lý nhập tâm và biến thành đức tánh , để rồi áp dụng vào đời sống thực tế của mình ( năng thuyết bất năng hành ) Đó là phương pháp tu âm luyện tánh vậy. Về phương diện thực hành giáo lý , Đức Chí Tôn có lập tại thế gian một trường công quả , cả môn đệ của Người phải theo đó mà tập luyện.
* Vậy CÔNG QUẢ là gì :
Người nông phu cày cấy và làm công ; tới mùa anh ta gặt lúa là hái quả. Hễ cày cấy nhiều thì lúa thóc nhiều , cấy ít thì lúa thóc ít. Đó gọi là công quả của người nông phu . Kẻ tu hành cũng vậy . Hễ công dáy thì quả lớn. Công ít thì quả nhỏ. Luật thưởng phạt không hề tư vị một ai cả. Nay muốn cho hiểu rõ thế nào gọi là CÔNg QUẢ của kẻ tu hành ; chúng tôi tạm chia công quả ra hai mặt gọi là Công quả nội và Công quả ngọai.
Công quả nội : cũng gọi là công đức , phươn g pháp thực hành . Công đức là học giả phải gia công học hỏi cho thấu triệt chơn lý , cố gắng thực hành thế nào cho chơn lý biến thành đức hạnh để rồi áp dụng vào đời sồng thực tế của mình , như đã nói trên .
Tại sao phải thực hành công đức ? Vả chăng , tâm tánh chúng ta , từ khi nhập thế cuộc đến bây giờ , đã trược nhiễm nhiều vọng chấp : nào là thành kiến , nào là tật xấu , nào là nết hư , nhứt là thói ích kỷ , là một trở ngại lớn trong cuộc cảm ứng giữa Trời và Người. Như vậy , nếu chúng ta chẳng dụng công tịnh luyện , đả phá thật sạch cái màn vô minh ấy thì làm thế nào để đi đến cảnh toàn giác . Đó là nói về thực hành công đức . Còn như hỏi làm thế nào cho mình trở nên người có đức ? Thì chúng ta phải học cho hiểu đạo lý ; phải hỏi cho rõ điều ngờ vực , suy nghĩ cho thông tỏ cái lý đã học , biện bạch cho tinh tường và cố gắng làm sao cho tật xấu biến thành tốt . Nói tóm lại , là : học , vấn , tư , biện, hành. Làm 5 phương pháp nầy để lập đức của mình .
Nói rút lại : Về công phu lập đức kẻ học hỏi phải làm cho thành , nói cho thành , công thành , ngôn thành , thì đức mới rạng. Trái lại , nếu công chẳng thành , thì lời nói không được bảo đảm ; mà lời nói không bảo đảm thì đức chẳng có chổ nương , để chói rạng. Làm được những điều ấy tức là : Lập Công , Lập Ngôn và Lập Đức vậy .
Công Quả ngọai : Là phụng sự cho chúng sanh. Chúng ta nhờ có tu công lập đức mà tâm tánh trở nên thuần nhiên thiên lý ; lúc bấy giờ lòng Bác Ái của chúng ta đã được mở rộng . Chúng ta biết thương người , biết mến vật . Rồi chúng ta nương theo cái lòng vị tha ấy mà giúp người giúp vật , được an vui theo lẽ Đạo ; nhứt là độ dẫn người đồng chủng được mau tiến bước trên đường tấn hóa thiên nhiên là một việc lành tốt, mà chúng ta nên chú ý cho lắm .
Tại sao chúng ta phải phụng sự cho chúng sanh ?
Vả lại , chúng sanh đều thọ sanh nơi một nguồn , học chung một THẦY và cùng nhau đồng đi trên một đường về cội sanh mình là Tạo Hóa thành thử trên đường sanh tồn , học vấn , cả chúng sanh đều có thiếu nợ lẫn nhau . Người ta cũng vậy , nghĩa là , người ta cũng chịu sự vay trả , trả vay như các chơn hồn khác . Đại để như : từ buổi đã được kết tạo trong thai bào , mỗi chơn linh đã phải chịu nợ tiền khiên rồi , tức là nợ kiếp trước ; đến lúc chào đời và trưởng thành thì lại nặng nợ xã hội , nhơn quần như : Ơn cấp dưỡng thức ăn , chổ ở, đồ mặc. Đó là sự nhờ vả lẫn nhau trên đường sanh nghiệp. Ấy vậy , nên mảnh thân phàm của người đến thế gian nầy chẳng phải để làm việc riêng cho mình mà là vì sự liên đới với vạn vật , nên chẳng có một cá nhân nào có quyền sống riêng , mà trái lại , phải đem kiếp sống mà phụng sự cho chúng sanh toàn thể , hoặc với cách này , hoặc với phương khác .
Nghiệp quả ấy , nếu biết thì có thể trả xong trong vòng một kiếp ; còn như chẳng biết , thì con người phải chịu luân chuyển trong biển tứ sanh , cùng đà sanh hóa mà cũng chưa ắt kham.
Tóm lại , hai phần công quả nói trên phải thực hành song song với nhau . Công quả nội , toàn thành công quả ngọai , giúp công quả nội đặng chóng kết liểu.
Công quả đối với kẻ tu hành rất quan trọng . Bài Thánh ngôn của Đức Chí Tôn kế đây đủ minh chứng sự quan trọng ấy .
Thánh ngôn : " Người ở thế gian muốn giàu phải tìm phương thế mà làm ra của . Ấy là phần vật chất , còn Thánh, Tiên, Phật muốn đắc Đạo thì phải công quả . THẦY đến độ rổi các con ,THẦY lập một trường công đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng là tại các con có muốn cùng chẳng muốn .THẦY nói cho các con nghe nếu chẳng đến trường THẦY mà đọat thủ địa vị thì chẳng đắc Đạo bao giờ. "
Còn một lẽ nữa là theo lý đương nhiên : Hễ có học thì phải có thi để rõ tài đức của học sinh . Thì sự tu hành cũng không ngòai công lệ ấy; nghĩa là : kẻ học phải chịu thử thách , coi phải mình là kẻ đạo đức chơn thật chăng ? " Vàng có lửa trui thì mới rõ vàng mười.".
Trong sự thực hành đạo đức từ thử chúng ta từ một vị Đại Thiên Phong đến một đồng nhi , ai cũng biết qua một phần nào rồi vậy. Điều nầy cổ nhân có trải qua và cũng có lưu lại lời nói trong kinh điển như vầy : " VÔ MA KHẢO, BẤT THÀNH ĐẠI ĐẠO " Không ma khảo thì Đại Đạo không thành. Lại nói : " ĐẠO CAO NHỨT XÍCH, MA CAO NHỨT TRƯỢNG. ĐẠO CAO NHỨT TRƯỢNG MA THƯỢNG ĐẦU NHÂN." Đạo cao một thước, thì ma cao một trượng , Đạo cao một trượng thì ma lên khỏi đầu người .
Gẫm lại, sự tu hành để giải thóat kiếp luân hồi khó khăn đến dường nào . Tuy thế mặc dù , mà từ xưa biết bao nhiêu người đã thành công đắc quả. Mà hễ một việc nào có người làm được thì việc ấy dễ chớ chẳng khó .
Than ôi ! Việc tu hành, kẻ nói khó , người nói dễ không biết đâu mà lường . Nhưng theo kinh nghiệm , chúng tôi hiểu rằng : khó hay dễ đều do mình cả . Nếu chí tâm hành Đạo , thì việc khó hóa dễ , còn như chán nãn thì việc dễ cũng hóa thành khó ./-
____________________________
( Trích dẫn TẬP SAN ĐẠI ĐẠO PHỔ THÔNG số 12 tháng 11 năm 1997 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét