Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Canh Tý (1960)
Trung Hưng Bừu Tòa (Đà Nẵng)
ngày 18-11 Canh Tý (Thứ Tư 04-01-1961)
Chào chư Thiên ân phận sự.
THI
LÝ nào Hội Thánh phụ lòng Ta
THÁI độ Thiên ân giữ chữ hòa
BẠCH hắc cũng đừng đòi hỏi biết ([1])
GIÁNG khuyên ai nấy hướng về Cha.
Giờ này, Bần Đạo thể lòng ([2]) chư Thánh Thiên Đồ, trở về ngự tọa nơi này để được an bài, dẫn dắt toàn đạo đương hồi khảo thí mà phần đông chư Thiên mạng chịu quyền pháp đương nhiệm công vụ trung hưng.
Lòng một khi thiếu bình tĩnh có thể để làm cho ý tình dẫn đưa đến một nơi mờ mịt. Mờ mịt như lúc ban đêm, đến nỗi hai đàng gặp nhau mà còn nghi ngờ, xét từ câu chuyện, lời nói. Không làm như thế sao khỏi lầm lẫn kẻ bạn người thù. Vì đã không thấy được hình trạng mặt mày nhau mà chỉ nghe giọng nói. Nên Bần Đạo lấy làm thương, lấy làm lo. Lo một ngày gần đây ma quỷ đến nhiễu loạn. Mặt trận thánh đức đã rời rạc thì phương ([3]) nào chiến thắng ma vương, lập lại hòa bình cho bốn biển.
Mặt trời mau mọc lên cho ánh sáng chói đến trần gian, vẹt u mờ của đêm tối; để cho bạn tri kỷ gặp nhau, tay bắt mặt mừng, đem nỗi hàn huyên tâm sự ([4]) để cảm thông lòng trung trinh ([5]) mà từ lâu bị một vật gì ám ảnh.
Hôm nay, Bần Đạo đã đồng thể đồng tình cùng Hội Thánh, mong sự lập lại cảnh bình yên cho nội bộ, nhưng chắc chắn rằng sẽ bình yên bắt đầu từ giờ phút này trở đi, mặc dù nhiều người chưa tin được. Bần Đạo nói quyết ([6]) rằng sự bình yên đã đến cho nơi nào là nơi ấy được bình yên.
Bần Đạo cũng không phải tự giới thiệu mình là Đấng bình yên, nhưng Bần Đạo tự tin ở mình có quyền pháp của Cha Trời mến trao để đem lại sự bình yên cho bốn biển. Sự bình yên khi đã trở nên hữu hình thì chẳng những trong nội bộ Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được trọn hưởng, mà đầy rẫy trên thế gian đều được tươi vui cộng hưởng,([7]) nhất là các nền Ngũ Chi Tam Giáo, hình thành một Hội Thánh duy nhất đại đồng.
Sự bình yên đã trở nên hữu hình là một việc dễ bề cho bốn biển quy hồi cộng sự. Khó là khi sự bình yên này còn ẩn núp trong vô hình thì mấy người tin nghe, mấy người làm theo. Và nếu kẻ biết làm theo và thừa thuận sứ mạng thì phước đức vô cùng. Mà phước đức ấy Thầy lại dành riêng cho hàng Thiên ân Hội Thánh. Toàn đạo đã ngưỡng trông nơi Hội Thánh quyền pháp.
Bần Đạo để lời khuyên nên làm cho sự bình yên này trở nên hữu hiệu. Khi đã hữu hiệu thì sẽ đến cơ hữu hình. Mà cơ hữu hình có hiện được cũng ở trong cơ hữu hiệu mà phát sinh.
Từ lâu, sự bình yên này bị mất đi. (. . .) Mất đi là vì giữa nhau chống trái,([8]) giữa nhau không tôn trọng quyền pháp đã gắn cho Hội Thánh, đã trao cho từng người Thiên ân. Bởi Thiên ân tự bỏ sự bình yên ở mình là quyền pháp, nên Thánh Linh ([9]) xa lánh.
Vậy hôm nay, Bần Đạo thể lòng từ bi ([10]) trọn hứa, nên an trụ tinh thần cho Hội Thánh dễ bề xây dựng.
Bần Đạo cũng chờ một ngày ổn định sẽ ban hành các đạo luật, các lời giáo hóa rao truyền sứ mạng trung hưng.
Bây giờ, dầu có nói cũng chưa thấm nhiễm được lòng các hiền. Bần Đạo chỉ đến làm lá bùa trấn tâm để cho ma quỷ bên ngoài không xâm nhập, bên trong chánh khí hồi sinh; để khử ám hồi minh ([11]) cho vạn dân trong cơn nước lửa.([12]) Cơn nước lửa đã đến, sanh linh đương lo sợ phập phồng, sao ở đây các đệ còn vô tư ([13]) trên vấn đề chết sống của nhân loại.
Mau đi! Bình tĩnh đi! Hòa cùng nhau để làm tòa ngự.([14]) Có tòa ngự rồi thì có Thầy. Có Thầy ngự nào có đáng sợ.
(. . .)
Việc làm cố gắng theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền. Phần nào nếu không thể áp dụng thì bất đắc dĩ sẽ cho phép [linh hoạt], như thành lập họ đạo, gả cưới.
Việc nội vụ, ngoại giao, mỗi khi có gì trở ngại thì đến cùng, Bần Đạo dạy cho.
Thôi, Bần Đạo để lời khuyên chung, cố gắng giữ còn danh nghĩa Giáo Hội, sứ mạng trung hưng.
Bần Đạo thăng.
([1]) Bạch hắc cũng đừng đòi hỏi biết: Xem Phụ Đính cuối bài thánh giáo này.
([2]) thể lòng (depending on one’s wish): Tùy theo lòng, theo ý.
([3]) phương 方 (method): Phương cách.
([4]) hàn huyên 寒暄 (cold and warm; fig., sad and happy happenings in one’s life): Lạnh và ấm; nghĩa bóng là những chuyện buồn vui trong đời. – tâm sự (thổ lộ 吐露: confiding a private matter): Chia sẻ chuyện lòng.
([5]) trung trinh 忠貞 (loyal and dependable): Trung thành, đáng tin cậy.
([6]) nói quyết (speaking decisively): Nói dứt khoát, nói chắc chắn.
([7]) cộng hưởng 共享 (sharing, enjoying together): Cùng nhau chung hưởng.
([8]) chống trái (severely contradicting one another): Kình chống, trái nghịch nhau.
([9]) Thánh Linh 聖靈 (the Holy Spirit): Thiên điển của Đức Chí Tôn.
([10]) thể lòng từ bi (because of mercy): Vì lòng thương xót.
([11]) khử ám hồi minh 去暗回明 (removing ignorance and restoring wisdom): Trừ bỏ sự u tối, lấy lại sự sáng suốt.
([12]) cơn nước lửa 水火 (water and fire; fig., fatal dangers): Những hiểm nguy chết người. Thành ngữ Anh nói tương tự: going through fire and water: 經過水火 kinh quá thủy hỏa. Trong Cựu Ước có câu (Thi Thiên 66:12): Cơn nước lửa, chúng con từng gặp bao lần. . . / (Psalms) we went through fire and water. . . / (詩篇) 我們經過水火. . . ngã môn kinh quá thủy hỏa. . .
([13]) vô tư (bất quan tâm, lãnh đạm 不關心, 冷淡: indifferent, unworried about): Dửng dưng, không lo nghĩ tới, chẳng quan tâm.
([14]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.
HUỆ KHẢI chú thích - LÊ ANH MINH hiệu đính
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét