(Bài
thuyết đạo của Ngài Bảo Cơ Quân Huệ Thanh Vân Huỳnh Thanh tại Kim Quang Minh
Đài năm Đinh Dậu 1957).
Kính thưa…
Tôi
tin Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là do Đức Thượng Đế lập thành.
Về phần công truyền xét theo chơn lý, luận lý, vật lý, triết lý mà tin thì đủ
lý, hợp lý và thể theo sự nhu cầu cứu rỗi, hiện hữu của nhân loại trong thế kỷ
20 nầy thì rất khế hợp. Về phần chơn truyền, tiên tri sẽ có Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ ra đời, do Đức Cao Đài Thượng Đế lập thành, tôi xin lục ra như sau:
1/ Trong Kinh Gíac Mê của Phật Giáo có bài:
“Địch không lỗ vô duyên khó biết,
Đờn không dây vô phước khó nghe.
Rượu đề hồ chứa để đầy ve
Say một cuộc bất tri nhơn sự
Ngâm chữ huyền ngâm cùng ông Lữ
Đọc kinh mê say với ông La.
Kinh Huỳnh Đình rảnh tụng năm ba
Vô buồng tháp nhìn xem tạo hoá
Ngó Nam lãnh vui màu tòng bá
Nhìn Bắc hà rùa cá ngẩn ngơ
Chốn đơn phòng bày tỏ huyền cơ
Mặc dù kẻ ngộ cùng không ngộ
Có duyên gặp Tam Kỳ Phổ Độ
Muôn đời còn tử phủ nêu danh”.
Bài tiên tri nầy bí nhiệm và rõ ràng cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
2/ Cũng như câu:
“Mạc
hậu Tam Kỳ Thiên Khai Huỳnh Đạo”.
3/ Trong quyển Phật Tông Nguyên
Lý có câu:
“Sau
nầy có một vị Phật lớn hơn Ta ra đời để phổ độ quần
linh”.
4/ Phái Minh Sư có câu:
“Con cầu Phật Tổ Như Lai,
Con cầu cho thấu Cao Đài Tiên Ong”.
5/ Bát Nhã Kinh có câu:
“Mạc hậu Càn Khôn đồng nhứt mạch,
Thiên môn vạn giáo hiệp qui căn”.
6/ Thanh Tịnh Kinh có câu:
“Thanh
Tịnh Kinh hữu vô tích. Công viên quả mãn, lãnh thọ đơn thơ thiên mạng, khả
truyền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”.
7/ Thánh Kinh Tân Ước cũng có câu:
“Ngày
sau rốt Cha Ta sẽ xuống đem các chuồng chiên về một chuồng để một tay người nắm
giữ (tức là Tam Kỳ Phổ Độ, Ngọc Hoàng Thượpng Đế tá danh Cao Đài thành lập Đại
Đạo qui nguyên Tam Giáo, hiệp nhứt Ngũ Chi”).
8/ Vạn Điển Thiên Cơ có câu:
“Tam
Giáo kim tùng cổ hoá sanh
Tiên Thiên Tam Bảo thị Tam Thanh
Phật pháp, Nho hề qui nhứt bổn
Tự nhiên tả đạo thống tương tranh
Vạn ức sơn hà giai hữu thử
Tổng qui nhất phái đắt an thành.
Xà vĩ mã đầu khai đại hội
Tam
Kỳ hậu thế hiểu phương danh”.
Vậy đây là những lời tiên
tri đại cương theo lý luận công truyền mà thôi, chứ yếu tố chính là mục đích
tinh thần của nó có thiết yếu nhu cầu đối với nhân loại theo thời đại có khế
hợp hay không là điều mới thiết tín.
Đây tôi xin đại lược mục đích, tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ:
“Trung
vạn pháp – Hoà vạn chủng
Thân vạn loại – Nhứt vạn giáo
Chú trọng tinh thần – Bảo tồn vật chất.
Bất nệ ư kim – Bất thiên ư cổ
Phi kim phi cổ – Nhi kim nhi cổ
Trung nhứt thị Cao Đài”.
Vì
đứng trước nhơn loại hiện đại đang khao khát, trông đợi cứu rỗi, hoà bình,
thống nhất, để tránh sự tận diệt của sự chia rẽ chém giết, chiến tranh, vô đạo,
từ lương , chỉ giáo khắp thế giới đến quốc gia.
Bị tình nhân loại khắp thế giới như thế nên Đức Cao Đài Thượng Đế là vị Đại
Lương Y duy nhất sáng chế, chỉ định một môn thuốc thích đáng, thần diệu,
để chữa bệnh cho thế giới tức là phương than “Cao Đài cứu thế, Phổ Độ
Kỳ Ba”.
Vì các môn thuốc cho ra thời trước không còn thích hợp với thời nay, khi tình
trạng bệnh nhân tăng thêm. Nói thế, các tôn giáo
có thể ngạc nhiên khi biết rằng một số thuốc men cách đây hơn mấy chục ngàn
năm, nay đã thành quá thời, phầnn nhiều đã biến chất ít nhiều không được thích
dụng nữa.
Bằng chứng bịnh tình các tôn giáo từ khi bắt đầu
có lịch sử nhân loại đến nay các
tôn giáo đã tuyệt giao với nhau, tôn giáo nầy đã buộc tội tôn giáo kia là nguỵ
giáo! Các tôn giáo đó tự phân chia riêng rẽ, gieo rắc ghen ghét và hiềm khích
nhau. Quí vị hãy xem lịch sử các cuộc chiến tranh tôn giáo. Một trong những
chiến tranh to lớn nhất là cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân đã kéo dài đến 200
năm. Lúc thì Thập Tự Quân thắng, giết, cướp, bắt người Hồi giáo, lúc thì Hồi
giáo thắng trận, gieo điêu tàn làm đẫm máu kẻ xâm lăng.
Họ tiếp tục như thế mãi suốt hai thế kỷ. Đấy là một trong những cuộc Thánh
chiến. Chiến tranh tôn giáo rất nhiều, sự xung đột giữa Công Giáo và các gíao
phái Tin Lành, kết cuộc làm cho 900 ngàn tín đồ Tin Lành bị tử đạo.
Gần đây, Hồi Giáo và An Độ Giáo cũng đánh nhau dữ dội và biết bao nhiêu người
đã mòn mỏi trong các lao tù bị đối xử tàn tệ, tất cả những việc đó lại mang
danh nghĩa tôn giáo.
Tín đồ Gia Tô Giáo và Hồi Giáo coi người Do Thái như quỷ Sa Tăng và là kẻ thù
của Thượng Đế. Trái lại, người Do Thái coi tín đồ Gia Tô Giáo như kẻ ngọai đạo,
coi tín đồ Hồi Giáo như kẻ thù phá hoại luật pháp của Thánh Moise; cho nên, họ
kêu gọi sự trả thù mà đến nay Họ vẫn nguyền rũa tín đồ Gia Tô Giáo và Hồi Giáo.
Vì các nguyên nhân như vậy, nên Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là Đấng Cha chung nhân
loại, đại từ đại bi, háo sanh ố sát, động lòng không nỡ để cho nhân loại
chịu tiêu diệt hế trong thời mạt pháp nầy, nên hạ thế tá danh “Cao Đài
Tiên Ong Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”, qui gồm Tam Giáo, đại diện Tam Giáo (Cao Đài là
Thánh Đạo, Tiên Ong là Tiên Đạo, Đại Bồ Tát là Phật Đạo), lập “Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ” mục đích qui nhứt các Tôn giáo, thống nhứt tâm hồn
nhân loại, đặng trừ diệt chiến sự và tranh chấp trên quả đất, mang lại ánh sáng
và sinh khí cho nhân loại khắp thế giới hiện nay. Từ lý công truyền cứu
độ nhập thế cho đến tâm pháp siêu độ xuất thế để thực hiện một chánh pháp đại
đồng bác ái duy nhất.
Vì vậy nên theo quan niệm thờ phượng sùng đạo chân chính của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ, Thượng Đế đòi hỏi phải sùng kính các Giáo Chủ của Ngài, và tuân tùng giới
răn cuối cùng của Ngài cũng như các Giáo chủ.
Có một tôn chỉ sùng đạo như vậy, sự thống nhất mới có thể thực hiện. Nếu
tôn giáo nào không phải là một nguyên nhân của sự thương yêu và thống nhất thì
không phải là tôn giáo.
Nếu tôn giáo lại trở nên một duyên cớ của sự chia rẽ, mối căm thù, sự đối địch
thì thà không có tôn giáo còn hơn. Không nhìn nhận một tôn giáo như vậy mlà một
cử chỉ thực sự có tôn giáo. Rõ ràng mục đích của thuốc men là chữa bệnh, nhưng
nếu thuốc đó lại làm bệnh nặng thêm, thì tốt hơn là bỏ nó đi !
Vì thế, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đối với các tôn giáo đã mở ra ở Nhứt Kỳ Phổ Độ
coi cũng như nụ như hoa, Nhị Kỳ Phổ Độ coi cũng như quả non quả xanh. Nay đến
Tam Kỳ Phổ Độ cũng như quả già quả chín. Quả non không phá huỷ nụ hoa, quả xanh
không phá huỷ quả chín. Không có sự phá huỷ mà chỉ có sự hoàn thành. Nụ hoa
phải nở, cánh hoa rụng để kết quả, quả xanh đến ngày giờ cũng phải nhường cho
quả biến màu sắc khác để chín. Vậy nụ hoa nở và quả xanh có phải xấu xí và vô
ích mà phải mãn phải nhường không? Không, cái nầy và cái kia cần thiết và
hữu ích vào lúc của chúng, không có chúng thì không có quả chín, Các tôn giáo
khác nhau cũng giống như vậy. Bề ngoài thì chúng biến đổi từ thời nầy qua thời
khác, nhưng mỗi lần biến đổi là sự hoàn thành lần trước. Cũng như hột, rồi nụ,
rồi hoa, rồi quả và hiện nay đến thơi kỳ quả chín. Vậy tôi tin giáo huấn của
Đức Thượng Đề Cao Đài là môn thuốc tối thượng để cải thiện tình trạng tôn giáo,
giống nòi và các quốc gia hiện tại. Tất cả những lý luận mục đích, tôn chỉ và
sự nhu cầu thiết yếu về phần công truyền nhập thế của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mà
riêng tôi đã hiểu trong muôn một.
Vậy ai muốn rõ biết cho tận tình chung thuỷ, thì phải chịu ra công tham khảo,
tu hành thì sẽ hiểu muôn sự chứ đừng ỷ tài hay trí giỏi, đứng ngoài mà biện
luận, thì bị lầm sai, mê tín. Mà bị lầm sai, mê tín, thì làm sao mà biết
Đạo biết Trời.
“Ôi ! Đạo truyền cứu thế buổi tai ương,
Chỉ rõ phân rành sự rộng thương.
Giáo lý học thông đồng hiệp nhứt
Huyền linh máy nhiệm mới thông tường”
Các việc tôi vừa kể trên theo chơn lý, luân lý, luận lý,
vật lý và triết lý thuộc về công truyền hình nhi hạ của tôn giáo. Chớ Đạo hay
Thượng Đế là một lý Thái Hư, vô hình, vô thinh, vô cực, vô biên.
Lý nầy, Đức Thái Thượng nói rằng: “Hữu vật hỗn thành, Tiên Thiên địa
sanh, Ngô bất tri kỳ danh, cưỡng danh viết Đạo”. Đức Thích Ca gượng
nói là Pháp, chứ Pháp là không Pháp mới thật là Pháp, tức là lý không
không sắc sắc, vô hình bất hoại. Lão Tử nói: “Đạo khả Đạo phi thường
Đạo, Danh khả Danh ohi thường Danh”. Khổng Tử nói: “Thế sự
vạn bang đô thị giả, Nhân gian đạo đức giả vi chơn”.
Phần nầy thuộc về hình nhi thượng, phần nội giáo tâm
truyền, mật huyền, bí truyền, khải thị, đơn thơ, chứ không phải dùng ý phàm mà
hiểu biết được.
Mọi lý luận về Thượng Đế của lý trí, khoa học duy vật đều phải gạt bỏ như vô
nghĩa và vô giá trị.
Vì rằng quí vị muốn trở thành nhà Thiên văn, quí vị phải vào trong một Thiên
văn đài, dùng một viễn vọng kính để quan sát các ngôi sao và hành tinh, có như
thế quí vị mới thành công được.
Xưa nay khoa học nào cũng có những phương pháp nghiên cứu riêngncủa khoa học
đó. Chớ dầu tôi có giảng cho quí vị nghe cả ngàn bài thuyết pháp đi nữa, cũng
không làm cho quí vị trở nên con người đạt đạo nếu quí vị không ra công thực
hành phương pháp Đạo.
Đó là những chân lý mà những bậc Thánh Hiền của tất cả các xứ, của tất cả mọi
thời đại.n Tất cả các Ngài dều tuyên bố rằng: Mấy Ngài đã tìm ra được một chân
lý cao siêu hơn những điều tai đã nghe, mắt có thể thấy và khuyên nhủ chúng ta
kiểm tra những điều của mấy Ngài xác nhận, xem có đúng chăng?.
Các Ngài bảo chúng ta đem phương pháp của mấy Ngài ra thưc hành một các thành
thực, Nếu bây giờ chúng ta không gặp được chân lý cao siêu đó, chúng ta sẽ có
quyền nói rằng: Xác ngôn của mấy Ngài là vô căn cứ. Nhưng nếu ta chưa thí
nghiệm thực hành phương pháp của mấy Ngài, thì theo lẽ phải, chúng ta không thể
phủ nhận lời của quí Ngài.
Bởi thế, chúng ta phải hạ thủ công phu theo đúng những phương pháp chỉ
dạy, rồi ánh sáng sẽ hiện ra cho chúng ta thấy. Chứ những kẻ nào chưa tự mình
chứng đắc những tri giác đó thì chưa phải là người có Đạo. Nếu ta chưa đạt
những tri giác đó trong Đạo, thì luận Đạo, thuyết Đạo cho mấy cũng không bổ ích
vào đâu.
-“Sao
thắc mắc lo suốt ngày suốt buổi
Sao học hành bàn cãi mãi làm chi?
Bao nghi nan mâu thuẫn của vấn đề
Dùng trực giác phá tan trong chốc lác”
-“Thà rằng nghẹn họng làm thinh,
Còn hơn vất vả thuyết minh suốt đời”.
-“Để
tỉnh quang thiên vô chánh thức
Quản bao phí báo
thất chơn truyền”.
Nếu quí vị truy dến nguồn cội của các tôn giáo, quí vị sẽ thấy nó có những nền
tảng nơi kinh nghiệm thực tại như: Đấng Christ nói Ngài có thấy Thượng Đế, xét
đến Phật giáo cũng thế, cũng có kinh nghiệm của Phật, Phật có thực nghiệm được
các điều chân lý, đã thấy được, đã tiếp xúc với những chân lý đó và đã đem
những chân lý đó ra truyền dạy cho chúng sanh.
Cũng như các bậc chơn sư đều có thấy Thượng Đế, thấy linh hồn, thấy tương lai,
thấy bản thể trường tồn bất hoại của mấy Ngài và mấy Ngài giảng dạy về những
điều mà mấy Ngài đã thấy, đã kinh nghiệm trực tiếp.
Vậy quí vị phải hiểu rằng: Học Đạo, biết Đạo chẳng dễ đâu, muốn kiếm đạo mầu
như hồi Trương Lương dâng dép, cúi đầu dưới Hoàng Thạch Công mấy bận. Hồi Đức
Đại Thánh học Đạo với Thầy cũng khổ thân. Thích Ca đắc Đạo cũng phải lìa ngôi
báu, lên núi Tịnh, đặng cầu Diệu huyền, đắc pháp lục thông, giác tri vũ trụ.
Lão Tử luận chữ Đạo rằng: “Hữu nhứt vật hỗn thành, Tiên Thiên địa
sanh, tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải, châu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi
Thiên Địa mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, cưỡng danh viết Đạo, Nhứt âm nhứt dương
hiệp nhứt – Thiên đắc nhứt dĩ thanh, Địa đắc nhứt dĩ ninh, Thần đắc
nhứt dĩ linh, vạn vật đắc nhứt dĩ sinh. Kỳ tứ chi nhứt giả; Thiên
vô dĩ vi thanh tương khủng liệt, Địa vô dĩ vi ninh tương khủng
phiệt, Thần vô dĩ vi linh tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ vi sinh tương
khủng diệt”.
(Nghĩa là: Có một vật tự nó sanh, vật ấy có trước Trời Đất, mờ mịt yên lặng
trong cõi Thái Hư, một mình độc lập mà chẳng nghiêng, chẳng đổ, lưu hành khắp
nơi, mà chẳng hề trễ nãi, vật ấy khá gọi là nguồn sanh Trời Đất. Ta chẳng biết
tên chi, tạm gọi tên là Đạo. Đạo là âm dương hiệp nhứt từ lúc ban đầu tự chuyển
luân mà có. Trời đặng một nầy thì trong sáng, Đất đặng một nầy thì bền vững,
Thần đặng một nầy thì linh thiêng, Muôn vật đặng một nầy thì sinh sống. Nếu như
số một nói đây, nếu Trời chẳng có e Trời phải tối tăm, Đất nếu chẳng có nó Đất
phải nghiêng đổ, Thần chẳng đặng nó, Thần chẳng linh thiêng, muôn loài không có
nó, nuôn loài phải bị tiêu diệt).
Vậy số một nói đây tức là Đạo. Con người là một phần tử ở trong vạn vật, người
nếu chẳng đặng Đạo nơi bản thể thì thử hỏi người phải ra sao? At người chẳng
làm sao mà sanh sống và tiến hoá được. Ay là yếu điểm của cuộc sống. Người trí
hoá chẳng tìm biết ở Đạo là lý toàn thiện, toàn mỹ, toàn tri, toàn năng, loài
người chưa có đủ lời để nói rõ hơn bản thể của Đạo. “Đạo khả Đạo phi
thường Đạo”. Bởi lẽ ấy nên Thánh nhân mới hình dung chữ Đạo theo lý
âm dương tự chuyển hợp thành. Còn nói theo lý thông thường chữ Đạo có 3 nghĩa:
– Theo nghĩa vật lý, Đạo là đường đi từ điểm nầy đến điểm kia.
– Theo nghĩa bóng, Đạo là luật pháp, là qui tắc, là điều kiện cốt yếu
(danh từ).
– Theo nghĩa đen, Đạo là hướng dẫn, là điều khiển, cai trị (động từ).
Vậy Đạo, theo chân lý là Chí linh, la Thần diệu, là Thiên điển; chẳng
khác như Điện, cho vào quạt thì cánh quạt xoay ra gió, cho vào bàn ủi thì
bàn ủi nóng, cho vào máy lạnh thì phát ra khí lạnh, cho vào bóng đèn thì đèn
tỏa sáng, cho vào máy thu thanh thì phát ra tiếng nói, cho vào người (rọi điện)
thì thấy được ngũ tạng lục phủ, óc não, xương tuỷ… Vậy kẻ tu hành đắc đạo là
tiếp đặng điện Trời thì minh tri phát huệ, biến hoá phi thường, phát minh vũ
trụ học có được không? Cười…
Vậy dám hỏi bậc Thượng nhơn trí
thức văn chương toàn tài, ngày nay có nhìn rằng: Đạo thắng Đời từ vật lý đến
tinh thần chăng?
Ôi! Chân lý ôi! Rất lầm lộn cũng bởi tại người lấy
chân lý làm sở chủ, mà chẳng lấy
huyền vi tạo vật làm sở chủ. Vậy ai là người lấy chân lý luận Càn Khôn vũ trụ
đều là lầm cả! Người hỏi đã lầm, mà người trả lời cũng sai. Chỉ phải trọng đức
tin, có nhiều thực hành kinh nghiệm, mới lần hồi thấu đáo cùng tuần tự
theo sức mình tiến hoá mà thôi!
Thầy Tử Cống nói: “Phu Tử chi văn chương khả đắc văn dã, Phu Tử chi
tánh ngôn dữ thiên đạo bất khả đắc văn dã”. Đó mới biết thiên đạo và nhơn
đạo hai nẻo, tánh đạo và văn chương khác nhau – Thiên đạo là tu tánh (suất
tánh) dưỡng mạng trở về không khí, tận nhơn hiệp thiên, là phải hết lòng nhơn
dục mới trở về thiên lý, gọi là xuất thế thiên đạo. Nhơn dục tận tịnh
nhơn lý lưu hành. Còn nhơn đạo thì tích cực vị nhơn sanh, làm tròn
Ngũ luân, ngũ sự, có câu: “Hay tám vạn tư cũng mặc, chẳng quân thần phụ tử
chẳng ra người”(Nguyễn Công Trứ). Đức Khổng Tử cũng tự nhận rằng: “Văn
học Ngô do nhân dã, cung hành quân tử tắc ngô vị chi hữu đắc”, cùng câu: “Ngã
ư tử mệnh, tắc bất năng dã” (Làm việc chỉ ở nơi văn tự mà thôi, e có
lẽ Ta cũng bằng được như người vậy, chỉ dụng tự mình làm những việc quân tử,
thì Ta chưa có được gì cả, Ta bàn chữ mệnh không nổi). “Gia ngã sổ
niên, tốt dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hỉ”(vả Trời cho Ta ít năm nữa, Ta
học Dịch hiểu, đâu có lầm lỗi lớn). Thật đúng như lời Ngài dạy: “Tri
chi nhi tri chi, bất tri nhi bất tri, thị tri dã”, cũng như
câu: “không biết mà nói là ngu, biềt mà không nói là hiểm”. Bởi
thiên đạo thuộc về vô vi, vô hình, “khả truyền nhi bất thụ, khả đắcnhi
bất khả kiến, tự bản, tự căn, tự hữu”, có bất sanh, bất diệt, “bất sanh
cố bất đắc ngôn hữu, bất diệt cố bất đắc ngôn vô. Nhược trước sắc không, hưu vô
chi tướng, tắc phi đạo dã, đạo chiêu nhi bất đạo”.
Phật giảng đạo: Có một vật vậy, lúc trời đất chưa sanh đã
có nó, khi trời đất tiêu diệt nó vẫn còn, mà vật ấy lại ở trong mình Ta và các
ngươi, tên nó gọi là khí Chơn linh hay là Tâm Linh (Esprit). “Thiên
chi lịch số tại nhữ cung”(Đạo Trời ở tại mình người). “Đạo giả vô
chung thỉ, minh minh hà xứ tầm, thanh tịnh vô vi pháp, chánh đạo ẩn chơn tâm”.
Đức Jésus nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha là Chúa
Trời Đất và Cha đã dấu những điều đó với những người thông thái khôn ngoan và
đã chỉ tỏ ra những kẻ bé nhỏ” (Math 11-25).
Nói đến đây tôi tự nghĩ thầm rằng: Chẳng phải Tam
Giáo để kinh sách bày mấy lời đó mà có lợi ích chi cho các Ngài đâu! Các Ngài
chính là người hết lòng, hy sinh tính mạng đẻ cứu độ chúng sanh kia mà! Không
lý các Ngài nỡ lòng nào nói gạt chúng sanh chi !
Vậy kẻ hậu học hiện tại có nên suy nghĩ hay không? Phải cắn bể xương mới thấu
đựơc tuỷ, phải gạt tro tàn mới thấy lửa hồng. Đứng ngoài cuộc mà phẩm bình là
cái nết xấu của kẻ học giả! Kẻ học túc để phá ngu, học thức để phân biệt phải
trái, chánh tà, giả chơn, đạo nghịch, rồi giữ theo, ăn ở, tu hành, dạy nhà, trị
nước, cứu dân, độ thế. “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi
giả hỉ”. Chứ đâu phải học để đọc, để viết như chú thơ sinh, khu khu
theo việc bút nghiên, tìm từng bài, lựa từng câu mà tính đen, luận vàng, múa
văn giỡn mực! (cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ). Sứ mạng của văn chương là phụng sự chân lý,
mà hiện đại văn chương hội hiệp với sứ mạng quảng cáo, là nhồi sọ và lường gạt.
Thật là trạng thái của một tinh thần khủng hoảng đến cực điểm, làm ô nhục văn
hoá! Văn chương là một món sản vật của tinh thần, thuộc về phần thiêng liêng
cao trọng nhất. Mà hôm nay người ta đem nó ra “làm tiền”. Xúm nhau quảng cáo
với mánh khoé con buôn (vĩ văn lọan đức, vĩ văn hại từ). Người
ta biết chỉ trích lối học từ chương hồi xưa không thực tế, nhưng hỏi nền giáo
dục hiện giờ có hơn gì không? Nền giáo dục hiện thời ngòai cái mục đích truyền
bá khoa học duy vật cơ giới, cơ hồ không còn mục đích nào khác! Người ta chỉ
luyện trí cho thanh niên, buộc hy sinh đạo đức cho khoa học !
Ai cũng vẫn biết trí dục không quan trọng bằng đức dục. Ta nhận xét xưa nay chỉ
những người có tấm lòng nhân, có nhiệt huyết mới làm được những việc vĩ đại ích
đời. Còn óc thông minh giúp cho nhân loại rất ít. Biết bao người học thức cao,
thông minh ở chung quanh chúng ta mà suốt đời họ chỉ lo cơm áo, xe hơi, nhà
lâu. Vì họ sống cho họ, họ lo cho vợ cho con họ, chứ họ có sống cho quốc
gia nhơn loại đâu! Xã hội có họ cũng như không.
Ong Léon Bourgois nói: “ Dân La Mã lúc suy vi, họ thông minh hơn tổ
tiên cục mịch của ho nhiều, nhưng họ không giữ được những đức tính của tổ tiên
. Khéo mà dối trá, không bằng vụng mà thật thà. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, ngsy
mà thiếu, còn hơn lệch mà thừa. Hay chũ không bằng hay xử. Dốt đạc hơn hay chữ
lỏng là vạy! Ôi ! Thật là Y Chu chẳng phải Y Chu, Sào Do không phải Sào Do! Ay
quả thạt là ý ngu, dụ dân. Khổng Tử nói: “Ta ghét cái giống mà không giống,
tức là ghét màu tía sợ lẫn với màu hồng”. Than ôi! Ai hay ai giỏi đâu
bên Au bên Mỹ, còn sự khoe mình với hai tay rắng ở góc trời nam!
Đạo Đức không làm khoe danh nói dối, lỡ cướì lỡ khóc cho kẻ học không hành. Lời
Chí Tôn than trách:
Có
tranh mà chẳng có hành,
Ma hành sái nét dễ thành chăng con ?
Giáo Tông lắm nỉ non nóng nảy,
Chẳng cho vào để dạy các
con
Thái Bạch dạy phải trừng đòn,
Nóng lòng phạt quá sợ con xa Thầy.
Cao Đài một gốc gồm nhiều nhánh,
Chỗ trái chỗ bông chỗ trụi cành.
Không thông rán học rán hành,
Không thông khuyên chớ cãi canh kệ cà!
Không thông
khuyên chớ bỏ qua
Không thông thì phải rán ra công tìm.
Đường chân lý kim kim cổ cổ
Coi ai nào đánh đổ hào ly.
Con Thầy lắm đứa mê si
Cũng còn lắm đứa tinh vi đạo mầu.
Các con ôi ! Cơ cầu tận diệt
Hỡi các con! có biết hay không?
Hồng trần trở lại cảnh không
Sao con chẳng rõ còn mong nỗi gì ?”
Đây lời Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch quở trách:
“Nền
Đạo chinh nghiêng, thói đời thêm mị,
Lớn mưu mưu, nhỏ kế kế, muốn sao chỉ đá hoá vàng.
Trên tính tính, dưới bàn bàn, lo đến nỗi muốn nắn trời nên
vóc.
Học không lo học, danh lại cầu danh.
Kẻ simê phờphỉnh đãđành, người tríthức dỗdành đâuđược
Cạn mưu túng nước, muốn bán trời còn bịa danh quan.
Cùng thế bít đàng, đành giả Phật đâu kiên luật Thánh!
Đạo toàn chơn chánh, nghĩa vẹn hiếu trung
Lý nhiệm mầu ai muốn suy cùng.
Đường tà chánh có Ta phân giảng,
Cống hò xê liếu rằng tu!
Đứa đui lại dắt thằng mùđi đêm.
Khinh phép nước bày điềm mị mộng
Mượn danh Thầy để lộng quyền cao.
Đất bằng sao nổi ba đào?
Chẳng thương xót đến đồng bào chúng sanh!
Nguồn đạo mở trong xanh như suối
Luật Đạo ban phao nổi như cồn.
Trách ai đem Đạo đi chôn
Đóng vai diễn lớp giống trồng cải lương.
Người giữ phép dẫn đường vi phép
Kẻ phi quan thừa dịp giả quan.
Học đòi như thể bóng chàn!
Mượn Thầy để lập một đàng đi buôn.
Đạo Trời tính có dư muôn
Lọc lừa sàn sảy, một xuồng còn lưng.
Uổng công chịu khổ bao năm
Đến ngày kết quả mà không ra gì !
Nghĩ vầy cũng thẹn tu mi,
Ra trang nam tử bước thi đại đồng.
Rồi đây Đạo bỏ ra vòng,
Tỉ như con vượn đèo bòng lìa cây”.
Ôi ! Biết Đạo dễ, tin Đạo khó! Tin Đạo dễ, hành Đạo khó ! Hành Đạo dễ, giữ Đạo
khó ! Giữ Đạo dễ, đắc Đạo khó ! Đắc Đạo dễ, thành Đạo khó !
“Trường
Tiên mở khoá dời Tiên vị,
Khoa Phật khai trương dợt Sĩ tu.
Ba sàng bảy sảy, chọn nguyên nhân
Năm lọc bảy lừa đặng một con.
x
Mười phần lựa lọc chỉ còn ba,
Ba chọn thiệt ra có một à !
Thưa thớt sảy sàng hay quá lẽ
Như vầy, mới phải đạo Trời Cha.
x
Cha muốn dạy tiên tri chung trẻ
Ngặt quá buồn khó hé Thiên cơ,
Buồn vì chân gi ả vàng thau
Bất hoà nhơn đạo nhiều màu
đó con !”
Xin trân trọng cám ơn và kính chào liệt quí vị.
Huỳnh Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét