Một buổi sáng mùa xuân năm Đại Đạo thứ 14 (1938) từ bậc thềm tòa án Sài Gòn, Chưởng Pháp Lê Kim T ỵ đang ung dung bước ra đường, trên tay ôm một xấp báo, vẻ mặt rất hân hoan. Tiền bối vừa trắng án phiên xử do chính quyền thuộc địa Pháp truy tố về tội danh tờ báo Tiên Thiên Tuyên Bố của Cao Đài do tiền bối làm chủ bút đã đăng dấu hiệu chữ vạn 卐 là dấu hiệu của Hitler, và do đó Pháp quy kết Cao Đài là một tôn giáo trá hình của Đức Quốc Xã.
Tiền bối Lê Kim Tỵ đã thẳng thừ ng bác bỏ lời buộc tội trên và biện minh trước tòa rằng dấu hiệu chữ vạn của Cao Đài là hình đồ “lạc thư minh triết”, là dấu hiệu cứu thế đã được đệ trình trước phủ Toàn Quyền từ năm Khai Đạo 1926, còn dấu hi ệu củ a Đức Quố c Xã(1) mới có sau này. Rốt cuộc tiền bối được miễn tố và tờ Tiên Thiên Tuyên Bố không bị tịch thu.
Ti ền bối đang phấn khởi và hăm hở ra xe về tòa soạn, bỗng từ phía sau có tiếng bước chân dồn dập, rồi một giọng nói trẻ trung, hơi run run:
- Thưa thầy....
Tiền bối quay lại, thấy một trang thiếu niên độ 16-17 tuổi, dáng người thấp như ng khuôn mặt sáng láng, đôi mắt tinh anh, ẩn dấu chút rụt rè nhưng tự tin. Tiền bối từ tốn hỏi:
- Em muốn gì?
Người thanh niên ấy lễ phép chấp tay trước ngực thưa:
- Thưa thầy, em muốn xin một tờ Tiên Thiên Tuyên Bố để xem cho biết. Vì em có dự nghe phiên tòa vừa rồi và em rất lấy làm tò mò muốn hiểu về đạo Cao Đài.
Nghe giọng nói người Bình Định, nhìn nét mặt nghiêm trang bi ểu lộ lòng chân thật và đầy nghị lực, tiền bối Lê Kim Tỵ bảo:
- Em là người Bình Định, con cháu vua Quang Trung, muốn tìm xem cho biết nền quốc đạo Việt Nam thì tốt lắm. Nhưng em đề phòng coi chừng, chớ tụi mật thám Tây nó theo dõi khủng bố dữ lắm nghe em. Nói xong tiền bối lựa lấy ba số Tiên Thiên Tuyên Bố liên tiếp trao cho trang thiếu niên kia bằng cử chỉ rất thân thiện trong ánh mắt hiền hòa vui vẻ.
Trang thiếu niên ấy sau này chính là tiền bối Huỳnh Thanh, pháp hiệu Huệ Thanh Vân, Thiên ân phẩm vị Bảo Cơ Quân Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
Tiền bối Huỳnh Thanh sinh trưởng trong gia đình nhà nông theo nền nếp đạo Nho. Sau khi đậu Primaire ở Qui Nhơn, tiền bối được gia đình cho vào Sài Gòn tiếp tục đường học vấn. Tiền bối được gởi trọ tại nhà một vị chức sắc Cao Đài − Giáo Hữu Trần Văn Phú − ở bên nhà ga xóm Thơm, quận Gò Vấp. Trong khi trọ học, tiền bối Huỳnh Thanh đã chú ý đến nếp sống đặc bi ệt của gia đình chủ trọ. Hai vợ chồng ăn chay trường và mỗi ngày đều cúng kính. Lời kinh đọc nghe thanh thoát du dương, đã khêu gợi tính tò mò của một thiếu niên đang lứa tuổi vào đời.
Hôm ấy nghe ông chủ trọ đi dự phiên tòa xử về vụ án Cao Đài, nên tiền bối Huỳnh Thanh xin đi theo. Tính hiếu kỳ của tuổi trẻ thực sự được khêu gợi bởi những lời biện minh của vị Chưởng Pháp Cao Đài Tiên Thiên. Tự nhiên
tâm hồn tuổi thơ đang cầu học của cậu con trai mười bảy tuổi nảy sinh một ý muốn tìm hiểu mối Đạo mà tên gọi nghe còn xa lạ lắm.
Được ba tờ Tiên Thiên Tuyên Bố, cậu trai Huỳnh Thanh liền lên xe buýt về nhà ngay và suốt chiều hôm đó nghiền ngẫm không sót một dòng.
Có lẽ đối với những người khác thì bài vở của tờ báo đạo làm cho họ cảm thấy khô khan, không có gì lý thú. Nhưng với một con người đã mang sẵn căn lành, thì càng đọc tiền bối Huỳnh Thanh càng thấy say mê.
Tóm tắt nhữ ng đi ều tiền bối đã đọc được là nước Việt Nam hiệ n nay, Trời ban cho mối đạo Tam Kỳ Phổ Độ, cũng gọi là tôn giáo Cao Đài. Biểu hiệu của Thượng Đế là con mắt, gọi là Thiên Nhãn. Dấu hiệu cứu th ế là chữ vạn. Nhất là tờ báo số 3, có đăng bài thánh giáo của lão thần Phan Thanh Giản. Trong đó có những câu mà tiền bối thấy cần nhờ ông chủ trọ giải thích.
Bốn ngàn năm phong trào điên đảo
Chưa dịp nào chánh giáo phục khai
Thích, Nho, Gia, Lão nước ngoài
Ngày nay mới thấy Cao Đài Nam bang!
Khi tiền bối bày tỏ ý muốn được giải thích, để tìm hiểu, ông chủ trọ cười bảo:
- Em muốn biết rõ Cao Đài Nam bang ra sao, không thể nói hết được. Em có học biết chữ, vì đạo Cao Đài Trời mở
ở nước Việt Nam, nên dùng chữ quốc ngữ, truyền đạo bằng thánh ngôn, thánh giáo, qua cho em mượn một rương kinh sách đây, em đọc sẽ hiểu.
Thật còn gì quý hóa cho bằng. Chỉ xin được ba tờ Tiên Thiên Tuyên Bố, mà tiền bối đã như bắt đượ c vàng, nay được cho mượn một rương kinh, thì ôi thôi không biết diễn tả như thế nào cho hết nỗi vui mừng này.
Từ tối hôm đó, tiền bối say sưa, quên ăn quên ngủ, nghiền ngẫm từ quy ển này đến quyển kia, bộ này đến bộ khác, nào là Thánh Đức Chuyển Mê, Thánh Đức Chơn Kinh, Thánh Đức Chơn Truy ền, Thánh Giáo Chánh Truyền, Thánh Ngôn Hiệp Nhất, Thánh Huấn Chơn Kinh, Tiếng Trống Giác Mê, Tiếng Chuông Khải Ngộ, Mục Đích Làm Người, Cao Đài C ứu Thế, Cửa Phật Nhà Tiên, Phá Mê Trần Khổ, Đạo Đức Lược Luận, Tội Phước Tích Luận, Huấn Nữ Từ Âm, Huấn Nữ Chơn Kinh, Nữ Trung Tùng Phận, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đại Thừa Chơn Giáo, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền...
Đối với tiền bối quả thực những trang kinh kỳ diệu đã tạo sức say mê vô chừng. Một cánh cửa mới như mở ra trước mắt và trong tận cõi sâu thẳm của tâm hồn, một mầm lành bừng dậy. Lòng tín phục càng lúc càng nấu nung như thôi thúc tiền bối hãy đến với nền đạo mới này. Trước tiên, tiền bối phát nguyện ăn chay. Tiền bối thưa với bà Tư Kiên − bà chủ trọ − từ nay xin ăn chay theo gia đình chứ không ăn mặn nữa.
Vợ chồng Giáo Hữu Phú vốn ăn chay trường lâu năm lại không có con nên mến thương tiền bối như con, lâu nay vẫn sắm mặn cho tiền bối. Giờ nghe lời phát nguyện ăn chay, thì ông bà mừng vô kể. Từ đó cậu trai Huỳnh Thanh ngày ngày muối dưa chay lạt, kinh kệ ngâm nga, nghiền ngẫm thánh ngôn thánh giáo.
Tuy chưa vào Đạo, mà tiền bối đã tự đặt mình như một tín đồ thuần thành. C ẩn trọng trong từng lời ăn tiếng nói, giữ gìn từ nước bước đường đi, tinh nghiêm từ giờ ăn giờ ngủ, tiền bối cảm thấy mình đang xa lần nẻo phàm phu, tiến gần đường thánh đức.
Nhập môn
Ở gần nhà Giáo Hữu Phú có thánh tịnh Đại Thanh, tọa lạc trên khu đất tương đối im vắng và rộng rãi. Đây chính là nơi tu học của ông Giáo Hữu. Hôm ấy chiều ba mươi, sáng đến là mùng một, vào giờ Tý sẽ có đàn cơ thường lệ, do đó mới nửa chiều mà đã thấy đông đảo người ra kẻ vào. Nét mặt người nào cũng tỏ vẻ trang nghiêm, bước đi rất từ tốn. Gặp nhau họ chấp tay lên ngực chào rất đạo hạnh. Trong đám người tề tựu đó, có Giáo Hữu Phú và đặc biệt có dắt theo tiền bối Huỳnh Thanh. Ai biết được tâm trạng của người thiếu niên e dè núp theo áo dài trắng của vị chức sắc kia ra sao.
Đối với tiền bối Huỳnh Thanh cái gì cũng mới, cái gì cũng lạ, cái gì cũng như ẩn chứa một sức thiêng liêng. Nhất là tiền bối được biết gi ờ Tý có cầu c ơ do Chưởng Pháp Lê Kim Tỵ chứng đàn. Lòng tiền bối nôn nao, rạo rực, tim cứ rộn lên trong sự tính tính lo lo, không biết làm sao để được mục kích buổi cầu cơ. Bởi vì Giáo Hữu Phú dặn trướ c rồi, đàn cơ này là đàn cơ nội bộ, nghiêm cấm lắm, chỉ những ai có phận sự mới được hầu, còn mọi người thì cúng lễ xong phải đi ngủ.
Sau khi cúng lễ nử a đêm xong, tiền bối Huỳnh Thanh miễ n cưỡng theo đám đạo chúng đi vào ngủ, nhưng lòng nào có yên, tánh hiếu kỳ không cho phép tiền bối nằm ngủ. Tiền bối cứ rón rén nhỏm dậy rồi nằ m xuống, rồi nhỏm dậy. Khi nhận biết mọi người đều say gi ấc, tiền bối trèo lên cửa sổ để lén coi cho được buổi cầu cơ.
Đàn đã dạy đạo hơn một tiếng đồng hồ, không ngờ khi
tiền bối vừa trèo lên cử a sổ dòm lén, chưa kịp quan sát thì lạ lùng làm sao, tiếng gọi từ người đồng tử bảo Huỳnh Thanh vào hầu đàn. Ôi hồn xiêu phách lạc! Phải chăng dòm lén không được phép nên Thần Tiên gọi vào quở phạt? Lẹ như kẻ trộm, Tiền bối nhảy xuống chui vào chỗ ngủ, nằm im thin thít gi ả như không có chuy ện gì xảy ra. Trong khi cả đàn không biết Huỳnh Thanh là ai, chỉ riêng Giáo Hữu Phú là mừng khấp khởi. Ông bưng đèn chạy tìm Huỳnh Thanh, hối đi rửa mặt, súc miệng, mượn đồ dài trắng cho thay để vào hầu đàn.
Cơn hốt ho ảng lên đến cao độ, hai chân tiền bối quấn vào nhau. Tất cả mọi vật chung quanh nhà như cũng toát ra vẻ linh thiêng. Mặt mày tái mét, nhưng tiền bối cũng riu ríu đi theo ông Giáo Hữu bước vào nội điện, với khung cảnh trang nghiêm, huyền diệu, tất cả như chờ một con người khác lạ.
Vừa vào đến nơi, vị chứng đàn hướng dẫn tiền bối Huỳnh Thanh quỳ để nghe dạy.
Tim tiền bối như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Tiền bối không biết ơn phước hay tai họ a đây. Bỗng giọng khai khẩu của đồng tử phát ra bằng một âm điệu phi phàm. Lời Đức Võ Công Tánh dạy: “Huỳnh Thanh, em có căn lành được thâu nhận vào Đạo, em có vui mừng chăng?”
Trời ơi! Đây là thật hay hư? Việc xảy ra vừ a đột ngột vừa l ạ lùng, làm choáng váng cả đầu óc. Đức Võ Công Tánh người đã tuẫn tiết cùng với cơn lửa thiêu khi thủ thành Bình Định nay đã hiển Thần Tiên giáng đàn gọi con cháu đồng quê nhập nền Đạo mới. Mầu nhiệm quá vậy thay!
Tiền bối Huỳnh Thanh vừa run sợ, vừa kính cẩn bạch:
“Kính thưa Ơn Trên thương con, con vui lòng vào Đạo.”
Giọng đồng tử tiếp: “Vậy khá khen cho em.” R ồi qua miệng đồng tử, Đức Võ Công Tánh cho một bài thi:
Tuổi trẻ mà em biết trọng Thầy
Vì Thầy vì chúng Đạo hoằng khai
Bốn bề vật chất coi thừa thãi
Đôi gánh giang san những trở day
Hồ thỉ tang bồng cho rõ mặt
Nam trang chiến sĩ dễ nên tay
Nhiều hơi thở nhọc gây nên tiếng
Dưới bóng Tiên Thiên chiến lược bày.
Khi ra đàn, vị Chưởng Pháp đến ân cần hỏi han và được Giáo Hữu Phú giới thiệu: “Em này chính là trang thiếu niên đã xin ba tờ báo hôm nọ.” Đồng thời ông ca ngợi lòng thành nguyện ăn chay, học kinh rất say mê của tiền bối Huỳnh Thanh. Vị Chưởng Pháp vỗ vai khen ngợi và nhắn nhủ rằng: “Em cố gắng tu học nghe, vì em có căn duyên nên Ơn Trên mới thu vào Đạo để cậy em đem mối Đạo về Bình Định nhưng phải chịu nhiều gian khổ lắm, nếu em đạt thành sẽ là công lớn.” Rồi ông hỏi tiếp:
- Em định ngày nào minh thệ nhập môn?
S ự ân cần của vị Chưởng Pháp đạo cao đức cả đã làm tiền bối Huỳ nh Thanh cảm mến và tôn trọng vô cùng. Tiền bối kính cẩn thưa:
- Thưa Anh Lớn, để em xin phép gia đình rồi sẽ sắm lễ phẩm minh thệ nhập môn.
Lòng ngộ đạo của tiền bối đã dâng đến tột độ, nó nóng như lửa nung. Cái giờ phút thiêng liêng quỳ trước bửu điện minh thệ nhập đạo để trở thành môn đồ Cao Đài đang thôi thúc m ạnh. Thế mà phải chờ về quê xin phép gia đình thì lâu quá, nên nhân có người anh vào làm ăn ở Sài Gòn, tiền bối bèn thư a qua với anh, một mặt viết thư về nhà, rồi tự ý sắm hương đăng trà quả đến làm lễ nhập môn.
Kể từ đó chàng thi ếu niên thiện đạo kia đến ở luôn tại thánh tị nh Đại Thanh, ngày đêm biên biên chép chép. Tiền bối say mê với bao lời Tiên tiếng Phật, quên hẳn mộng ước ban đầu là vào Sài Gòn theo nghiệp bút nghiên để mong nên danh phận. Càng tu càng học, càng thấy đường thiêng liêng rộng mở, tiền bối dứt khoát rời bỏ học văn hóa, nuôi mộng học làm đồng loan, để được gần gũi Ơn Trên.
Thấm thoát thời gian ba tháng trôi qua, tiền bối đã được ông chủ tịnh Kiều V ăn Thê nhận luyện tập làm đồng t ử và từng bước được ông già Hai, Giáo Hữu tại Minh Kiến Đài, chỉ vẽ n ẻo chánh đường tà. Trong thời gian tập dợt điển, tiền bối mới cảm nhận trực tiếp được cái huy ền diệ u của vô hình. Tiền bối đã có lần chấp bút được hai bài tứ tuyệt như sau:
HUỲNH đào vạn lý hội minh khai
THANH khiết chọn người có chí trai
Bạch Ngọc khuyên ai ráng giũa mài
Ngọc báu khuyên người chớ dạ phai.
Người khôn ai chẳng biết làm nên
Vậy mới rằng khôn mới chí bền
Gắng sức học tu khuyên khá nhớ
Bao chừ sẽ thấy ngọc kề bên.
Tuy nhiên tiền bối vẫn ái ngại trong lòng, không biết thự c hư chân giả, nên đã bày tỏ nghi vấn của mình với ông già Hai.
- Thưa ông Hai, ông Hai đã luyện tập chỉ dạy cho con và con đã tiếp nhận được huyền linh của Ơn Trên nhưng con nghe có câu rằng:
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà
Chánh tà hai lẽ đoán sao ra.
nên con ái ngại quá.
Ông già Hai chúm chím cười bảo rằng:
- Cái đó cháu yên chí, miễn cháu thành tâm thì ông sẽ chỉ điểm cho.
Rồi ông đọc tiếp bốn câu thơ:
Làm Thầy tà chánh không phân
Còn mong điểm đạo truyền thần cho ai
Quỷ ma yêu quái cũng mình
Bỏ lòng dục vọng khá gìn chơn tâm.
------------------------------------
(1) Chữ vạn Cao Đài 卐 là Swastica quay ngược tượng trưng cho
vạn thù quy nhất bổn, còn dấu hiệu của Đức Quốc Xã gọi là symbole des Nazis.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét