Đại Đạo tạo con đò cứu khổ, Hướng đạo cần tự độ, độ tha. Năm chi bảy phái hiệp hòa, Trương cờ Đại Đạo xây tòa vạn linh.

LỜI GIAO CẢM

LỜI GIAO CẢM
(Kích vào hình ảnh để xem tiếp lời giao cảm)
  Xin chân thành cảm ơn quý huynh, tỷ, đệ, muội và quý độc giả đã ghé thăm NGÔI NHÀ ĐẠI ĐẠO

Thứ Năm, 26 tháng 5, 2011

CẢNH BÁO ĐƠN THÀNH

Tý thời, đêm 01 tháng 4 năm Giáp Dần - Đại Đạo 48 (22.4.1974).

THI
Đại dược kim đơn thị nhứt danh,
Khảm Ly giao cấu tử tôn thành.
Phương tri tịnh hội thời cơ hóa,
Thể đắc chơn hề hiệp luyện phanh.
BÀI
Thừa truyền chơn pháp luyện tu,
Phải rành chủ yếu công phu rõ ràng.
Điều dược pháp khởi đoan thành tựu,
Thần Khí quy Linh Thứu hoát khai.
Lần theo tiết tự trong ngoài,
Đúng thời, đúng lệnh có ngày nên công.
Từ khởi thủy tạo dòng Chân Chủng,
Đến đơn thành điều dụng hỏa phong.
Võ văn, động tịnh chuyển thông,
Công phu hiệp luyện Mạng đồng Tánh chơn.
Chân diệu dụng tâm hoàn chí thiện,
Trí giác minh tự hiện ý thành.
Chớ nên chấp trước hình danh,
Ẩn tàng tông tích, trực hành luyện tu.
Nhịp nhàng định hướng công phu.
LÝ THÁI BẠCH GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO Lão chào mừng chư phận sự Hiệp Thiên Đài và miễn lễ đàn trung, an tọa.
Đàn nay Bần Đạo dạy về đề tài: "Cảnh Báo Đơn Thành".
Cơ Đơn Thành chẳng phải tạm thời hay chốc lát mà đắc được cái Đạo chí chơn. Phải trải qua nhiều ngày với công phu Ngưng thần phản chiếu về ngôi chí thiện cho được thuần thục, sau đó mới có được Thiên Cơ chí diệu lai phục.
Có người chỉ trong một tháng mà Nguyên quan hiển lộ, hoặc vài ba tháng mà Đơn điền bặt tiếng.
Sớm muộn khác nhau do ở chổ công phu có được tinh tiến hay không. Nếu cơ Điều dược được như pháp thì có hiệu nghiệm rõ ràng.
Chân chũng tử đã thành, thì châu thân dung hòa, tâm tự nhiên hư tịnh, khoái lạc. Các Khiếu nhỏ đều ngứa ngáy, ngoại thận đột nhiên dương cử. Đơn điền âm ấm, đột nhiên có tiếng động bên trong. Thần Khí hút nhau, âm dương hiệp nhất. Khảm Ly giao hòa, Nhâm Đốc khai thông, trăm mạch cũng đều thông. Tổ khiếu Huyền quang mở, muôn Khiếu đều mở.
Khi Thánh Thai đã thành thì có một luồng dương quang phát hiện, đó là điểm "Cảnh báo đơn thành" của thời Bá Nhựt Trúc Cơ. Dương quang phát hiện từ huyệt Minh Đường đến huyệt Đơn Điền.
Lúc đầu dương quang phát hiện nhưng hỏa hầu chưa toàn vẹn, dâm căn chưa rút, nên lúc gặp dương sanh tức phải thể luyện rồi vận một Châu Thiên. Vận xong rồi tịnh, tịnh rồi lại vận, vận rồi lại tịnh. Chủ yếu là cho đủ số 360 Châu Thiên rồi nhập định để bồi dưỡng Chơn dương, và lắng nghe dương quang phát hiện lần thứ hai, là thoạt nhiên có một luồng bạch quang phát hiện theo đường cũ. Lúc bấy giờ phòng thất tự nhiên sáng bạch.
Lần này cũng thể, cũng vận, cũng tịnh, cũng nhập định, cũng vận đủ 360 Châu Thiên như lần trước rồi chờ. Chờ cho đến dương quang phát hiện lần thứ ba mới dùng "Pháp quá quan" dẫn Chân Xá Lợi về Đơn Điền.
Nếu dương quang tam hiện mà còn tiếp tục hành hỏa đến tứ hiện là sai pháp, gặp nguy hiểm. Vì Đại Dược đã định mà Hỏa chưa định thì Dương Khí sẽ bị tổn thương, sẽ hóa lại hữu hình Hậu Thiên tẩu lậu ra ngoài, há chẳng nguy hiểm lắm sao!
THI
Luyện đắc huờn đơn Chân Chủng sinh,
Dương quang nhị hiện báo công thành.
Tu dương đình chỉ Châu Thiên hỏa,
Chuyển dụng song mâu diệu pháp hành.
HỰU
Hành trình mật nhiệm đại đơn thành,
Chân tức vi vi, ý bất sanh.
Ôn hỏa huân chưn vô gián đoạn,
Nhật thường tịch chiếu, dạ lưu phanh.
Thăng...

Tý thời, đêm 15 tháng 4 năm Giáp Dần - Đại Đạo 48 (06.5.1974).
 THỂ ĐẠI DƯỢC THIÊN CƠ: QUÁ QUAN PHỤC THỰC
THI
QUAN cố u huyền tại bổn tâm,
ÂM truyền dẫn nhập ẩn cơ thâm.
BỒ đài Phật Tử chân nhân xuất,
TÁT hiệp Thiên trình dương phụ âm.
Bần Đạo chào chư phận sự và miễn lễ, an tọa.
Hôm nay tiếp dạy đề tài: "Thể đại dược" tức là "Quá Quan Phục Thực".
Thiên cơ bí diệu, Chư Hiền nên thận trọng, nếu tiết lộ sai lầm ắt phạm Thiên điều khiển trách.
Đại dược có nhiều tên gọi: Chân Chủng Tử, Thánh Thai, Xá Lợi... là một chân bửu vật, sơ chứng sau thời Bá Nhật Trúc Cơ.
Vì Chơn Dương Khí nội động nội sanh nơi khí huyệt chẳng xuất nên gọi
Chơn duyên nội dược hay Kim đơn đại dược.
Thể đại dược cần phải nhập định. Cái hỏa hô hấp tự nhiên xoay vần bên trong, không trước ý đến mà chỉ dùng cái công song mâu quang. Ban ngày dùng cái sáng của song mâu chuyên nhìn soi vào Đơn Điền, vào Thánh Thai chẳng gián đoạn. Ban đêm dùng cái sáng của song mâu giữ cầm chẳng trể thì Đại dược tự viên thành, tự xuất lư nên gọi Cơ tại mục dã (cái máy nhiệm ở hai con mắt).
Thánh Thai có đặc tính thượng xung nên khi được hình thành có sự chuyển động thông hượt tự hướng thẳng lên tâm vị. Nhưng tâm vị không phải là nơi tạm trú của Chân Chủng Tử, nên phải trở về vị trí cũ rồi tìm con đường khác mà đi.
Bởi vậy Tu sĩ phải chuẩn bị trước hai mộc tọa yểm Cốc đạo và Tỷ khiếu, là hai nơi mà Chân Chủng Tử thường bị thoát lậu. Lại còn phải đóng chặt các của ải quan để hỗ trợ cho pháp "Quá quan" viên mãn.
- Dùng tọa cụ lót trụ Cốc Đạo cho thận căn vô lậu.
- Tai, mắt đều quy trung, tức soi chiếu và lắng nghe vào trong cho nhãn căn, nhĩ căn vô lậu.
- Miệng, răng ngậm kín, lưỡi chống ổ gà cho thiệt căn khỏi lậu.
- Một niệm chẳng sanh, một ý chẳng động cho ý căn chẳng lậu.
Như vậy sự chuẩn bị trong ngoài đã đủ.
Chân Chủng sau khi đã trở về Thần thất rồi theo đường dương quang mà ra. Nhưng cửa dương quang đã được đóng chặt, nên tự chuyển ra Tam Kỳ lộ mà ra Cốc đạo. Cốc đạo cũng đã có mộc tọa bít kín nên xung qua Vỹ Lư quan.
Vỹ Lư quan nếu còn bị Tỷ bít, Chân Chủng liền hạ bôn Cốc đạo trở lại mà xuất ngoại.
Cốc đạo nhờ có yểm bế nghiêm mật nên trở lên lại ải Vỹ Lư và bất động.
Lúc bấy giớ nếu dùng Chân ý mà đạo dẫn liền, tức có sự tác hại là bị hỏa bức, khó qua ải quan. Cho nên phải dùng Chánh công để thiện dẫn. Tức là vừa thấy Chân Chủng Tử bị trở bất động, Tu sĩ lúc bấy giờ một ý chẳng sanh, ngưng thần bất động, chờ cho Chân chủng động mới nhập Chơn ý vào, nhè nhẹ dẫn qua Vỹ Lư theo Đốc mạch, đi lên qua lần ba ải: Vỹ Lư, Giáp Tích, Ngọc Chẩm, gọi là "quá quan".
Nếu ải Giáp Tích chưa thông như hiện tượng trước, cũng dùng Chánh công mà thiện dẫn.
Ngọc Chẩm quan cũng vậy.
Chân Chủng Tử khi về đến Thiên Môn rồi xuống Ấn Đường. Nếu Ấn Đường chưa thông mà Thượng thước kiều, không yểm bế trước tức bị ngoại lậu.
Chân Chủng Tử qua được ải Ấn Đường xem như pháp công phu "quá quan" gần viên mãn.
Qua Ấn Đường hạ qua Thập nhị Trùng lầu và Phục thực về Trung đơn điền để thực hiện công phu Thuần dương hóa Thánh Thai. Qua mười tháng dùng Tiên Thiên Chân Khí để nuôi dưỡng.
Lúc bấy giờ Trung và Hạ điền hiệp một thành một hư cảnh thì mười tháng dưỡng thai mới vẹn toàn.
Khi đã Phục thực được Chân Chủng Tử, ba quan, chín khiếu đều khai thông, nên từ đấy về sau Chân Chủng Tử tự nhiên chuyển động lên xuống, xoay vần theo đường cũ đã đi qua.
Nuôi nấng do hai Khí nơi hư cảnh của nhị điền bồi dưỡng cho Nguơn Thần. Lúc này chẳng nương ý theo tướng Hỏa mà là cái Văn hỏa chẳng có chẳng không của Đại Châu Thiên,
như trong cơ nhập định nuôi Thánh Thai vậy.
Nghiệm cảnh theo 10 tháng nơi Quan Khiếu:
Từ lúc sơ nhập định đến 3 tháng nơi hư cảnh tê luân hơi máy động nhẹ.
Giữ định đến 4-5 tháng thì hai Khí nương cơ tịch chiếu của Nguơn Thần mà sự uống ăn cũng không còn.
Nguơn Thần nhơn hai Khí bồi dưỡng nên được dương minh bất muội mà đắc chứng Chân Không.
Lúc này hai Khí đều định, thực tịnh đã dứt, chỉ còn có một cơ tịch chiếu của
Nguyên Thần và làm chủ Tiên Thai.
Giữ tịnh được 7 tháng tức hôn trầm cùng ma ngủ toàn vô.
Chủ tịnh được 8-9 tháng tịch chiếu đã lâu nên trăm mạch đều trụ.
Đến 10 tháng thì đã Thuần Dương, Thần quy Đại Định.
Định thì sanh Huệ, tự có hiệu nghiệm Lục Thông.
Lục Thông: là Lậu Tận thông (phần sơ chứng), Thiên Nhãn thông, Thiên Nhĩ thông, Túc Mạng thông, Tha Tâm thông, Thần Cảnh thông.
Trong Lục thông có Thần Cảnh thông là dụng sự của Thức thần. Nếu tâm không sáng suốt bảo trì, sẽ bị Thức thần chuyển dụng từ chổ năng tu năng chứng mà hoan hỷ theo cơ đắc diệu: mừng, vui, nói phúc, nói họa, nói quá khứ, vị lai... tâm trở lại động là rước họa vào mình. Duy chỉ có Huệ mà cũng chẳng dùng mới chuyển Thức thành Trí, mới trọn chứng thành Chánh quả.
THI
Thuần chơn nhập định thể dương minh,
Tịch chiếu Đạo Thai thoát hóa sinh.
Chuyển hướng Thiên môn ly khổ hải,
Đơn thành dẫn hiệp ý khinh khinh.
THI
Khinh khinh vì ý dẫn Đơn hành,
Xung xuất u đồ thoát tử sanh.
Cửu Khiếu, Tam Quan thăng thượng đạt,
Di Lư hoán Đãnh phục Nguyên hanh.
THI
Thập ngoại thai viên nội ngoại minh,
Hôn trầm niệm động tuyệt vô sinh.
Thuần dương chiếu hiện Thần chân định,
Hư bạch thất trung thể diệu linh.
Bần Đạo ban ân chung.
Thăng...

LUYỆN THẦN HUỜN HƯ (TAM NIÊN NHỦ BỘ)
Tý thời, đêm 01 tháng 5 năm Giáp Dần - Đại Đạo 48 (20.7.1974).
THI
HỒNG mông hỗn độn nhứt Nguyên Chân,
QUÂN hỏa huân thành Khí chủng phân.
LÃO đức hồn nhiên sanh đại bản,
TỔ tôn thừa thọ tiếp Thiên ân.
Tôn Sư mừng chư môn sanh và miễn lễ, an tọa.
Giờ nay Tôn Sư dạy tiếp đề tài "Luyện Thần Huờn Hư".
Mười tháng tại Hư cảnh, nhị Điền nhờ hai Khí nuôi dưỡng mà Thai tròn Tánh định, trí tuệ quảng đại, ánh quang chiếu sáng khắp cả Pháp giới không đâu chẳng thấy, chẳng biết. Thai Thần đã thuần toàn thì lập tức chuyển lên Thượng đơn điền, là Nê Huờn cung để nuôi dưỡng ba năm, gọi là "Tam niên nhũ bộ".
  • Tam niên nhũ bộ (Xuất Dương Thần):
Lúc mới về Thượng cung, Dương thần chưa tráng kiện, tợ như anh nhi còn nương nhờ sự bú mớm, chăm sóc của mẹ nên mới có danh là nhũ bộ.
Nuôi dưỡng chẳng trước ý nơi Nê Huờn mà chỉ một Dương thần lặng soi nơi đó, dung hóa lẫn lộn thành một đại cảnh giới trống không. Ấy là việc đầu tiên của công phu nhũ bộ.
Công phu nhũ dưỡng đã thuần thục tức có cảnh xuất Thần mà là hiện tại Thần sẽ xuất.
Nếu đúng thời xuất Thần mà không xuất là chẳng siêu chẳng thoát, tức khó nhập về cõi Thánh.
Đang lúc công phu tồn dưỡng, trong cơ tồn định thấy nơi không trung có cảnh hoa trời xuất hiện khắp cùng, đó là cảnh "xuất Thần". Lúc bấy giờ Chân ý lập tức điều Thần xuất ngoại.
Thần ra khỏi Thiên môn mà có dạng Triền Cơ nên liền thâu về.
- Cơ xuất thì lấy Thái Hư làm cảnh siêu thoát.
- Cơ thâu thì lấy Thượng Đơn Điền làm cơ sở tồn dưỡng.
Cần phải biết: thời xuất thời thâu thì ít mà thời tồn dưỡng thì nhiều hơn.
Cơ xuất nên tạm mà chẳng nên lâu, nên gần mà không nên xa, lập tức thâu về mà dưỡng thuần một thất (7 ngày) rồi tái xuất. Cứ như thế, từ một thất đến hai thất, đến ba thất... đến bảy thất, tức 7 x 7 = 49 hôm như vậy. Trong đó tập đi lần lần từ gần đến xa... Từ 1 đến 100, đến 1000 dặm, cho Chơn Thần vững mạnh mới có cơ xuất định lâu dài.
Lúc mới xuất định hoặc thấy Phật, thấy Tiên, thấy cảnh tốt lạ, nhất thiết chẳng nhận, chẳng động tâm, chẳng dính mắt. Vì đó là Thiên Ma biến hóa để khảo thí, gây nên bát loạn quân tâm. Chẳng những chỉ có Thiên Ma đến khảo đạo hạnh, mà còn Thức Thần biến hóa ra ma, ra quỷ chặn đường cũng đừng lo sợ hoảng hốt. Hoặc gặp ngoại cảnh mến ưa cũng đừng nhận, chỉ chờ trong mình một vừng ánh quang hiện ra trên không trung, hãy dụng niệm trực tiếp thâu nhiếp vào đó. Ấy là cơ hóa hình vi diệu căn bản.
Nếu pháp nuôi dưỡng trọn đủ huờn hư trong ba năm, Dương Thần đã được trưởng thành thì cơ xuất nhập trong tự nhiên. Tuy pháp thân có thể đi lại, vào ra dễ dàng nhưng chẳng có thể rời thân xác đi chơi xa lâu ngày được. Đến khi nào chỉ trong khoảnh khắc đi được ngàn dặm mà chẳng hôn mê, thì tụ ắt thành Hình, tán ắt thành Khí, đạt đến chổ "thân ngoại hữu thân", tức đã đến địa vị bất sanh bất diệt.
Tóm lại: Đạo pháp đã thâm vi lại càng thâm vi, đã u huyền lại càng u huyền không thể cùng tận.
Thời gian công phu nhũ dưỡng nếu trụ được lâu, gọi là Chân Trí Niệm; thì nên định trụ, gọi là Đại Định. Có định trụ được lâu, cơ sanh diệt mới đoạn dứt, mới đến độ hư không toàn nhiên bất động.
Công phu tiến mãi chẳng dừng, làm cho Không mà lại Không, Hư mà lại Hư, gọi là Hư không giới tận.
Thời Đại Định: hoặc là một định 3 năm, hoặc là một định 9 năm. Nhập định chín năm gọi là "Cửu niên diện bích".
  • Cửu niên diện bích:
Cửu niên diện bích là 9 năm ngồi xoay mặt vào vách tường để nhập định. Có nghĩa là không biết gì đến ngoại cảnh vật bên ngoài mà thuần định.
Trong 9 năm Đại định, huờn vô tận Tánh, đối cảnh vô tình, vạn tượng giai không; cho đến tâm chẳng còn có tâm, ý không còn có ý.
Không không, lộng lộng, hoảng hoảng, hốt hốt như Thái Hư. Mờ mờ, mịt mịt như thuở trước hồng mông chưa phân Trời Đất. Như anh nhi trong bụng mẹ, không biết trời, đất, nhơn, vật chi hết. Vậy mới gọi là Đại Định. Như vậy chẳng những Thần đã quy Vô Cực, mà Thể cũng đã chứng Hư Không, duy còn cái hằng Tánh trải qua vô số kỳ kiếp phải luyện cho "huờn vô", mà chỉ có 9 năm diện bích đã đủ sao?
Cho nên hoặc 3 năm hoặc 9 năm Đại Định rồi còn phải đi hành đạo để bổ túc phần công quả, và cũng để thực chứng cái ánh quang Phật Tánh chơn không với mọi trường hợp khảo nghiệm theo cơ hành đạo, rồi trở về tiếp tục nhập định hoặc 100, hoặc 1000 năm cho đến khi viên mãn.
Thượng đơn điền là nơi luyện Thần huờn hư mà cũng là nơi định Tánh huờn vô nên còn có cái biệt danh là "Tánh hải".
Chư Phật, Tiên đều đem Chơn Tánh trụ nơi đây theo thời gian mà huờn vô tận Tánh.
Nếu có Tánh quang hiện ra thì thâu liểm vào trong. Lâu thời Tánh quang hóa làm Xá Lợi. Quang ấy từ Tánh hải xung xuất vạn đạo hào quang trùm thái không. Đó là đã đến lúc "huờn vô". Tất cả thinh sắc đều hóa, không mà chẵng có chổ không, là đạt đến chổ cực định, cực công.
Nếu chưa đạt đến chổ cực công này ráo rốt, còn một hào âm khí chưa hóa hết, là chưa thành Tiên vị. tức còn có hóa căn. Vậy luyện Đạo phải luyện đến thuần dương vô âm mới hiệp về nơi Đạo nguyên là Tiên Thiên Hư Vô Chơn Nhứt mới thực chứng Đạo quả vậy.
Đàn đến đây đã mãn. Tôn Sư ban ân chung.
Thăng...

SƠ QUAN SƠ CHỨNG
Tý thời, đêm 01 tháng 7 năm Giáp Dần - Đại Đạo 48 (18.8.1974).
THI
QUẢNG hiệp can chi Đạo phục nguyên,
PHÁP luân ngoại chuyển nội Chân huyền.
THIÊN đồ thể tượng vô nhi hữu,
TÔN lãnh diệu thường bổn tự nhiên.
QUẢNG PHÁP THIÊN TÔNđại hỷ chư Thiên Mạng.
Giờ nay Tôn Sư thừa lệnh Đức Chí Tôn lược lại phần "Sơ Quan Sơ Chứng" trong phẩm Thượng Thừa, vì đây là phần khởi thủy của cơ nội luyện mà cũng chính là phần quan trọng nhất. Có thông suốt được những yếu chỉ, những tiết tự công phu mới mong chứng thành viên mãn.
Đạo tu Chơn một khi đã đắc quả thì vĩnh viễn, không phải chỉ nhất thời. Nhưng pháp tu lại đơn giản, tu luyện cái sẵn có trong thân tâm con người, không theo pháp thuật ảo huyền hoặc vọng cầu nào khác bên ngoài. Tu đúng pháp sẽ có ấn chứng hiệu nghiệm rõ ràng.
- Thánh Đạo gọi là Đạo Trung Dung, nghĩa tinh nhân thục.
- Tiên Đạo gọi là Đạo Kim Đơn.
- Phật Đạo gọi là Đạo Nhất Thừa.
Tu luyện trước nhất là phải biết rõ cái tôn chỉ của Kim đơn, cái nguyên do của sự phản huờn Đạo pháp để khỏi lầm lẫn.
Đạo Kim Đơn là Đạo của âm dương, ngũ hành. Ban đầu lấy sự hòa hợp của âm dương để huờn đơn. Sau quy Tam Ngũ về một để thành Thánh Thai, cho nên nói: Cái gốc ở Đạo chỉ có 2 vật, mà ngọn là 3-5. Ba năm hài hòa, một Khí xoay vần tự nhiên mà Đại Đạo thành.
Tuy nhiên tu Đơn Đạo chọn thuốc có thời, luyện thuốc có pháp, dụng hỏa có số. Nếu công phu chẳng đến nơi đến chốn, hoặc không đắc chân truyền, chẳng những không thành công mà còn có hại.
Tu kim đơn có hai pháp Vô Vi và Hữu Vi:
1. Hàng Thượng đức, Đồng chơn: Tinh đầy Khí đủ, Thiên chơn chưa bị tổn thương, âm dương còn hòa hiệp, Đạo tâm thường còn thì khỏi lo phần Trúc cơ bổ Tinh. Một khi Khí động theo đó mà nghịch chuyển, thể Đại dược không quá 7 ngày và nuôi dưỡng trong vòng 10 tháng có thể xuất thần hiển hóa.
Phẩm này dễ tu, dễ thành, gọi là Thượng đức hành Đạo Vô Vi để liễu Tánh.
2. Hàng trung niên và cao tuổi: Thiên chơn đã khiếm khuyết, âm dương đã tan vỡ, cửa Đạo tâm đã khóa chặt, nhơn tâm đang dụng sự, gọi chung là hàng thiểu đức phải tu theo pháp Hữu Vi, bổ tinh cứu trợ để liễu Mạng.
Nơi trường tu hiện nay đa phần là hàng trung niên, cao tuổi, phải gấp rút theo pháp Hữu Vi. Phải phục tinh, bổ tinh, Trúc cơ tích lũy cho Mạng căn kiên cố để cùng Tánh Mạng song tu theo Chơn Pháp Đại Đạo.
Vì thế nhân không biết, mỗi lần Khí động Tinh sanh là nam nữ giao cấu thuận theo cơ Tạo Hóa sanh người.
Về Chơn pháp tu luyện, nhơn cái cơ Tạo hóa Tinh sanh ấy, cướp đạt Thiên Cơ dụng Thần lưu Tinh, nghịch chuyển quy lư, dụng phong hỏa hà luyện cho Tinh hóa Khí mà thoát thai thần hóa, chứng phẩm Tiên Phật ngoài vòng sanh tử.
Để chư môn sanh có một nhận thức rõ ràng trong việc cầu pháp công phu, Tôn Sư cần nhắc lại để bổ túc những điểm chủ yếu, trước tiên là công phu tu Tánh luyện Mạng phải rành mạch theo tiết tự thủy chung.
1/ Phương luyện kỹ:
Đoạn dứt nhơn dục có hai phần là Tâm dụcThân dục (2 cơ sanh):
- Tâm sanh dục: Có tham, sân, si cầm đầu cho muôn ngàn tập tánh khác. Do tâm Ly Hỏa, ngoại dương nội âm biến sanh. Âm làm chủ bên trong nên sanh nhiều tham vọng, cầu kỳ, phiêu lưu, giận hờn... Ấy là tâm Hậu Thiên thường tình, đầu mối của mọi phiền não.
- Thân sanh dục: Có 3 dâm: dâm tâm, dâm thân và dâm căn. Do mạng Khảm Thủy, ngoại âm nội dương biến sanh. Một hào dương trong âm, lửa trong nước. Dương hỏa động, nước tràn bờ nên hạ lậu, gọi là Mạng cơ hạ lậu. Do hạ lậu này mà Mạng căn lần lần tàn tạ, thất nguyên, hết sanh khí phải chết, không tu Đơn đạo được. Ấy là hiện tượng cơ mạng Hậu Thiên tạo nhiều oan trái, khó giải thoát.
2/ Tánh Mạng Tiên Thiên (Thái Cực):
Tâm an Tánh định, tâm vô niệm lự, tánh vô sanh diệt, thuần tịnh hư cực, không còn thấy tâm, không còn thấy tánh, chỉ một Nguơn Thần minh linh sáng chiếu.
Mạng căn kiên cố, không còn hạ lậu. Tinh hóa Khí hết, Tánh mạng giao hiệp, gọi là Thần Khí giao hiệp lẫn lộn làm một trong Thái Cực nội thân. Đây là hiện tượng của Tánh Mạng Tiên Thiên.
Tu nội luyện là chuyển phục Tánh Mạng Hậu Thiên trở lại Tiên Thiên. Nếu nói tu, nói luyện mà không hoán thể được Tánh Mạng cũng như không tinh tường được cái công dụng "chiết Khảm điền Ly" thì phí công mà chỉ phục vụ cho cơ Hậu Thiên mà thôi, không thành chánh quả Đạo được.
3/ Những pháp chủ yếu trong việc nội luyện Sơ quan - Sơ chứng của Tiểu Châu Thiên:
Khởi thủy ngưng thần đưa xuống khí huyệt, chủ yếu của tịnh: Tâm hư (không niệm lự); Thần linh (minh mẫn không hôn trầm); Ý thành (không xao lãng); Thân bất động; hô hấp nhẹ nhàng, đều đặn; Tâm, Tức lúc nào cũng đi đôi và quy Căn khiếu để cho đơn dược tự sanh. Dược là chơn dương, Tinh là huyền khí trong thận sanh còn gọi là Chân Chủng Tử.
4/ Điều ngoại dược:
Cách luyện chế ngoại dược để thành Chơn dược, Chân chủng, Chơn đơn:
nếu ngoại dược chẳng điều thì tiểu dược chẳng sanh.
Hể ngoại thận cử động trong mình gọi là Huợt Tý thời, là giờ sống động, giờ dương sanh.
Ngoại thận là dâm căn, khi dâm căn cử động phải lo hồi quang phản chiếu, hơi thở ra vô nhẹ nhàng để chuẩn bị thi công: nấu, luyện, vận, điều.
Phải phân biệt thanh nguyên và trược nguyên.
- Thanh nguyên là nguồn nước trong, tức lúc dược miêu sanh, ngoại thận động tự nhiên,
tâm an tĩnh không dấy động tà tâm vọng niệm.
Thanh nguyên thì thâu, dùng phanh luyện thành chơn đơn.
- Trược nguyên là nguồn nước bẩn, là lúc dược miêu sanh, ngoại thận động mà tâm cũng động, tà niệm, dâm niệm dấy lên.
Trược nguyên thì xả bỏ, không dùng phanh luyện, sẽ thành ảo dược, ảo đơn có hại.
Hoặc trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi mà ngoại thận cứ tự nhiên động, cũng lo hồi quang phản chiếu, ngưng Thần quy Căn.
Âm Tinh do sự ăn uống các loại ngũ cốc hóa sanh, phải dùng Hỏa hô hấp vận luyện, huân hóa cho Âm tinh biến thành Dương tinh mà hiệp dụng.
Đó là những điểm đại khái về cơ điều ngoại dược, điều cho đến dương quang động mạnh, dược miêu dung thạnh là đã đến lúc thể Tiểu dược.
Điều dược phải chú ý canh chừng cho thuốc đúng độ, không già, không non, tức thể dược đúng lúc. Nếu già thì Khí tán, kim đơn chẳng kết mà còn hóa thành hữu hình Tinh tẩu thoát ra ngoài. Nếu non thì không đủ lực thăng chuyển.
5/ Thể tiểu dược, huân chưng, phong cố, vận hành:
Bốn phép này đi liền nhau theo trình tự công phu. Đã có bài dạy rồi, chư môn sanh cần đọc kỹ lại mà nghiên cứu ứng dụng cho mỗi thời pháp.
Pháp vận hành phải đều đặn, không gấp, không hoãn. Nếu mau quá, phong hỏa không thăng chuyển kịp. Nếu chậm quá, phong hỏa bị gián đoạn, không đủ sức tác động và thường bị hôn trầm.
Trong dương có âm, trong âm có dương. Có tấn là có thối, có thối là có tấn. Tấn dương là thể thủ, thối âm là phanh luyện. Tấn dương là thối âm, thối âm là dưỡng dương.
Thể dược, luyện dược dùng võ hỏa; mộc dục, ôn dưỡng, tịch chiếu dùng văn hỏa.
Thăng giáng, văn võ kiêm dụng. Dương văn, âm võ.
Mẹo Dậu là thời trung của âm dương. Mẹo Dậu mộc dục an định Thần Khí,
cho Thần Khí nương nhau, giữ nhau mà tái chuyển.
Trong vận hành có ngưng nghỉ. Vận hành để khai thông nguyên khí. Ngưng nghỉ là mộc dục, ôn dưỡng để huân chưng. Bí quyết ở chổ điều hòa được âm dương mới là diệu công.
Ngoài ra, các giờ thuộc dương, vận theo dương số rồi mộc dục. Các giờ thuộc âm, vận theo âm số rồi mộc dục.
Như vậy, giờ nào cũng có thăng giáng và mộc dục, có động có tịnh. Thời điểm tịnh, lấy tịnh làm chính, Thời điểm động, lấy động làm chính. Thấy mệt thì nghỉ, rồi tiếp tục cho đến khi Đại dược thành.
Đây là giai đoạn hành Hỏa Châu Thiên luyện dược ráo rốt cho Đơn kết, Dược thành.
Đơn được kết, Dược được thành do Thần hỏa hóa mà nên.
Khi Dương tinh đã hóa Dương khí hết, tức Dương khí đã sung mãn và quy trọn về Khí căn. Hạng số tam bách Châu Thiên đã đủ và đúng pháp, thời Đại dược đã thành, dâm căn đã đoạn, sẽ có chứng nghiệm báo tin và có dương quang phát hiện. Từ nhứt hiện đến nhị hiện thì ngưng nghỉ cái võ Hậu Thiên mà nhập định, bồi dưỡng Chơn dương. Khi dương quang tam hiện là cảnh thể Đại dược Quá quan đã đến.
Tu chứng Sơ quan pháp Tam Bửu Hiệp Luyện để đạt quả Vô Lậu. Gồm có 3 điểm:
1) Tâm hư, Thần linh, Ý thành, để thể thủ Tiên Thiên Chơn Dương nhứt Khí về Quan Khiếu là phần khởi thủy.
2) Dụng công phanh luyện hỏa hầu đúng pháp, gọi là dĩ  Hỏa luyện Dược.
3) Trục Diên, thiêm Hống, chiết Khảm điền Ly cho Càn Khôn phục nguyên, kết thành Đại dược là phần chung kết.
Học kỹ, làm đúng tới đây sẽ đạt thành Vô Lậu quả, bước vào ngưỡng cửa Chơn Tiên bất sanh bất tử.
Phần tiếp theo thể Đại dược, Phục thực, 10 tháng nuôi Thai, ba năm nhũ bộ, chín năm diện bích huờn vô tận Tánh đã có bài dạy rõ toàn pháp.
THI
Đạo vốn vô hình lại chẳng hai,
Càng bàn, càng nói, lại càng sai.
Nếu quên nguồn gốc âm dương hiệp,
Uổng phí công phu những tháng ngày.
HỰU
Ngày một tinh chuyên luyện Tánh tâm,
Tánh vô sanh diệt, Mạng nguyên thâm.
Tâm thường hư cực Thần minh chiếu,
Hội đắc cơ huyền kiến chủ nhân.
HỰU
Nhân hành Tạo Hóa tại ngô thân,
Khí huyệt Thần ngưng, Khí luyến Thần.
Thần Khí giao hòa Chân Chủng xuất,
Tâm vô niệm động thị thanh Chân.
HỰU
Chân Nguyên Khí động tức Tinh sanh,
Tĩnh hội triền cơ chuyển pháp thành.
Thần điểm trung nghinh chiêu nhiếp dẫn,
Nghịch hồi Khiếu huyệt thọ huân phanh.
HỰU
Phanh luyện phân rành lý bản nhiên,
Hấp hô thứ tự biện thời chuyên.
Tiên Thiên đắc diệu tùng phong hỏa,
Tử thọ mẫu truyền hóa thể Thiên.
HỰU
Thiên trình mặt vận ẩn hồ trung,
Tích lũy Chơn dương vận thể tùng.
Tịnh động luân hành Chân động tịnh,
Phương tri ngộ Đạo tại huyền cung.
HỰU
Cung huyền tai mắt lặng vào trong,
Tâm tức nương nhau chẳng sắc không.
Điều hóa hiệp thời sanh sản dược,
Thể, huân, phong, luyện hỏa hầu công.
HỰU
Công vận, tịnh sanh, động thể hành,
Cơ lai trọn đủ quý đầu manh.
Chơn Tinh ký đắc thanh toàn hóa,
Cấm bế dương quan Vô Lậu thành.
HỰU
Thành công luyện dược yếu cần chuyên,
Tấn thối, âm dương, Tý Ngọ truyền.
Mẹo Dậu thời trung tri mộc dục,
Pháp luân tinh diệu định Khôn Kiền.
HỰU
Kiền Khôn thông đạt hiệp nguyên quan,
Hỏa bức Kim hành chuyển thể an.
Vận luyện huyền châu chung hữu số,
Hiệp hồ Tạo Hóa dược thành đan.
HỰU
Đan Đạo sơ quan chủng tử sanh,
Pháp truyền Võ luyện hiệp Văn phanh.
Nhược tồn hạ lậu truy hành hỏa,
Sai thất công phu Đạo bất thành.
HỰU
Thành hiệp chuyển luân pháp Đạo minh,
Ý chơn chủ tể nội công trình.
Ngoại nương hô hấp đường thăng giáng,
Tinh tấn tuần huờn đại dược sanh.
HỰU
Sanh khí đủ đầy rõ mối manh,
Huyền châu tam bách hiệp đơn thành.
Ngoại hình thu ẩn dương quan bế,
Tam hiện ánh quang chỉ hỏa hành.
HỰU
Hành đáo thời hầu chỉ hỏa phong,
Miên miên định dưỡng nội trung cung.
Hiệp nghi chơn cảnh huờn Đơn Đạo,
Bất tốc, bất trì, lưỡng pháp thông.
HỰU
Thông đạt Thiên chơn, khổ hải ly,
Xung Quan, phục Khí tiếp chu kỳ.
Trung điền bảo dưỡng Thần Thai hóa,
Mười tháng trọn gìn pháp thể y.
HỰU
Y thời xuất định nhập Côn Lôn,
Trực chỉ hư không chuyển ngọc môn.
Cửa diệu vào ra lần bước một,
Ba năm nuôi lớn học nên Khôn.
HỰU
Khôn lớn hình thành trọn pháp thân,
Huờn vô tận Tánh thị Dương Thần.
Nê cung cữu trụ đôn viên giác,
Lặng lẽ xóa mờ vạn thức nhân.
HỰU
Nhân định miên miên không thiệt không,
Hư vô bản thể tự Hồng Mông.
Minh minh, diệu diệu, hồn nhiên hóa,
Chơn ngã như như, hiệp Đạo Tông.
Hiệp Đạo Tông là cực chứng thành Tiên Phật.
Trên đây là 18 bài thi liên huờn. Tôn Sư đã gởi vào đó 18 Chân chỉ nội luyện toàn công. Chư môn sanh đọc kỹ, khá nghiệm hiểu mà áp dụng từng phần công phu.
Đàn đến đây đã mãn. Tôn Sư ban ân chung.
Thăng...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.

  • Đức Giáo Tông Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 14-3 Quý Hợi
  • 10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
  • Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS)
  • Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides