Đại Đạo tạo con đò cứu khổ, Hướng đạo cần tự độ, độ tha. Năm chi bảy phái hiệp hòa, Trương cờ Đại Đạo xây tòa vạn linh.

LỜI GIAO CẢM

LỜI GIAO CẢM
(Kích vào hình ảnh để xem tiếp lời giao cảm)
  Xin chân thành cảm ơn quý huynh, tỷ, đệ, muội và quý độc giả đã ghé thăm NGÔI NHÀ ĐẠI ĐẠO

Thứ Năm, 26 tháng 5, 2011

HẬU THIÊN CHUYỂN PHỤC TIÊN THIÊN

Tý thời, đêm 01 tháng 9 năm Quý Sửu  - Đại Đạo 48 (26.9.1973).
BỔN XỨ TÔN THẦN thừa lệnh Đại Tiên báo cơ. Tôn Thần chào mừng tất cả chư Chức sắc, Chức việc Lưỡng Đài Hội Thánh. Vậy tất cả đàn tiền thành tâm tiếp lịnh. 
Tôn Thần xin xuất ngoại.
THI
MINH hiện thời trung Nhất điểm Chơn,
CHIÊU nhiên hội nhập thể Kim Đơn.
ĐẠI thành diệu hóa âm dương Đạo,
TIÊN Phật do lai bất ngoại phương.
HỰU
Phương trình luyện Đạo lập nên công,
Khởi tại thừa truyền lý diệu thông.
Tánh Mạng song tu cơ chỉ yếu,
Âm dương hỗn hiệp lượng tương đồng.
Thượng căn bảo nhất vô vi pháp,
Trung hạ tiệm hành phục Tánh tông.
Dược vật hỏa hầu tinh dung đắc,
Tất thành tam ngũ hội chân không.
Giờ nay Tôn huynh lâm đàn truyền Chân pháp Thượng Thừa với đề tài: "Hậu Thiên chuyển phục Tiên Thiên". Tôn huynh đại hỷ chư Chức sắc, Chức việc Lưỡng Đài Hội Thánh. Miễn lễ đàn tiền, tịnh tâm an tọa để thâu nhận trọn vẹn phần Chơn Đạo.
Tu Kim đơn Đại Đạo là chuyển hóa Tánh Mạng Hậu Thiên trở thành Chân Tánh Mạng Tiên Thiên. Tức là chuyển hóa cơ động tịnh Hậu Thiên thành cơ động tịnh Thiền Định,
cuối cùng đến trạng thái Thái Cực.
- Cơ động của Hậu Thiên gọi là sự sống gởi.
- Cơ tịnh của Hậu Thiên là sự chết trong cõi mộng.
- Cơ vận chuyển âm dương của Hậu Thiên là: âm thăng, dương giáng, biểu hiện cơ sanh tử.
- Cơ chuyển hóa âm dương của Thiền Định là: dương thăng, âm giáng, biểu hiện cơ siêu sanh liễu tử.
Cơ động của con người Hậu Thiên là thân tâm đều động, biến thành hiện tượng hữu lậu sanh diệt.
Vì động mới có sanh: Tâm sanh niệm. Thận sanh Tinh.
Cơ động tịnh hô hấp là một yếu pháp quan trọng.
Một lần động thở ra gọi là hô. Hô thì sanh dương; Một lần tịnh hít vào gọi là hấp. Hấp thì sanh âm. Một âm một dương, một động một tịnh cùng tương quan; một hô một hấp cùng tương thông: Đây đó ngắm nuôi, Tánh tình hòa hiệp.
Ngưng thở nhẹ nhàng mà tự nhiên tạo cơ phối ngẫu của âm dương,
thì khí Tiên Thiên từ trong hư vô đến.
- Một dương sanh tại Tý. Tý thuộc Khảm-Thủy. Cho dương hỏa tiến lên thì Thủy, Mộc chung nhà.
- Một âm sanh tại Ngọ. Ngọ thuộc Ly-Hỏa. Xoay vận âm phù thì Hỏa, Kim ở đó
- Khảm nạp Mậu là Chơn Tri, là Tình.
- Ly nạp Kỹ là Linh Tri, là Tánh.
Tiến dương, thối âm mỗi việc đều tùy thời, trong đó có chử Tín, tức có độ số.
Thổ trung ương hỗn hợp trăm thần, công về Mậu-Kỹ.
- Mậu để hóa dương chủ vận bên ngoài.
- Kỹ để hóa âm, chủ dưỡng bên trong.
Mậu, Kỹ hiệp nhau, trong ngoài như một, Lưỡng Thổ kết thành Đao Khuê.
Vậy: Chân Tri, Lương Tri tương hiệp; Chân Tình, Chân Tánh đồng Khí. Cương, nhu tương đương, đồng quy về Trung Chánh.
- Khảm một, Ly hai, hiệp số là ba [3].
- Mậu-Kỹ thổ trung ương, số của nó là năm [5].
- Ngoài lấy Khảm điền Ly, tức dùng Thủy chơn nhứt giúp cho Hỏa linh minh.
- Trong chuyển Mậu đến Kỹ, cho đức cương kiện hiệp với đức nhu thuận.
Đó là tam ngũ hài hòa. Lại nữa:
- Kim-Thủy thuộc Thận, tức bốn cộng một bằng năm [4 + 1 = 5].
- Mộc-Hỏa thuộc Tâm, tức ba cộng hai bằng năm [3 + 2 = 5]
Mậu, Kỹ, Thổ thuộc ý bản số là 5.
Thủy, Hỏa, Thổ là ba vật trọng yếu trong việc tu đơn.
Diệu dụng ở chổ: Cực tịnh cho thân tâm bất động, cùng chơn ý tập trung về Huyền Quang Khiếu. Đó là bí pháp cơ điều hợp tam ngũ. Mà tam ngũ đã hài hòa thì cả Tinh, Thần, Hồn, Phách của Hậu Thiên đều chuyển hóa về Tiên Thiên.
Đơn Đạo hữu vi hoàn toàn là nghịch vận,
cho nên gọi Thất phản cửu huờn kim địch đại huờn đơn là vậy.
Công phu trọng yếu là cơ đắc Nhất.
Nhất là Thái Cực. Nhất đã đắc thì tất cả đều hoàn tất.
PHÚ
Tu đơn Đạo là lập nên Chánh quả,
Luyện giác linh để phân hóa giả và chơn.
Lập chí thành lên tột đỉnh Linh Sơn,
Để phản phục bổn nguơn chân diện mục,
Để thấy người mãi mê trong cõi dục,
Để hoát nhiên Thần đức nhập hư không,
Để thoát vòng nhân quả của Hóa Công,
Để dứt niệm lậu tận thông là chánh nghiệp.
Chư hiền sỹ đã nhất tâm thừa tiếp,
Mối chân truyền chuyển hiệp Đạo vô vi.
Thì sớm trưa mau đạt đích quy y,
Lo thanh lọc những gì thân tâm tạo.
Trong cõi dục mà tâm bào không vẩn đục,
Giữa thị phi mà thần đức vẫn an nhiên,
Sáu cửa đóng lặng yên,
Trong ngoài không xuất nhập.
Là diệu cơ, hội tập thể âm dương,
Là giao dưỡng hổ tương chơn Thần Khí.
Trời, Đất, Người xoay vần cung Ngọ Tý,
Lục âm dương chuyển vị tiếp luân hành.
Hiệp thời độ, tử huờn sanh,
Cơ tiến thối tạo thành cơ phục dưỡng.
Quyền Tạo Hóa đã gieo mầm Thánh chưỡng,
Chỉ chờ cơ Pháp tượng thoát Thai nhi.
Bí quyết truyền là chiết Khảm điền Ly,
Thì Tứ Tượng, Ngũ Hành đồng quy Tông Tổ.
Chánh pháp Đạo ẩn vi mà sáng tỏ,
Thượng Thừa phẩm điểm độ tối chân huyền.
Công tựu thành còn đợi kẻ thiện duyên,
Chứng thực quả mới thấy rõ lời Phật Tiên siêu thoát hóa.
THI
Lặng lẽ công phu pháp thọ truyền,
Lần theo âm tín của chân nguyên.
Vô nhơn, vô ngã, vô hình tướng,
Chẳng nhiễm trần tâm, hóa vạn duyên.
 (Cười...)
Giờ đây Tôn huynh cần nêu lên điểm trọng yếu trong việc thừa thọ pháp Thượng Thừa:
- Phát tâm đại nguyện, đó là điều tiên quyết nghe! vì có lòng chí thành phát tâm mới có nghị lực vững bước theo con đường tu tiến.
- Phải giữ đúng môn quy.
- Tuyệt đối không được đem Chánh pháp mình đã thọ truyền lại cho người khác.
- Không được nghe theo lời chỉ dẫn kẻ khác, ngoài pháp Tánh Mạng song tu.
- Tinh tấn công phu không gián đoạn.
Đàn đến đây đã mãn. Tôn huynh ban ân chung.
Thăng...


DƯỢC VẬT - LƯ ĐÃNH
Tý thời, đêm 15 tháng 01 năm Giáp Dần - Đại Đạo 48 (06.02.1974).
THI
NGUYÊN lai vô sắc diệt vô sanh,
THỦY phán âm dương lưỡng thể thành.
THIÊN Địa hàm dinh chiêu nhật nguyệt,
TÔN thừa cương kỹ huợt thời sanh.
Tôn Sư đại hỷ chư hiền Hội Thánh. Miễn lễ, an tọa, tịnh tâm nghe Tôn Sư dạy về: "Dược vật và Lư đãnh".
  • Dược vật: Chân Tinh hay Chân Dược là vị thuốc vô giá bửu trong con người.
Có Chân Dược mới tạo thành Chân Đơn, mới tạo nên Chân Chủng Tử hay Xá lợi.
Sở dĩ nơi người có Chân Dược phát sanh là do công phu Thiền Định đến trạng thái Thái Cực, tức nơi người có hiện tượng hốt hoảng như tỉnh, như mê.
Chân dược có Chân DiênChân Hống.
Lúc động thì hai khí này cách nhau; lúc tịnh thì hai khí này hiệp một và thành Chân Dược, gọi là Linh căn sơ phân nơi thời hổn độn, là sanh vật của Tổ Khí. Lúc hàm tàng thì vốn Chân Không; lúc phát động thì thành Diệu Hữu; lúc dụng sự thì thành Đạo Tâm; lúc ôn dưỡing thì tạo nên Cốc Thần. Chí Vô mà hàm súc chí Hữu; chí Hư mà dung chứa vật chí Thực. Trong đó có khí Ngũ Hành mà không có chất Ngũ Hành. Tàng ẩn nơi trong Ngũ Hành mà không đọa lạc vào Ngũ Hành. Làm Thánh, làm Tiên đều do báu vật này.
Chỉ vì con người bị Thức Thần làm chủ nên vật chí hữu này ngày một tẩu thất, khiến Tánh,
Mạng phải bị tàn tạ theo thời gian.
Chư Hiền nhờ có duyên lành nên được gặp cơ phổ hóa, phải sớm tỉnh ngộ, cầu lấy chân truyền mà vượt lên cõi Thánh.
Tôn Sư không nỡ nhìn thấy chư Hiền bị quanh quẩn mất nhiều thì giờ mà không đi đến đích, nên điểm truyền công phu: "Kim dịch huờn đơn" để viên mãn pháp môn "Thất phản cửu huờn" cho Chân Dược viên thành trong cơ Thiền Định.
Thất phản mà không có Cửu huờn thì dược chẳng thành chân,
tức là lạc vào nẽo cô âm độc dương như chư Hiền đã hiểu.
Tiếp dạy về pháp "thể dược":
Thể dược: là hái thuốc, là pháp môn trọng yếu của cơ Thiền Định.
Thể dược gồm có bốn công phu: Thể Dược, Huân Chưng, Phong Cố và Vận Hành.
- Thể dược phải thể Chân Dược, xuất phát từ cơ Chân động (Tâm không động).
- Thể dược phải đúng lúc là lúc Thiên Cơ triền động, là đúng thuốc không già, không non.
- Thể dược phải đúng pháp là trước văn, sau võ.
Thể mười lần hoặc thể hai mươi lần cho đến lúc nào dương quan không còn động nữa, tợ như quy túc (rùa ngũ) mới tròn công. Phải dùng Chơn Ý mà vận động hai Khí ở trong để chiêu nhiếp cho nó quy căn.
Huân chưng: là nấu thuốc. Nấu thuốc chỉ dùng Văn hỏa, chủ đích là để thuần dương hóa chơn đơn.
Phong cố: Thuốc đã nấu xong phải gói, phải cất, gọi là phong cố. Phong cố bằng phương pháp: đóng sáu cửa cho bền then khóa, tức là lục căn bất động.
Vận hành: Cuối cùng là vận hành, tức Vận Châu Thiên. Châu Thiên ở đây là để điều hành Chân Dược. Rồi tiếp tục tịnh để chờ Chân động.
  • Lư đãnh: là lò chão. Lư để vận hỏa. Đãnh để nấu luyện thuốc.
Luyện kim đơn là thể theo đức nhu thuận của Khôn để làm "lư", tuần tự tiệm tiến; thể theo đức cương kiện của Càn để làm "đãnh", mãnh phanh cấp luyện. Thường cương thường nhu, thường kiện thường thuận. Chí niệm kiên cố, càng lâu càng có năng lực thì Đãnh Lư được ổn định, chẳng dao chẳng động mới nên thể được vận Hỏa.
- Khi ngưng Thần nhập Khí huyệt thì Thần là Đãnh, Khí là Lư.
- Lúc thể dược thì gọi Khí là Lư, Thần là Hỏa.
- Lúc tàng phục chân khí thì Thần là Lư, Khí là Dược.
- Lúc Vận Châu Thiên, khi vận khí lên Càn cung thì Càn là Đãnh, Khôn là Lư.
- Lúc giáng hạ quy căn: Ly là Đãnh, Khảm là Lư.
Tóm lại: Lư Đãnh là Thần Khí. Có thấy được cơ Thần Khí khởi phục mới nhận chân được Lư Đãnh. Tức là Thần Khí phục ở đâu thì Lư Đãnh ở đó, nếu không có Thần Khí thì không có Lư Đãnh. Cho nên nói: Lư nhưng vốn thiệt không Lư; Đãnh nhưng vốn thiệt không Đãnh. Đó mới là Chân Lư Đãnh.
THI
Luyện Đạo pháp truyền: trước luyện tâm,
Tâm không vướng bận những mê lầm,
Tham, sân, hỷ, nộ, muôn duyên đoạn,
Thường tại hư linh thị bửu châm.
THI
Bổn lai diện mục thị Chân Như,
Nhất điểm linh quang tại Thái Hư,
Đốn ngộ chân tâm huờn tự tánh,
Vô lai, vô khứ diệt vô dư.
Đàn dạy đến đây tạm ngưng, đàn sau sẽ dạy tiếp. Tôn Sư ban ân lành cho tất cả.


HỎA HẦU - ĐẠO LỘ
Tý thời, đêm 15 tháng 02 năm Giáp Dần - Đại Đạo 48 (08.3.1974).
NGUYÊN THỦY THIÊN TÔN chào mừng chư phận sự và miễn lễ, an tọa. Tôn Sư dạy tiếp đề tài: "Hỏa Hầu" trong phẩm Thượng Thừa.
HỎA HẦU
Hỏa hầu là tiếng gọi chung trong việc dụng hỏa, tu đơn nhưng ứng dụng phải theo từng tiết tự công phu. Hỏa là Thần, là Chơn Ý. Hầu là tiết tự công phu.
Công phu tu luyện có tiên hậu, có cấp huởn, có tấn thối thời hầu.
Chẳng được việc trước lại làm sau, việc sau mà lại làm trước; Chẳng được việc đáng cấp mà lại hoãn, hoặc đáng hoãn mà lại cấp; Chẳng được thời đáng tấn mà lại thối hoặc đáng thối mà lại tấn
Cũng như Lư hỏa nấu thuốc có thời hầu văn võ, tấn thối, chỉ tức.
Sở dĩ nên trước là trước nghiêm chỉnh nơi trong, nên sau là sau chế ngự bên ngoài; Nên cấp là cấp ở dụng công, nên hoãn là hoãn ở ôn dưỡng; Nên tấn là tấn khí dương lên chổ dương chưa đủ, nên thối là thối cơ âm vừa sanh.
Cũng như giờ Tý là tấn dương hỏa, giờ Ngọ là thối âm phù. Hai giờ Mẹo, Dậumộc dục. Nhưng giờ nào cũng có tấn, có thối, cũng có mộc dục.
Trong một ngày đêm có 12 giờ, Chân ý chẳng lìa, năm tháng ngày giờ cũng khắc khắc dụng công tu luyện, phòng nguy lo hiểm không hề sai thất.
Tứ các công phu Trúc Cơ cho đến ngày viên thành Chánh Giác. Chân hỏa là một thần cơ diệu dụng miên miên bất đoạn, Chân hầu là  những Chân tiết tự công phu của cơ Thiền Định. Không thể thiếu một; không thể đảo nghịch; không thể gia tăng; không thể biến cải.
Bí quyết của Hỏa Hầu là theo Chơn tức mà lập. Công phu vận hành Chơn tức phải theo trình tự diễn tiến, như: thời Dương sanh, thời Dược sản, thời Thể dược, thời Huân chưng, thời Phong cố, thời Khỉ hỏa, Tiểu châu thiên, thời Mộc dục, thời Hỏa túc, thời Thể đại dược, thời Phục thực, thời Đại châu thiên, thời Xuất thần... Mỗi thời có cơ dụng hỏa riêng, cho nên chơn pháp hỏa hầu phải biện minh cho phù hợp với mỗi dụng thời để khỏi điều sai thất.
Như giờ Tinh sanh có hầu Điều dược, Dược sản có hầu Thể thủ, Dược quy lư có hầu Phong cố, Khỉ hỏa có hầu Vận hành, Mộc dục có hầu Đình tức, Hỏa túc có hầu Chỉ hỏa.
Nguyên khí chẳng đặng khí Hậu Thiên thì chẳng thành dược; Dương khí chẳng đặng âm thì chẳng ngưng tụ. Cho nên phải dùng cái âm thần của tâm mà ngự chế cái hỏa cường dương của thận. Tức tức quy căn thì nguyên khí chơn dương tự trở về.
Vận Tiên Thiên Chơn tức do chơn ý làm chủ và cán vận bên trong nên gọi là "nội phục Thiên can cán vận" để hành hỏa Châu Thiên. Khí hô hấp Hậu Thiên chuyển dời nguyên khí (một Ý chuyển hai Khí), khai thông Cửu Khiếu lên Càn đãnh gọi là "ngoại dụng đẩu bỉnh thôi thiên"mà chuyển cơ hồi triền hỗn hợp cho Thần Khí quy căn.
Vậy nguyên khí do khí Hậu Thiên mà thể quy lư và cũng do khí hô hấp luyện phanh mới tròn công biến hóa. Nhưng khí hô hấp Hậu Thiên cũng nhờ có nguyên khí Tiên Thiên mà nên công ứng dụng.
- Trúc Cơ thể dược, vận hành, tấn hỏa, để hỏa ôn dưỡng mộc dục là hỏa của Nguơn Thần.
- Khởi hỏa, giáng hỏa thối phù là hỏa phanh luyện.
- Điều tức dẫn hỏa là hỏa của hô hấp.
- Khôn hỏa, Khảm hỏa, dương sanh, dược sản, nội dược, ngoại dược,
tiểu dược, đại dược là hỏa huyền khí.
Trong hỏa có dược, trong dược có hỏa. Thể luyện là hỏa, vận hành là dược. Nói hỏa, nói dược chớ gốc nó là Thần Khí mà thôi.
Tóm lại:
- Hỏa là thế lửa hoặc võ hoặc văn.
- Hầu là thời hầu theo từng tiết tự.
Dùng hỏa theo từng mỗi thời hầu gọi là hỏa hầu.
  • Châu Thiên Tức Số
Trời có thời vị 12 chi. Luyện đơn cũng có hỏa hầu 12 thời.
Trời đất Hậu Thiên có cơ vận hành Châu Nhi Phục Thủy, thuận theo sự diễn biến âm dương, nhật nguyệt, ứng theo cơ sanh cơ sát.
Tu sĩ có Châu Thiên Tức Số, ngược lại với cơ vận chuyển Hậu Thiên gọi là Chân tức.
- Tức có chân nhân chi tức, quy tức, phàm tức.
- Tức là môi trường sống thọ, sống yểu, bịnh tật, bình an.
- Tức là yếu tố hổ trợ cho công phu tạo Phật, tác Tiên hay hay hóa thành phàm phu, tục tử.
- Tức có số thì còn có hạn sanh tử.
- Tức số càng ít thì tuổi thọ càng cao.
- Tức số càng nhiều thì tuổi thọ càng thấp.
Tức còn gọi là Khí, là Mạng, là hiện tượng hữu hình, nên con người dứt hơi thở là chết.
Chỉ có các bậc Chân nhân dầu có dứt hơi thở vẫn sống bình thường.
- Từ Tý đến Tỵ là 6 giờ dương. Dương thì dụng tấn, là tấn dương hỏa.
- Từ Ngọ đến Hợi là 6 giờ âm. Âm thời dụng thối, là thối âm phù.
Cơ vận hành Châu Thiên phải theo định số, không thái quá, không bất cập.
"Càn Khôn thác thược cổ hữu số
Ly Khảm Đao Khuê cổ hữu thời"
Công phu tu luyện phải theo đúng nguyên lý này mới hiệu nghiệm.
- Số của Càn là cửu [9] là số của Lão Dương.
- Số của Khôn là lục [6] là số của Lão Âm.
- Lão dương số ứng hiệp với Tứ Tượng, Ngũ Hành mà thành
Châu Thiên số của Dương Tý [9 x 4 x 5 = 180]
- Lão âm số ứng hiệp với Tứ Tượng, Ngũ Hành mà thành
Châu Thiên số của Âm Ngọ [6 x 4 x 5 = 120].
- Lão dương còn có cơ ứng hiệp với Tứ Tượng mà thành Châu Thiên số của Dương Mẹo [9 x 4 = 36]
- Lão âm còn có cơ  ứng hiệp với Tứ Tượng mà thành Châu Thiên số của Âm Dậu [6 x 4 = 24].
Số nhuận dư chỉ dành cho hai thời mộc dục.
Tổng cộng: Tý 180 + Ngọ 120 + Mẹo 36 + Dậu 24 = 360 Châu Thiên, như một năm có 360 ngày vậy.
Ly Khảm Đao Khuê thể hữu thời.
Khảm điển phanh oanh Kim Thủy phương.
Hỏa phát Côn Lôn âm giữ dương.
Nhị vật nhược huờn hòa hiệp liểu.
Tự nhiên đơn thục biến thận hương.
- Thần ở tâm thuộc Ly, gọi là Kỹ Thổ (âm).
- Khí ở thận thuộc Khảm, gọi là Mậu Thổ (dương).
Thần Khí hiệp Ly Khảm giao, tức lưỡng Thổ hiệp thành Khuê, gọi là Đao Khuê.
Khảm điển: là tượng lửa phát dấy lên từ trong nước là tỷ dụ Đạo tâm, Chân tri phát hiện từ trong ám muội. Chổ phát hiện chính là Hượt Tý thời trong thân ta.
Phanh oanh: là hiện tượng hoảng hốt, bất định.
Kim Thủy phương: là Đạo tâm, là Chân tri, là Chân tình của Tinh nhất đều có đủ hai khí là Kim khí và Thủy khí. 
Côn Lôn: là tổ mạch của muôn núi Tây phương, là nơi phát Chân kim.
Cũng là nơi Đạo tâm xuất phát từ nơi u huyền tợ luồng điển quang phóng ra thoạt minh thoạt ám, hoảng hốt bất định, rất khó được, lại rất dễ mất. Nên gấp dùng cái hỏa trong cung Ly để nghinh đón thì Chân trí và Linh tri tương luyến, âm dương sẽ hòa hiệp, trong đó sẽ phát xuất Tiên Thiên linh dược.
Lại phải vận Châu Thiên, Chân Hỏa huân hóa Hậu Thiên trược Khí cho đến lúc thuần Kim, thì đơn dược được thuần thục rồi thoát thai hoán cốt, hiện xuất thành tịnh pháp thân.
Còn Ly Khảm nếu không có Mậu Kỷ tuy có hiệp với Tứ Tượng cũng chưa thành đơn, mà nhờ có chân Thổ mới khiến Kim đơn phản huờn.
Khảm Thủy nơi con người là Nguyên Tinh, lúc phát động thì hóa xuất thành "Trí".
Trong Thủy có tàng chứa Kim, nơi người là Chân Tình, lúc phát động thì hóa thành "Nghĩa".
Ly là Hỏa, nơi người là Nguyên Thần, lúc phát động thì hóa thành "Lễ".
Hỏa sanh nơi Mộc, ở người là Nguyên Tánh, lúc phát động thì hóa thành đức "Nhân".
Đạo Tâm có tượng ở Khảm; Nhơn Tâm có tượng ở Ly.
Đạo Tâm, Nhơn Tâm gồm đủ bốn Tánh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa. Nhưng vì bốn Tánh đều khác, nếu muốn có một Khí tương sanh, toàn nhờ công phu của Mậu Kỷ.
Mậu thuộc Dương Thổ là nguyên khí, lúc phát động thì hóa thành đức "Tín".
Kỷ thuộc Âm Thổ là ý niệm, lúc phát động thì biến xuất ra Dục.
Khảm nạp Mậu tại Đạo Tâm làm đức Tín.
Ly nạp Kỷ tại Nhơn Tâm làm Ý dục.
Nên muốn chánh cái Tâm, trước phải tu cái Ý cho thành thật.
Ý được thành thì Kỷ Thổ định và Nhơn Tâm tịnh.
Muốn thực hành Chánh Đạo, trước phải tu lập đức Tín.
Tín lập thì Mậu Thổ hiện và Đạo Tâm được sáng tỏ.
Nếu Đạo Tâm không có đức Tín, Nhơn Tâm chẳng được thành thật, tuy có Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí đều không chiếu cố nhau mà chỉ ẩn tàng trong Tình. Tinh thần cũng phản bội nhau. Như vậy làm sao kết được thành Linh đơn?
Cho nên công phu tu luyện, Thành ý là yếu tố quan trọng trước tiên, nên mới tượng là Đao Khuê.
  • Hạp Tịch
Hạp tịch là cơ tiêu tức của hai khí Tiên Thiên và Hậu Thiên, là nguyên cơ hô hấp trong ngoài.
- Hạp là hấp cơ, là hít vô, là đóng.
- Tịch là hô cơ, là thở ra, là mở.
- Khi Hậu Thiên khí hấp thì Tiên Thiên khí thăng, là thăng lên Càn làm Thể thủ.
- Khi Hậu Thiên khí hô thì Tiên Thiên khí giáng, là giáng xuống Khôn làm Phanh luyện.
Tức là Khí mặt ngoài đi xuống thì Khí mặt trong qua ta mà đi lên; còn Khí mặt ngoài đi lên thì Khí mặt trong qua ta mà đi xuống. Ấy là bí cơ thăng, giáng của hai Khí. Đạt được cái lý này thì pháp Châu Thiên mới diệu dụng.
- Một hấp hít vô từ dưới lên trên là tấn dương.
- Một hô thở ra từ trên xuống dưới là thối âm.
Tấn dương, thối âm, mộc dục, quy căn, đều mượn cái Khí hô hấp Hậu Thiên để làm pháp Châu vận độ số. Nếu không dùng hô hấp thì chẳng thành âm phù, dương hỏa, mộc dục, quy căn gì cả.
  • Văn Hỏa - Võ Hỏa
Nói hỏa là nói Thần, nói Chân Ý chớ không phải nói loại lửa của thế gian.
Sở dĩ nói Văn hỏa, Võ hỏa là nói Chân Ý phối hợp cới Chân Tức, ứng dụng tùy theo thứ lớp công phu.
Tuy không phải là loại lửa bên ngoài thế gian nhưng cũng có nhiệt năng, nếu cao độ có thể đốt tan Chân Khí, đốt cháy nồi không và có khi gây ra chứng tẩu hỏa nhập ma. Cũng có số Tu sĩ dụng hỏa lực cao độ, Châu Thiên quá số nên phải bị mạng vong. Nên Văn hỏa, Võ hỏa là Thiên Cơ bí mật.
Văn hỏa: là vi vi chi tức, là nhu, là huởn, là thư thái. Chân Ý không chấp trước vào hơi thở. Nhẹ nhàng, tĩnh tĩnh, dằng dặc không dứt. Tâm hư không, thân bất động, ý bất sanh. Có thở mà như không thở, không thở mà như có thở. Hiệp với tự nhiên, nương theo cơ vận hành tức tức quy căn.
Võ hỏa: là hơi thở có phần trì trọng, có phần mạnh hơn, cấp hơn.  
Văn hỏa, Võ hỏa có khi đơn dụng, có khi kiêm dụng, như:
Thể dược thì trước văn, sau võ; Vận châu thiên thì nữa văn, nữa võ;
Luyện nấu thuốc trước võ, sau văn.
Còn các công phu: Đại châu thiên, Ôn dưỡng, Mộc dục, Phong cố,
Tịch chiếu hoàn toàn dùng Văn hỏa.
Hỏa là tiếng gọi chung, thật ra có nhiều thứ:
- Hỏa hô hấp (khỉ hỏa dẫn hỏa): Dùng hóa Cốc Tinh, đồ ẩm thực để trợ Nguơn Tinh.
- Thần hỏa (ngưng hỏa, nhập hỏa, ly hỏa, tâm hỏa, lư trung hỏa...): để hóa hô hấp trợ Ngươn Thần.
- Hỏa nguyên thần: là hỏa Tiên Thiên Khí để hóa hình Huờn Hư Trợ Đạo.
Vậy chư Tu sĩ cần lưu ý phân biệt rõ ràng.
THI
Bên trong chủ tể một Thiên Can,
Hai Khí luân hành tiến thối đoan.
Thượng đáo Côn Lôn huờn tử phủ,
Khai thông Thiên Địa chuyển Thần Quang.
HỰU
Quang nhiên diệu hiệp Đao Khuê dung,
Tánh Mạng giao thời chuyển phúc trung.
Chỉ hữu tình lai Chân Chủng sản,
Thể, Huân, Phong, Vận, pháp minh tùng.
ĐẠO LỘ
Đạo lộ là đường âm dương thăng giáng, là Nhâm mạch, Đốc mạch.
- Nhâm mạch là mạch quản nhậm các mạch âm.
- Đốc mạch là mạch quản nhậm các mạch dương.
Hai mạch này rất quan hệ đến cơ sanh tử của con người.
Cơ thể của người mạch Nhâm ở phía trước bụng, khởi hành từ huyệt Hội Âm đến huyệt Thừa Tương.
Đốc mạch ở phía sau lưng, khởi hành từ huyệt Thừa Tương, lên Thiên Môn rồi xuống Trường Cường.
Hai mạch này có hai chổ đứt đoạn. Một ở miệng, một ở Cốc Đạo, cho nên sự sanh hóa mất căn bản. Công phu Thiền Định chủ trương nghịch chuyển hà xa: tấn Dương hỏa là chiết Khảm; thối Âm phù là điền Ly để trở thành Càn Khôn như thuở Thiên Tiên.
- Đốc mạch có Tam Quan: là Vĩ Lự, Giáp Tích và Ngọc Chẩm. Mỗi quan ải có ba Khiếu nên gọi là Cửu Khiếu hay "cửu khúc minh châu".
- Nhâm mạch có Tam Điền: là Hạ đơn điền, Trung đơn điền và Thượng đơn điền. Mỗi điền có ba vị trí nên gọi là "cửu đãnh huờn đơn".
Công phu vận Châu Thiên với mục đích:
- Khai thông hai mạch Nhâm, Đốc để chờ ngày "quá quan phục thực".
- Công phu tấn dương thối âm để chiết Khảm điền Ly, để điều hòa âm dương,
chuyển cơ sanh tử thành cơ bất sanh tử.
Cơ chuyển vận Pháp Luân có quy luật chung thủy theo cơ Hành Trụ khỉ chỉ. Hành khỉ thuộc thủy, Trụ chỉ thuộc chung. Và Hành Trụ khỉ chỉ đều tại Hư Nguy huyệt. Hư Nguy tại cung Khảm ngôi Tý. Chổ khởi đoan của cơ sanh âm, sanh dương còn gọi là Hà Xa lộ.
Pháp Châu Thiên vận khí luôn luôn đề phòng ở hai điểm gián đoạn giữa hai mạch Nhâm, Đốc bằng cách dùng chót lưỡi chống lên chổ trũng hàm trên để nối Nhâm, Đốc mạch, gọi là nối "thượng thước kiều" (bắc cầu trên) cho Khí thông xuống Trùng lầu về Khôn cung.
Nhíu hậu môn chuyển Khí từ Khôn cung qua Vĩ Lư, gọi là nối "hạ thước kiều" (bắc cầu dưới) cho Khí thông lên Càn đãnh.
Khi Nhâm, Đốc mạch đã được khai thông thì tất cả các kinh mạch trong châu thân cũng đều thông.
THI
Pháp vận như thời Đạo Lộ minh,
Giáng thăng mộc dục đắc công trình.
Võ văn biến hóa chân huân luyện,
Bửu phẩm kim đơn túc mạng sinh.
HỰU
Sinh cơ hành chỉ tại Hư, Nguy,
Tấn thối âm dương tín hiệp thì.
Nhâm, Đốc truyền thông Lư đãnh chuyển,
Càn, Khôn định vị lập căn ky (cơ).
Tôn sư ban ân chung.
Thăng...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.

  • Đức Giáo Tông Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 14-3 Quý Hợi
  • 10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
  • Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS)
  • Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides