Đại Đạo tạo con đò cứu khổ, Hướng đạo cần tự độ, độ tha. Năm chi bảy phái hiệp hòa, Trương cờ Đại Đạo xây tòa vạn linh.

LỜI GIAO CẢM

LỜI GIAO CẢM
(Kích vào hình ảnh để xem tiếp lời giao cảm)
  Xin chân thành cảm ơn quý huynh, tỷ, đệ, muội và quý độc giả đã ghé thăm NGÔI NHÀ ĐẠI ĐẠO

Thứ Hai, 3 tháng 5, 2021

Bài thi xưng danh của Đức Ngô



                    ĐỨC THUẦN

Thánh ngôn, thánh giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cùng các Đấng thiêng liêng giáng dạy từ buổi sơ khai của nền Đạo đến nay là cả một kho tàng vô cùng quý giá để người có chí tu hành tìm hiểu, học hỏi.
Mỗi khi giáng đàn, các Đấng thiêng liêng thường có bài thi xưng danh theo cách khoán thủ (dùng từ ở đầu câu), hoặc khoán tâm (dùng từ giữa câu), hoặc theo lối chiết tự (cắt ráp chi tiết của một từ để tạo thành một từ mới). Riêng về lối chiết tự, có bài này:
Ngộ đặng chơn tâm hết nặng lòng
Mình tu thì tránh ảo huyền không
Chiếu minh từ thuở vô thinh sắc
Ngoại giáo tỉnh đời cũng đại công.([1])
Ba câu đầu bài thất ngôn tứ tuyệt này chiết tự như sau:
Ngộ + hết nặng [bớt dấu nặng] ® Ngô.
Mình + huyền không [bớt dấu huyền] ® Minh.
Chiếu + vô thinh sắc [bớt dấu sắc] ® Chiêu.
Như vậy, Đấng giáng cơ là Đức NGÔ MINH CHIÊU.
Bài thi không đơn giản chỉ để xưng danh mà còn hàm ngụ nhiều ý đạo sâu xa.
1. Tìm hiểu câu 1: Ngộ đặng chơn tâm hết nặng lòng.
Ngộ: Hiểu ra, vỡ lẽ; khai mở tâm thức, không mê muội nữa.
Chơn tâm: Cái tâm chơn thật đã dứt hết mọi vọng tưởng, phiền não, do đó phục hồi được bản tính thanh tịnh, sáng suốt.
Hết nặng lòng: Không còn vọng tâm, phàm tâm; lòng cởi bỏ được mọi vọng tưởng, phiền não.
Ý nghĩa câu 1: Khi giác ngộ được cái tâm chân thật thì mọi vọng tưởng, phiền não tiêu tan, thì phục hồi được bản tính thanh tịnh sáng suốt (tức là Phật tính hay Thượng Đế tính) nơi mỗi con người.
Nhưng chơn tâm và vọng tâm không phải là hai cái tâm khác nhau, mà là hai mặt hay là hai trạng thái của một bản tâm: tĩnh - động, thanh - trược, chơn - vọng, chánh - tà, sáng - tối, thánh - phàm, phật - ma … Chúng sanh cứ duyên theo vọng tâm mà sinh phiền não rồi lăn trôi theo vòng luân hồi sanh tử, nếu không gặp đạo và quyết tu thì khó mong giác ngộ trở về với chơn tâm.
Đức Ngô Minh Chiêu dạy:


Tâm tức Phật, tâm chân là Phật
Phật tức tâm, tâm thất là ma
Phật tâm giác chiếu chan hòa
Như như bình tịnh chẳng xa chẳng gần.([2])
Người tu ai cũng muốn làm Phật, chẳng ai muốn làm ma, nhưng tại sao khó giác ngộ chơn tâm mà cứ say mê theo vọng tưởng?
Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy:
“Tình là chi? Tình là mối loạn của tâm, ý là giặc trong linh tánh. Xa cái tình, lìa cái ý, hẳn không được. Vì tình, ý là của thân. Còn mang cái thân, ắt còn tình còn ý. Nhưng tình ý là tay sai đắc lực của tâm. Trong lúc tâm ba thanh tịnh thì ý cũng thanh tịnh mà làm đúng đạo hợp pháp.” ([3])
Tấm thân huyết nhục của con người do tinh cha huyết mẹ cấu thành, mang mầm ý dục truyền nhập trong từng tế bào và với vật chất cõi phàm trần bồi đắp, trưởng dưỡng tạo thành bản năng sinh tình ý làm loạn động chơn tâm. Làm sao cho tâm ba thanh tịnh để giác ngộ chơn tâm, dẹp trừ vọng tưởng ý tình?
Đức Trần Hưng Đạo dạy:
“Muốn được tâm linh tiếp xúc cùng Thầy thì tâm phải trong sạch, thân phải thanh khiết. Thân tâm đầy đủ rồi cũng chưa đủ, phải có một pháp môn tu tập các thiện khí để dương dương chánh khí mà tiếp đón mọi pháp lành. Có pháp thì có tâm, tâm nương pháp mà vào, pháp nương tâm mà đắc.” ([4])
Như vậy muốn cho thân tâm thanh tịnh thì không có cách nào hơn là phải giữ giới và tu luyện. Về giới thì căn bản là Ngũ Giới Cấm và Tứ Đại Điều Quy (đã ghi trong Tân Luật). Về pháp môn tu luyện thì Hội Thánh Truyền Giáo có bốn tầng bậc tu châu từ thấp lên cao, từ cạn vào sâu, từ giải ngộ đến giác ngộ. Đó là Linh Châu, Tướng Châu, Tâm Châu, Tam Bảo Hoàn Châu do Đức Ngô Cao Tiên và các Đấng thiêng liêng ban truyền.
2. Tìm hiểu câu 2: Mình tu thì tránh ảo huyền không.
Ảo huyền: Không thật, mơ hồ.
Ý nghĩa câu 2: Dù là tâm pháp hay tướng pháp, nội giáo tâm truyền hay ngoại giáo công truyền, người tu phải xác định rõ mục đích đi tu là gì và thành đạo là thành chỗ nào.
Đức Cao Đài Ngọc Đế dạy:
Tu thì tu mắt, tai, mũi, miệng
Mối dục tâm sai khiến diệt trừ.([5])
Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
Thành đạo do con trọn chí thành
Ngăn ngừa tư dục ở tâm sanh.
(. . .)
Đạo lý chỉ cần lẽ thiệt thôi
Đừng mơ ảo ảnh chốn xa xôi
Trong con sẵn có cơ phàm thánh
Lặng lẽ lòng con rõ máy Trời.([6])
Đạo không ngoài sự sống, tình thương và lẽ thật. Đối với cá nhân, bảo tồn sự sống là làm cho thể xác được khỏe mạnh; phát triển tình thương là làm cho tâm hồn được thánh thiện; và giác ngộ lẽ thật là làm cho trí tuệ được viên minh. Đối với cộng đồng nhân loại, đó là bảo tồn và phát triển trên ba phương diện nhân sinh, nhân đức, và nhân trí.
Nhưng để đi đến đích của người tu là đạt đạo, hay là từ vọng tưởng phiền não trở về với chân tâm, Phật tánh, hội hiệp cùng Thầy phải vượt qua thiên ma bách chiết, không dễ dàng, bằng phẳng chút nào. Vấn đề này đã được minh họa qua con đường của bốn thầy trò Đường Tăng đi về Thiên Trúc thỉnh kinh và chứng quả. Con đường ấy có lúc gặp Phật, có lúc gặp ma, có lúc gặp ma hóa Phật để gạt gẫm và dụ dỗ cái tâm tham cầu, cái ý dục tốc. Lại có lúc gặp Phật hóa ma để thử thách cái chí tu, lòng kiên nhẫn, trình độ chứng đắc của tuệ giác …
Cho nên hành giả phải cẩn trọng, phải chí thành và phải có đức tin sáng suốt, có lập trường dứt khoát, rõ ràng, nhất là con đường tâm pháp vô vi.
Đức Cao Đài Thượng Đế dạy:
“Đạo ở tâm, tâm là Đạo. Tâm có chơn có vọng, Đạo có thực có hư. Bỏ vọng bỏ hư, lấy chơn lấy thực, phải dụng công hàm dưỡng, ngưng thần, tụ khí mà trụ định lấy tâm chơn như thanh tịnh, thì chơn giác khai minh. Con có chí, Thầy có công giúp con thành đạo. Chưa được như thế đừng lấy lý trí đoán xét mà đưa con cái của Thầy vào hư cảnh rồi phải tội tình không nhỏ.” ([7])
3. Tìm hiểu câu 3: Chiếu minh từ thuở vô thinh sắc.
Tức là soi sáng đến chỗ căn nguyên của tâm, của thế giới sự vật chưa phát sinh hiện tượng, chưa có âm thanh sắc tướng. Các tôn giáo có nhiều tên gọi chỗ căn nguyên này: Vô Cực, Thái Cực Đại Trung, Không Trung Diệu Hữu, Chân Như Tự Thể, v.v... Đó là chỗ mà Thanh Tĩnh Kinh diễn tả như sau:
“Năng khiển chi giả, nội quán kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm; ngoại quán kỳ hình, hình vô kỳ hình; viễn quán kỳ vật, vật vô kỳ vật. Tam giả ký vô, duy kiến ư không.”
Dịch nghĩa:
“Để khống chế được ham muốn của mình thì hãy nhìn vào bên trong, xét cái tâm của mình, ắt thấy rằng tâm mình vốn không có tâm; hãy nhìn ra bên ngoài, xét hình của mình, ắt thấy rằng hình mình vốn không có hình; hãy nhìn ra xa, xét các sự vật, ắt thấy rằng vật vốn không có vật. Cả ba thứ ấy (tâm, hình, vật) đều là không. [Thấu triệt được điều ấy thì sẽ] thấy vạn vật đều là không.” ([8])
Đức Cao Đài dạy:
* Tịnh, tịnh, tịnh, tịnh, tịnh.
Tịnh là vô nhứt vật.([9])
* Không không mới thiệt diệu huyền
Chữ không làm đặng thì tiên trong đời.
Để tâm không Phật Trời bố hóa
Người tu hành chẳng khá bỏ không
Chữ không mầu nhiệm nơi lòng
Hành theo thấy rõ tâm trong diệu huyền.([10])
* Thầy truyền có một chữ không
Chữ không làm đặng lục thông chứng thành.([11])
Bài Hồng Thệ có câu:
Diệt trừ dục vọng đảo điên
Tình trong, ý lặng, dạ thiền, tâm không
Cơ huyền đạt pháp thông công
Cùng Thầy liên kết tiếp thông nhiệm mầu.
Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
“... khi nhơn dục tịnh tận, Thiên lý sẽ lưu hành. Đó là chơn lý của công trình, công quả, và công phu vậy.” ([12])
Đức Quảng Đức Chơn Tiên dạy:
Cao Đài là cái đài cao
Vượt trên tất cả đón rào ngăn che.
Thấy tỏ rõ mà nghe thấu suốt
Có gì đâu hạn cuộc được ta
Ngoài trời Thượng Đế bao la
Trong lòng vạn tượng cũng là Chí Tôn.([13])
Phàm nhân nhìn vạn tượng chỉ thấy có vạn tượng, tức là còn trong giới hạn các lớp hình tướng ngăn che. Đấng Chơn Tiên nhìn vạn tượng lại thấy có Thượng Đế thường hằng, tức là thấu suốt vào bản thể tuyệt đối. Để hiểu vì sao có sự khác biệt này, chúng ta tạm minh họa như sau:
Nhìn bằng mắt thường ta thấy lưỡi lam (lưỡi dao cạo) láng bóng, cạnh sắc bén. Qua kính lúp ta thấy nhám nhúa, cạnh như giun bò, lồi lõm. Qua kính hiển vi điện tử cực mạnh thì hình dáng chiếc lưỡi lam không còn nữa, chỉ thấy một đống hỗn hợp gồm những phân tử carbon và phân tử sắt. Nếu có dụng cụ hay phương tiện cực kỳ tinh vi để nhìn sâu hơn nữa thì bây giờ đống bột phân tử sắt và carbon không còn mà sẽ hiện ra một thế giới của hạt nhân nguyên tử, điện tử vận động không ngừng.
Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy:
Kìa bé nhỏ hạt nhân nguyên tử
Vẫn chuyển nhanh trật tự rành rành
Muôn loài muôn vật trong trần
Lớn như vũ trụ, tinh vân cũng đồng.
Ai khéo vẽ hạt nhân quỹ đạo
Ai đặt bày cơ Tạo xoay vần
Thiên điều quy luật công bằng
Thông linh kỳ diệu quyền năng của Trời.([14])
Tóm lại, muốn thấy được chỗ thấy của Đấng Chơn Tiên, thấy được chỗ “chiếu minh từ thuở vô thinh sắc”, con người không thể cậy vào mắt thịt phàm phu, mà phải dùng “mắt huệ” của bậc hành giả tu chứng tâm pháp, như lời Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy: “Hãy đem mắt huệ mà trông”.([15])
4. Tìm hiểu câu 4: Ngoại giáo tỉnh đời cũng đại công.
Từ câu 1 đến câu 3 là dạy về đường tu tâm pháp để đạt tới chỗ chứng ngộ. Nhưng chứng ngộ rồi cũng chưa gọi là thành đạo mà phải lo phần “ngoại giáo tỉnh đời”, tức là phải giác tha thì đường tu mới viên mãn.
Xưa kia, Thanh Tĩnh Kinh diễn tả lý lẽ này như sau:
“Như thử thanh tĩnh, tiệm nhập chân đạo. Ký nhập Chân Đạo, danh vi đắc đạo. Tuy danh đắc đạo, thực vô sở đắc. Vị hóa chúng sinh, danh vi đắc đạo. Năng ngộ chi giả, khả truyền Thánh Đạo.”
Dịch nghĩa:
“Người đã thanh tĩnh được như vậy, thì đang tiến dần vào Đạo chân chính. Hễ tiến vào Đạo chân chính rồi thì gọi là đắc đạo. Tuy gọi là đắc đạo nhưng thực tế đã không đắc [không đạt được] cái gì cả. Hễ cảm hóa được chúng sinh, thì gọi là đắc đạo. Ai giác ngộ được điều đó thì có thể truyền dạy Đạo Thánh cho người khác.” ([16])
Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
“Nói một cách khác, là tự độ và độ tha đó. Cũng như Đức Phật đã dạy tự giác, giác tha, để rồi giác hành viên mãn.” ([17])
Tất cả các chánh pháp xưa nay đều dạy rằng tu hành đắc đạo rồi thì phải hoằng pháp độ rỗi chúng sanh mới viên thành đạo quả, mới gọi là “đại công” như Đức Ngô dạy trong câu 4.
Đối với môn sanh Cao Đài trong Hội Thánh Truyền Giáo, bửu pháp để tu hành đắc đạo là luyện châu.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
Tứ thời cúng sám luyện châu
Để lòng thanh tịnh phép mầu được ban.([18])
Về diệu dụng huyền vi của bửu pháp luyện châu, Đức Ngô Đại Tiên dạy:
Châu luyện được thì mới rõ thông pháp Đạo
Luyện châu cần,([19]) thì cơ Tạo nắm vào tay
Luyện để mình tỉnh táo đừng say
Luyện để sống những ngày học tu không chướng ngại
Luyện để mở ngũ quan trông xem ngoài thế giới
Thấy đau thương cho bác ái hiện lên mau.([20])
Đức Cái Thiên Cổ Phật dạy:
Tay lần tay toàn thâu ngoại giới
Ý tình thông, xá lợi viên minh
Luyện châu có lợi cho mình
Lợi mình để lợi sanh linh mới mầu.([21])
*
Trên đây chúng ta đã phân tích, tìm hiểu từng câu bài thi xưng danh của Đức Ngô Minh Chiêu - người môn đệ đầu tiên của Đức Cao Đài, Đấng làm chủ phần vô vi tâm pháp của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và chính là Đức Tôn Sư đã đến ban trao cho Hội Thánh Truyền Giáo bửu pháp luyện châu gồm bốn tầng bậc (Linh Châu, Tướng Châu, Tâm Châu và Tam Bảo Hoàn Châu). Tóm tắt nghĩa lý sâu xa của bài thi thất ngôn tứ tuyệt này như sau:
- Đức Ngô dạy người tu (hành giả) hãy quay vào trong, dẹp trừ vọng tưởng phiền não vô minh để tìm lại chơn tâm. Đây là ý câu 1: Ngộ đặng chơn tâm hết nặng lòng.
- Đức Ngô cảnh tỉnh người tu chớ chấp không khi chưa đạt đến chân không diệu hữu. Đây là ý câu 2: Mình tu thì tránh ảo huyền không.
- Khi người tu tránh được chỗ ảo huyền không là phá chấp không, đồng thời cũng phải phá chấp tướng, để trực chỉ chơn tâm, đi vào chỗ chân không diệu hữu. Đây là ý câu 3: Chiếu minh từ thuở vô thinh sắc.
- Sau cùng, Đức Ngô nhắc nhở rằng mục đích tu hành đắc đạo không phải để độc thiện kỳ thân mà phải đem đạo cứu đời mới gọi là thành đạo. Đây là ý nghĩa câu 4: Ngoại giáo tỉnh đời cũng đại công.
Chúng ta lãnh hội rằng bài thi chiết tự xưng danh của Đức Ngô hàm ngụ thánh huấn về đường tu tâm pháp, mang tính chất trung đạo và phá chấp, để đạt đến chỗ trung dung quán nhất hầu thực thi sứ mạng trung hưng chánh pháp của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ - một sứ mạng được Đức Chí Tôn ban trao cho Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, vì vậy giáo sở trung ương của Hội Thánh Truyền Giáo được mang thánh hiệu Trung Hưng Bửu Tòa ngõ hầu nhắc nhở chúng ta luôn luôn tâm niệm, gắn ghi sứ mạng thiêng liêng này nơi lòng, và tinh tấn học tu, ra sức thi hành cho hoàn thành thánh ý.
Trên dặm dài chu toàn sứ mạng trung hưng, môn sanh Hội Thánh Truyền Giáo chúng ta vừa hành đạo vừa tịnh luyện, tức là ngoại giáo công truyền đi đôi với nội giáo tâm truyền. Nói khác đi, đó là tự giác song hành giác tha; nói gọn là đem đạo vào đời, giúp đời nên đạo.
Thực thi sứ mạng trung hưng nhằm đạt đến mục đích của Đại Đạo, như lời Đức Chí Tôn dạy:
“MỤC ĐÍCH ĐẠI ĐẠO: Đại Đạo là con đường chơn lý triệt để, mở rộng trong buổi hạ nguơn này, chớ chẳng phải là một tôn giáo biệt phái. Đại Đạo là một cái nền tảng đỡ nâng các tôn giáo, mục đích đưa vạn linh đến chỗ đại đồng, xuân đài an lạc. Đó là cái lý của mục đích, còn sự là quy hiệp Tam Giáo Ngũ Chi, hệ thành nhứt thống, chẳng còn phe phái chi chi, miễn mục đích tế chúng độ nhơn, yêu đời cứu vật, một mực trang bằng đó thôi.” ([22])

ĐỨC THUẦN


--------------------------
([1]) Đời Tu Hành Của Đức Ngô Minh Chiêu. Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo tại Đức, 2007, tr. 45.
([2]) Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho - Tam Quan, Tam Thừa Chơn Giáo. Phẩm Thượng Thừa. Đàn đêm 15-5 Quý Sửu (Thứ Sáu 15-6-1973).
([3]) Thánh thất Thái Hòa, 23-8 Ất Mùi (Thứ Bảy 08-10-1955).
([4]) Trung Hưng Bửu Tòa, 02-01 Bính Thân (Thứ Hai 13-02-1956).
([5]) Đại Thừa Chơn Giáo, đàn 05-8 Bính Tý (1936). Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2016, tr. 149.
([6]) Vạn Quốc Tự (Chơn Lý Đàn), 15-8 Ất Tỵ (Thứ Sáu 10-9-1965).
([7]) Thánh thất Thái Hòa, 14-4 Ất Mùi (Thứ Bảy 04-6-1955).
([8]) Thanh Tĩnh Kinh, Lê Anh Minh dịch và chú thích. Đại Đạo Văn Uyển, tập Trinh (12) năm Giáp Ngọ. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2014, tr. 82, 84.
([9]) Thánh giáo ngày 14-01-1926.
([10]) Đại Thừa Chơn Giáo, đàn 20-8 Bính Tý (1936). Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2016, tr. 174.
([11]) Đại Thừa Chơn Giáo, đàn 01-9 Bính Tý (1936). Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2016, tr. 51.
([12]) Vạn Quốc Tự (Chơn Lý Đàn), 15-8 Ất Tỵ (Thứ Sáu 10-9-1965).
([13]) Minh Lý Thánh Hội, 07-6 Tân Dậu.
([14]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 11-8 Bính Dần.
([15]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 11-8 Bính Dần.
([16]) Thanh Tĩnh Kinh, Lê Anh Minh dịch và chú thích. Đại Đạo Văn Uyển, tập Trinh (12) năm Giáp Ngọ. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2014, tr. 83, 85.
([17]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 15-4 Tân Hợi (Chủ Nhật 09-5-1971).
Tự giác, giác tha, giác hành (hay giác hạnh) viên mãn là ba loại giác ngộ của Phật (tam giác). Bồ Tát thì có hai (tự giác, và giác tha). La Hán thì có một (tự giác).
Có câu: Phật sở cụ túc chi tam giác: Tự giác, giác tha, giác hành viên mãn. (Phật có đầy đủ ba loại giác ngộ: Tự giác, giác tha, giác hành viên mãn.)
Tự giác: Giác ngộ cho mình.
Giác tha: Giác ngộ cho người khác.
Giác hành viên mãn: Giác ngộ và hoàn thành đều trọn vẹn, nghĩa là ở Phật thì mức độ cao nhất, hơn hẳn Bồ Tát.
Tham khảo: Đại Đạo Văn Uyển, tập Lợi (11) năm Giáp Ngọ. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2014, tr. 246-248.
([18]) Thánh thất Tịnh Quang, 07-12 Mậu Tuất (Thứ Năm 15-01-1959).
([19]) Cần: Chuyên cần, siêng năng, chăm chỉ.
([20]) Thánh thất Kim Quang Minh Đài, 11-12 Ất Mùi (Thứ Hai 23-01-1956).
([21]) Tỉnh đạo Quảng Nam, 27-01 Bính Thân (Thứ Sáu 09-3-1956).
([22]) Thánh thất Trung Thành, 08-4 Mậu Dần (Thứ Bảy 07-5-1938).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.

  • Đức Giáo Tông Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 14-3 Quý Hợi
  • 10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
  • Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS)
  • Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides