1. Bối cảnh lịch sử của một cơ quan Đạo
Đạo Cao Đài thành lập năm 1926 với một đại lễ Khai Minh đầy ấn tượng vào trung tuần tháng 11 và kéo dài suốt ba tháng tại làng Long Thành thuộc tỉnh Tây Ninh. Bốn năm sau đó, Hội Thánh Cao Đài hãy còn mới mẻ đã sớm chịu cảnh phân ly. Trong mấy năm 1930-1935, nhiều Hội Thánh khác lần lượt hình thành ở các tỉnh miền Nam và miền Trung.
Trong những năm từ 1936 đến 1962, đã có nhiều cố gắng nhằm hàn gắn các cộng đồng Cao Đài trở lại thành một Hội Thánh toàn vẹn và duy nhất. Theo thứ tự thời gian thành lập, có thể kể vắn tắt như sau:
1936: Cao Đài Đại Đạo Liên Đoàn ra đời, không lâu sau đó đổi tên thành Liên Hòa Tổng Hội. Do kết quả bầu cử năm 1937, Tổng Hội có Tổng Trưởng là Nguyễn Phan Long (1889-1960), và Tổng Thơ Ký là Huệ Lương Trần Văn Quế (1902-1980) [xem Phụ Bản 1]. Sau mười hai Hội Long Vân không kết quả, Tổng Hội tự giải thể vào giữa năm 1940 để khỏi có thêm một tổ chức Cao Đài hiện hữu trong hoàn cảnh đang phân ly. Tuy nhiên, bất chấp sự thực này, một số tác giả vẫn nhầm lẫn dán cho Tổng Hội cái nhãn “chi phái” [xem Phụ Lục 2].
1951: Cơ Quan Cao Đài Quy Nhứt hình thành, năm sau đổi tên thành Cơ Quan Cao Đài Thống Nhứt.
1956: Cơ Quan Cao Đài Thống Nhứt đổi tên thành Ban Vận Động Cao Đài Thống Nhứt.
1962: Ban Vận Động Cao Đài Thống Nhứt trở thành Ban Phổ Thông Giáo Lý Liên Quan Hành Đạo, gọi tắt là Ban Phổ Thông Giáo Lý, với Trưởng Ban là Đức Lý Giáo Tông; Phó Ban 1 là Huệ Lương Trần Văn Quế; Phó Ban 2 là Chơn Tâm Nguyễn Triệu Kha (1908-1995) [xem Phụ Bản 1]. Mặc dù sự chuyển hướng năm 1962 là do các Đấng thiêng liêng giáng dạy qua cơ bút, nhưng nội bộ Ban Vận Động Cao Đài Thống Nhứt không đồng thuận.
1963: Thuận tùng chủ trương chuyển hướng nói trên, một nhóm thành viên tách ra khỏi tổ chức cũ và quy tụ tại Thiên Lý Đàn (quận 3, Sài Gòn) chờ lịnh Ơn Trên.
1965: Nhóm người ở Thiên Lý Đàn được Đức Cao Đài Thượng Đế ban ơn thâu nạp làm nhân sự nòng cốt của Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý, khai mạc ngày Thứ Ba 16-02-1965 tại quận 1, Sài Gòn.
Mặc dù Ơn Trên mệnh danh tổ chức mới thành lập là Văn Phòng, nhưng ngay trước ngày khai mạc, trong đàn cơ ngày Thứ Hai 15-02-1965, như thể một lời báo trước, Đức Cao Đài Thượng Đế dạy: “Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý không phải là một chi phái…”. Quả thật, qua năm sau (1966) danh xưng Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam chánh thức ra đời.
Năm 1974, Đức Lý Giáo Tông lại nói tới “Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo” như thể một lời báo trước. Quả thật, ngày Thứ Hai 18-5-1981, Đức Lý Giáo Tông dạy: “… danh hiệu Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý đến lúc này cũng cần đề Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo.” Tuy nhiên mãi đến năm 1985 các văn thư của Cơ Quan mới bắt đầu dùng danh xưng Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo [xem Phụ Bản 2].
Khác với thánh thất, Cơ Quan không giữ sổ bộ đạo (ghi chép những người mới vào đạo) vì theo lệnh Ơn Trên, Cơ Quan không được làm lễ nhập môn.
Thành viên Cơ Quan vốn là người từ các họ đạo Cao Đài tự nguyện gia nhập vì tán thành và chấp nhận đường lối Cơ Quan là phổ thông giáo lý để góp phần thống nhất đạo Cao Đài. Hầu hết thành viên Cơ Quan đều ăn chay trường và tập thiền.
Tôi dịch “Cơ Quan” là “the Organ”, vừa sát nghĩa từ ngữ, vừa nhấn mạnh rằng Cơ Quan không phải là một chi phái như một số tác giả nhầm lẫn [xem Phụ Lục 2] dán nhãn cho “bộ máy sau cùng” này của đạo Cao Đài, nói theo lời Đức Cao Đài Thượng Đế trong một đàn cơ tại Thiên Lý Đàn ngày Thứ Sáu 04-02-1966.
Đối với người đạo Cao Đài, hễ nói “Đại Đạo” tức là nói tới “Cao Đài Giáo”. Trong lời lẽ này, “Đại Đạo” là cách nói gọn “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” - một cụm từ Hán-Việt có nghĩa là “Cuộc Phổ Độ Lần Thứ Ba Của Đại Đạo”.
Trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ngày Thứ Tư 10-02-1971, Đức Lý Giáo Tông dạy: “... đạo Cao Đài [là] nói tắt, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ [là] nói nguyên văn”.
Do đó, khi chuyển hai cụm từ “Giáo Lý Cao Đài Giáo” và “Giáo Lý Đại Đạo” ra tiếng Anh, tôi chỉ dùng một cách duy nhất là Caodai Teaching.
Tóm lại, đây là lý do vì sao trong các sách song ngữ Việt-Anh đã xuất bản, tôi đều dịch “Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo” và “Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo” là “the Organ for Universalising Caodai Teaching”.
Tính từ đầu xuân Ất Tỵ (1965) với tiền thân là “Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý” cho đến đầu xuân Giáp Dần (1974), Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam vừa trải qua chín mùa xuân. Đúng vào mùa xuân thứ chín của Cơ Quan, Đức Giáo Tông Vô Vi Lý Thái Bạch giáng cơ tại Cơ Quan và dạy về ý thức hệ Cao Đài. Đây là lý do vì sao mở đầu bài viết về ý thức hệ Cao Đài tôi lại chủ ý nói qua về bối cảnh lịch sử của Cơ Quan này.
“Ý thức hệ” còn gọi là “hệ tư tưởng” và người Hoa gọi là “ý thức hình thái” 意識形態 tức là “hình thái (của) ý thức” nói theo tiếng Việt.
Ý thức hệ không phải là một thuật ngữ Cao Đài và lần đầu tiên được dùng trong thánh giáo Cao Đài. Do đó, trước khi tìm hiểu ý thức hệ Cao Đài, ắt không thể bỏ qua khái niệm cơ bản về ý thức hệ, căn cứ theo Encyclopædia Britannica / Từ Điển Bách Khoa Anh (https://www.britannica.com/topic/ideology-society, truy cập ngày 03-10-2017).
2. Khái niệm cơ bản về ý thức hệ
2.1. Ý thức hệ nghĩa là gì?
Từ Điển Bách Khoa Anh danh tiếng thế giới định nghĩa ý thức hệ là “một hình thái xã hội hay triết học trong đó các yếu tố thực hành cũng quan trọng như các yếu tố lý thuyết. Ý thức hệ là một hệ thống tư tưởng khao khát giải thích lẫn đổi thay thế giới.” Trong định nghĩa hàm súc này, cần lưu ý hai động từ “giải thích” và “đổi thay” để nghiên cứu thánh giáo Đức Lý Giáo Tông đã nói trên.
2.2. Nguồn gốc của ý thức hệ
Từ Điển Bách Khoa Anh viết:
“Từ ‘ý thức hệ’ xuất hiện lần đầu tiên trong tiếng Pháp là ‘idéologie’ vào thời Cách Mạng Pháp, lúc nó được một triết gia Pháp là [Bá Tước] Destutt de Tracy [1754-1836] khai sinh, [xem Phụ Bản 4] để rút gọn cho cái mà ông gọi là ‘khoa học tư tưởng’ (…). Khoa học tư tưởng là một khoa học mang một sứ mệnh: Nó nhằm mục đích phục vụ con người, thậm chí là cứu giúp họ, bằng cách trừ khử óc thành kiến của họ và chuẩn bị cho họ được lý trí làm chủ.
“Destutt de Tracy và các ‘nhà ý thức hệ’ bè bạn đã sáng tạo một hệ thống giáo dục quốc gia mà họ tin tưởng sẽ chuyển hóa nước Pháp thành một xã hội có lý trí và khoa học. Sự dạy dỗ của họ là một niềm tin hừng hực vào tự do cá nhân kết hợp với một chương trình tỉ mỉ để hoạch định đất nước, và trong bốn năm ngắn ngủi (1795-1799) hệ thống giáo dục của họ trở thành học thuyết chánh thức của nền Cộng Hòa Pháp. Hoàng Đế Napoleon ban đầu ủng hộ Destutt de Tracy và các bạn bè ông, nhưng lại sớm quay ra chống báng họ, và vào tháng 12 năm 1812 Napoleon thậm chí còn đi xa hơn nữa khi quy trách nhiệm rằng những lần bại trận của Pháp là bởi ảnh hưởng của các nhà ý thức hệ, những người mà ông ta nói tới với lòng khinh miệt.
(…)
“Một số nhà triết học sử gọi thế kỷ 19 là thời đại ý thức hệ, không phải vì bản thân từ này vào lúc ấy được dùng rất rộng rãi, mà vì rất nhiều tư tưởng của thời ấy có thể được phân biệt với những gì thịnh hành trong các thế kỷ trước nhờ vào những đặc trưng mà ngày nay thường gọi là mang tính ý thức hệ.”
2.3. Ý thức hệ và tôn giáo
Từ Điển Bách Khoa Anh viết:
“Thật ra các ý thức hệ đôi khi được nói tới như thể chúng và các tôn giáo đều thuộc về cùng một phạm trù luận lý. Trong ý nghĩa nào đó về các ‘tổng’ hệ thống, cả ý thức hệ và tôn giáo đều cùng lúc bận tâm đến những câu hỏi về chân lý và những câu hỏi về hành vi; nhưng những dị biệt giữa các ý thức hệ và các tôn giáo có lẽ quan trọng hơn những tương đồng. Được xây dựng theo một trật tự thiêng liêng và giống như ý thức hệ, một lý thuyết tôn giáo ít khi quy hướng vào riêng thế giới này. Một tôn giáo có thể trình bày một hình ảnh về một xã hội công bằng, nhưng tôn giáo không dễ gì có được một chương trình chánh trị thực tiễn. Tôn giáo nhấn mạnh tới đức tin và thờ phượng; tôn giáo kêu gọi hướng nội và nhằm cứu chuộc hay thanh tẩy tinh thần con người. Một ý thức hệ thì nhắm tới cộng đồng, quốc gia, hay giai cấp. Một số tôn giáo thừa nhận họ được mạc khải, trong khi ý thức hệ luôn luôn tin tưởng, tuy sai lầm, rằng nó sống chỉ bằng lý trí mà thôi. Có thể nói cả tôn giáo và ý thức hệ đều đòi hỏi sự hy hiến (...).”
Bằng lối văn khá hàn lâm, giải thích trên đây của Từ Điển Bách Khoa Anh không dễ hiểu và không dễ dịch sang tiếng Việt. Đọc thẳng nguyên bản tiếng Anh (xem phần sau, tr. 83-85) có lẽ quý bạn dễ hiểu đúng hơn.
Khi dịch, tôi lược bớt khá nhiều diễn giải dài dòng trong nguyên bản tiếng Anh, và đánh dấu chúng bằng ký hiệu (…). Qua các trích đoạn đó, cần rút ra một số chi tiết đáng lưu ý, vì chúng sẽ giúp ta tìm hiểu ý thức hệ Cao Đài.
3. Một số chi tiết đáng lưu ý
Qua giải thích của Từ Điển Bách Khoa Anh về ý thức hệ, cần lưu ý bốn điều như sau:
* Đối tượng của ý thức hệ: “Một ý thức hệ thì nhắm tới cộng đồng, quốc gia, hay giai cấp.”
* Mục đích của ý thức hệ: “Ý thức hệ là một hệ thống tư tưởng khao khát giải thích lẫn đổi thay thế giới.” Ý thức hệ nhằm giúp con người “trừ khử óc thành kiến của họ”.
* Cách thức thực hiện của ý thức hệ: Ở Pháp, các nhà ý thức hệ đã “sáng tạo một hệ thống giáo dục quốc gia”. Điều này có nghĩa ý thức hệ nhằm thay đổi xã hội và con người thông qua giáo dục.
* Yêu cầu của ý thức hệ: Các ý thức hệ đều “đòi hỏi sự hy hiến”.
4. Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông
Trong đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (số 171 đường Cống Quỳnh, quận 1, Sài Gòn) vào giờ Tuất (7-9 giờ tối) ngày 15-01 Giáp Dần (Thứ Tư 06-02-1974), Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch dạy:
Nhân sự hiện diện đông đủ của chư hiền đệ, hiền muội hôm nay, Bần Đạo cũng nêu một vài điều cần cho cơ Đạo hiện hữu để giúp phần nào cho chư hiền tu thân hành đạo, lập công bồi đức.
Chư hiền đệ, hiền muội là những người chức sắc, chức việc, tín đồ, đạo hữu trong các Hội Thánh, Giáo Hội, thánh thất, thánh tịnh, đoàn thể trong Đại Đạo thì đã có ít nhiều liên hệ, hãy hiến thân để phục vụ thánh thể của Đức Chí Tôn. Điều mà Bần Đạo muốn nói hôm nay là hình thể Đạo và giáo thuyết hay ý thức hệ Cao Đài.
Hình thể Đạo là thánh thể của Đức Chí Tôn tại thế. Đại Đạo khai minh qua bốn mươi chín mùa xuân tô điểm. Những ngôi thánh đường đồ sộ uy hùng vươn lên khắp nơi, khắp chốn. Dầu trải qua bao nhiêu biến chuyển của cuộc đời nhưng hình bóng Đạo vẫn theo thời gian mà xuất hiện. Duy có một điều mà chư đệ muội hầu hết ít lưu tâm là nhân sự và hành chánh Đạo.
Này chư hiền, Thượng Đế không ngự trị trên vật thể vô tri, mà trái lại Thượng Đế ngự trong tâm tháp ngà của tâm hồn nhân loại. Hình thể Đạo chỉ mượn đó để thể hiện thánh thể Chí Tôn tại thế.
Thượng Đế không là một hình bóng của thần tượng, nhơn tượng hay vật tượng. Chính biểu tượng Thiên Nhãn cũng chỉ là tạm mượn để gởi gắm chơn lý trong một cụ thể chủ quan mà thôi. Chính vì vậy, kiến tạo hình thể Đạo có được giá trị cùng chăng là phải có nhơn tâm làm chứng thị. Giá trị của nhơn sanh giác ngộ sẽ định vị cho hình thể Đạo của từng địa phương.
Chư hiền thử nghĩ: Người nông phu nào cũng gieo mầm lúa trên thửa ruộng màu mỡ mà không bao giờ gieo trên tấm thảm nhung tơ. Dầu thảm đó có thêu được đẹp nổi muôn màu nhưng giá trị của tấm thảm vẫn là tấm thảm để trang trí kiêu sa, chớ làm gì khơi động được mầm sinh sôi bất tận. Tấm lòng của nhân loại mới chính là nơi chân lý cứu rỗi phát sinh, tạo thế an bình cho nhân loại. Vì vậy nhơn tâm Đạo phải phát khai, phải sum sê tàn lá. Thửa ruộng không được chăm sóc màu mỡ thì bông lúa nào được nặng trĩu đua chen.
Nền Đạo không được khai minh thì nhơn tâm Đạo quá ư là ít ỏi. Người chèo thuyền bát nhã, kẻ phát độ cành dương là cần vớt cho hết người chết đắm, cứu cho cùng khắp kẻ nạn tai, nào phải đợi người lụy dòng trèo lên thuyền cứu độ hay kẻ bịnh ngặt đến hứng giọt cam lồ rồi đành bảo bởi vô minh duyên nghiệp làm cho sóng dập kiếp phù sinh.
Có tập thể là phải có tổ chức. Hành chánh Đạo không phải để phục vụ cho Thượng Đế. Thượng Đế nào có cần chi, nhưng thế sự chỉ để phục vụ cho nhơn sanh tất cả. Mượn hành chánh Đạo là làm thế nào để thể hiện được tương liên tương trợ dìu dắt lẫn nhau từ kẻ nhỏ nhít cùng trở về với Đại Linh Quang trong buổi chót.
Thế nên thiết lập một cơ cấu hình thể Đạo mà bảo tồn không được cũng không khai sáng thêm hơn, thiệt là một điều thiếu sót và tội lỗi lớn với chính mình. Đừng để cho một tâm hồn nào phải thương xót trước một thánh thể của Chí Tôn. Đã tạo được thì phải cố gắng khai minh và phát huy cho đúng với sự tạo dựng của mình hay của người đi trước.
Ngoài ra chư hiền cần nên lưu tâm về hình thức vì hình thức cũng sẽ thể hiện là tạo nên sự nhứt trí của tâm hồn và uy lực của thế đạo trong công cuộc xây dựng tâm linh và cứu độ nhơn sanh. Đừng bảo đó là giả mà không lưu tâm. Có mấy ai chỉ mơ về bên kia bờ giác mà quên đóng con đò để vượt qua chắc chắn an toàn. Không bát nhã thuyền nào chở đặng thân phàm xác thịt sang khỏi sông mê.
Chư hiền đệ, hiền muội có nghĩ gì về giáo thuyết hay ý thức hệ Cao Đài?
Hỡi chư hiền đệ muội, có sự đánh mất vật chất hay tiền tài nào nguy hại bằng sự đánh mất ý thức hay tâm hồn?
Chư hiền ôi, manh áo sô gai, nhà tranh vách đất, ngao du sơn thủy mà tâm hồn trong sạch an vui còn hơn ngựa xe chen chúc, gác tía đài son, bon chen xuôi ngược với sự việc đánh mất cả chính mình mà nào ai có biết. Mượn phương tiện để phục vụ cho cứu cánh, đừng để cứu cánh phải vùi chôn trong phương tiện phù ba. Chân lý không là sự rải rác chấp nhận. Chân lý là sự giác ngộ đơn thuần.
Ý thức hệ chân chính Đại Đạo đã quá sáng tỏ làm chói mắt cả thế nhân rồi nhân thế lại tưởng tượng rằng chân lý của Đại Đạo cũng chỉ là ánh sáng trong tầm mắt hạn hẹp hay tưởng tượng quẩn quanh của riêng mình mới thật đáng thương.
Cao Đài không là Cao Đài, đó chính thị là Cao Đài. Cao Đài không tự nó sinh phát riêng cho Việt Nam hay bất cứ nước nào, không là của người này hay kẻ kia, không là Tây Ninh hay Bến Tre, không là Truyền Giáo hay Tiên Thiên. Cao Đài là Cao Đài thế thôi. Chân lý tự nó phủ nhận chân lý.
Chư hiền muốn thiết lập thành quả để tạo cơ trình tiến tới sự hiệp nhứt cho Đại Đạo thì nên hiểu, bất cứ sự phân hóa nào cũng không thể vượt qua khỏi vòng trời đất hay huyền linh của Thượng Đế Chí Tôn.
Chư hiền hãy gom các chiếc mai vàng vào cành mai tươi tốt để khoe sắc với Chúa Xuân. Nếu kết hợp chỉ là kết hợp, phân hóa chỉ là phân hóa, đó cũng là cơ tận diệt của cuộc đời.
Thượng Đế vẫn hiếu sinh, phân hóa phi phân hóa, kết hợp phi kết hợp. Đó là ý nghĩa của cuộc hiếu sinh xây chuyển.
Bần Đạo dạy hôm nay cho chư hiền đệ, hiền muội cũng đủ để tạm làm hành trang trên đường về cùng Thượng Đế để khỏi trở ngại lạc lầm.
Hãy trỗi bước lên đường chánh đạo,
Hãy lập tâm hoằng giáo độ nhơn.
Rồi xem máy Tạo tuần huờn,
Cái cơ đào thải, bảo tồn phân minh.
(…)
Bần Đạo ban ơn lành cho tất cả chư hiền hiện diện hôm nay.
Bần Đạo sẽ hộ phò cho chư hiền trên đường tu thân hành đạo được vững vàng. Bần Đạo giã từ. Lui.
Huệ Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét