Đại Đạo tạo con đò cứu khổ, Hướng đạo cần tự độ, độ tha. Năm chi bảy phái hiệp hòa, Trương cờ Đại Đạo xây tòa vạn linh.

LỜI GIAO CẢM

LỜI GIAO CẢM
(Kích vào hình ảnh để xem tiếp lời giao cảm)
  Xin chân thành cảm ơn quý huynh, tỷ, đệ, muội và quý độc giả đã ghé thăm NGÔI NHÀ ĐẠI ĐẠO

Thứ Năm, 26 tháng 5, 2011

TAM BỬU HIỆP LUYỆN

Tý thời, đêm 15 tháng 6 năm Quý Sửu  - Đại Đạo 47 (14.7.1973).THI
ĐẠO hóa môn sanh hiệp pháp huyền.
TỔ an thường tại nhật quang thiên.
LÃO hành châu vận cơ luân chuyển.
QUÂN phục thuần dương tiếp bổn nguyên.
Tôn sư tiếp dạy: "Tam Bửu Hiệp Luyện".
- Trời có ba báu là: Nhựt, Nguyệt, Tinh.
- Đất có ba báu là: Thủy, Hỏa, Phong.
- Người có ba báu là: Tinh, Khí, Thần.

Tuy nói ba báu nhưng chỉ có Thần và Khí, vì trong Khí có Tinh nên Khí với Tinh là một.
Thần Khí là âm dương, nên có biến hóa, thuận nghịch.
- Thuận thì có biến, là Dương biến ra Âm, Thần biến ra Khí, Khí biến ra Tinh, Tinh biến ra Người.
- Nghịch thì có hóa, là Âm hóa ra Dương, Tinh hóa ra Khí, Khí hóa ra Thần,
Thần hóa thành Tiên, Phật.
Tam Bửu vốn tương hiệp, nếu chẳng tương hiệp thì chẳng thành Chân Đạo, tức không siêu Phàm nhập Thánh. Thành Tiên, tác Phật đều do diệu pháp "luyện Tinh hóa Khí" ở Hạ đơn điền.
Luyện Tinh phải phân biệt Tinh thanh hay trược. Tức tâm động hay tâm bất động trong lúc Tinh sanh.
Thể dược phải biết thuốc già, thuốc non.
Phải rành công phu Khỉ hỏa và cảnh Chỉ hỏa.
Phải biết rõ công pháp quy lưôn lư.
Tùy theo cơ dương sanh và tùy theo đó mà luyện.
Tùy theo cơ huân luyện rồi tùy theo đó mà bổ phá thể.
Công phu lâu ngày thì Tinh trọn hóa thành Khí.
Cần chú ý: lúc Thánh Thai đã kết phải lập tức chấm dứt võ hỏa.
Lúc này dâm căn mới tự rút, đường dương quan mới tự đóng, nên lòng dục cũng chấm dứt từ đây, và gọi Trúc cơ đã thành đến công trình thứ tư.
Thánh Thai đã thành, phải lập tức Quá quan phục thực và dụng Thượng Thừa Thiên Cơ.
Lúc này Tam Quan Kim Môn mới mở hoát và khai thông Cửu Khiếu. Trên thông với Côn Lôn Càn Đãnh, dưới thông Thập Nhị Trùng Lầu, và về nơi Trung đơn điền.
Đến đây chấm dứt Tiểu Châu Thiên mà dùng Đại Châu Thiên hỏa hầu để ôn dưỡng Thánh Thai.
Thời gian này phải lo thâu phục Chân Khí để nuôi Thánh Thai cho viên mãn. Trong Thánh Thai phải luôn luôn tiềm phục Chân Khí nên còn gọi là thời kỳ "luyện Khí hóa Thần".
Trong 10 tháng dưỡng thai, thường nhập Đại định. Khi thai Thần đã viên túc, không được lưu lại lâu ngày nơi Trung điền, khiến cho hình thần khó siêu thoát mà phải di chuiyển lên Thượng điền, dụng công "luyện Thần huờn Hư"
Sau ba năm nuôi dưỡng luyện Thần huờn Hư tại đây, Chơn Thần mới có được thần thông biến hóa, xuất thần, nhập thần.
Rồi tiếp đến là "luyện Hư huờn Vô" theo pháp "Tối Thượng Nhất Thừa".
Sau đó Chơn Thần mới phóng hào quang lên cõi Đại La Thiên hoặc nhập vào Cực Lạc Quốc.
Tới đây Kim Đơn Đại Đạođã thành, Chứng quả Kim Tiên.
Thời gian chung thủy công phu chủ yếu là ở ba vị trí quan trọng là: Hạ điền, Trung điền và Thượng điền. Mỗi vị trí có một diệu dụng riêng. "Đạo tại tam điền" nên thứ lớp công phu không được sai thất. Chư môn đệ đọc kỹ toàn bài sẽ tự biết.



YẾU CHỈ NHƠN THÂN Tý thời, đêm 15 tháng 8 năm Qúy Sửu  - Đại Đạo 47 (11.9.1973).

CHÁNH đại hồi quang Khí vận hành,
THẦN chân hiển hóa huợt thời sanh.
BỔN lai Tánh thể như minh nguyệt,
XỨ xứ hòa an lợi đức hanh.
Tôn Thần thừa lệnh Đại Tiên báo đàn. Chư Chức Sắc nghiêm chỉnh tiếp lịnh. Tôn Thần xuất ngoại...

THI
Đạo thị hà như? Hà xứ lâm,
Đăng sơn hiệp thủy giả nan tầm.
Nhơn nhơn tự hữu Linh Sơn tháp,
Hội đắc huyền hoàng kiến diệu thâm.

HỰU
Thâm diệu huyền vi tại giác tâm,
Truyền thành chân chỉ bổn uyên thâm.
Hống Diên dẫn hiệp Thiên Linh xuất,
Lập định cơ trung bất ngoại tầm.
THI
LÝ THÁI BẠCH, lão chào mừng chư Chức Sắc Lưỡng Đài Hội Thánh. Lão ban ân chung, tịnh tọa nghe dạy.(Cười...)

Tu theo pháp Thượng Thừa, chư môn sanh cần phải biết rõ những phần trọng yếu trong cơ thân mà từ xưa đã gọi "Nhơn thân Tiểu Thiên Địa".
Con người có những cơ quan vi diệu đặc biệt, ứng hiệp với Trời Đất và được cảm ứng linh thông trong những giờ Thái Cực.
Thượng Đế đã ban cho mỗi con người một điểm linh quang có đủ lương tri, lương năng để điều hành Tánh, Mạng cho ứng hợp với Thiên lý.
Con người nơi thân có một cơ quan khác biệt muôn loài,
đó là sự an bài của tạo vật để làm nấc thang tiến hóa lên phẩm Vô Thượng.
Thân con người thượng hạ phân minh, có đủ Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái. Có một hệ thống vô cùng tinh vi, chẳng khác gì những hệ thống của vũ trụ bên ngoài. Có những cứ điểm rất trọng yếu, để cho những ai quán thông được, tạo nên một bước tiến cao vọt là "siêu Phàm nhập Thánh".
Nhưng vì đa phần con người đang sống trong thế giới Hậu Thiên, mãi mê theo sở thích dục tình nên nguơn thần, nguơn thể bị thức thần chiếm vị điều hành cuộc sống, do đó phần lương tri, lương năng ngày một lu mờ. Cái biết của con người chỉ trong giới hạn tư lự ngã chấp, gieo mầm cho dục tình nảy nở, sân tham bộc phát, tạo nhiều trái nghiệp nên mãi đắm chìm trong vòng luân hồi sanh tử trả vay.
Còn giới tu hành nếu chỉ quẩn quanh bên ngoài hình thức của tôn giáo, của chùa thất, của sắc tướng, âm thanh, thì làm sao đạt được chổ uyên uyên của Đại Đạo?
Người Chức Sắc đã nhận lãnh trách nhiệm của Đạo thì phải trọn giữ hai phần động tịnh cho tinh minh.
Động phải thật Chân động thì công cán mới mong thành tựu.
Tịnh phải thật Chân tịnh mới mong độ mình bước lên bờ giác.
Độ tha, độ kỷ phải song song, phải đúng chánh lý mới hợp danh là một Chức Sắc của nền Đại Đạo.
Trong con người có ngôi Càn thuần dương là chủ đích của cơ biến hóa. Có ngôi Khôn thuần âm là chủ đích để tạo nên con người có nhân phẩm ưu tú, cao thượng. Có đường lên Thiên cung, có đường xuống Địa phủ. Tu luyện cần khai thông hai con đường này mới mong đoạt cơ thoát hóa.
PHÚ VĂN
Người có một chơn thân sánh cùng Trời Đất.
Ngôi Tam Tài danh thật bất hư truyền.
Bởi người nay chẳng đạt được lý thâm uyên,
Nên mờ ảo Tánh bổn nguyên cơ tạo vật.
Nhồi kiếp sống triền miên theo hình chất,
Theo dục tâm, theo thức tánh, theo lợi quyền gây trái nghiệp.
Nợ trần hoàn bận rộn những ưu tư, trong biển khổ luân hồi dinh hư, sanh diệt.
Chỉ có hàng siêu nhân minh triết, mới ứng hiệp cơ Tiên Hậu: Nhất bản vạn thùvạn thù nhất bản.
Đã đem thân tâm soi sáng cõi Nhân Hoàng, hành Thiên Đạo, bảo toàn Thiên Mạng.
Thượng Thừa pháp là con đường hồi bản, là chánh phương mô dạng bức thư đồ. Để dứt nghiệp, để phục căn cơ, biện minh thuận nghịch, hiệp hồ công phu.
Người trung tính cương nhu trọn đủ,
Có Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái, Ngũ Hành.
Có đường giao Khí, Đất Trời, Nhâm Đốc,
Có giống tốt non Nam, có nước linh biển Bắc,
Có diệu dược Đông Tây, có Tiên Thiên gió Tốn,
Có lò chảo Âm Dương để luyện thuốc trường sanh Đơn Đạo.
Lại có ải quan trọng yếu, có Linh Khiếu nhiệm mầu,
Có cơ tấn thối âm dương, có cơ giao hiệp Khí Thần,
Có đường đi lên đến chín nước Thiên Đường,
Lại có lối xuống tận mười cửa Địa Ngục.
Có lên, có xuống, có vãng, có lai mới thấy Tiên Ông Phật Tổ.
Có hành, trụ, có khởi, có chỉ mới hiện Tiên Thiên Chân Khí.
Chân Khí khi ẩn, khi hiện, lúc tụ, lúc tán,
Phàm Khí cũng xuống, cũng lên, khi xuất, khi nhập.
Trời Đất có cơ lập cực, để xuất khai huyền Khí nhân ôn, để tạo cơ vĩnh cữu trường tồn, để hàm dưỡng bổn nguyên, để hóa sanh vạn loại.
Con người vốn tính trung linh mẫn, thực thụ Chân khí Đất Trời.
Nếu đạt được lý phục dương, biết được cơ Chân động tịnh, sẽ cùng Tạo Hóa hiệp nghi, sẽ xuất sanh chủng tử Mâu-Ni, sẽ luyện thành kim quang diệu thể, sẽ trực nhập hư vô bổn giác.
Hàng Tu Sĩ đã phát tâm Thượng Thừa thọ pháp, tức đã biện minh hội tập lý Chân.
Không còn ham luyến nghiệp hồng trần, mà đem tất cả vào thân tâm, nội thể.
Luyện Tam Bửu, thể Dược vật, lập Đãnh lư, biện thời hầu, định cơ tấn thối,
Nhưng phải thuần: Tâm hư linh, Thân bất động, Ý chơn định, Thần ngự Khí, thì Tam Huê sẽ tụ đãnh, Ngũ Khí sẽ triều nguơn. Sẽ chiết được Khảm, sẽ điền dược Ly, Càn Khôn sẽ phục nguyên, Đơn Đạo sẽ tựu thành.
Quyết lập chí tu hành đâu còn tâm khó dễ.
Chỉ có điều đại để phải tri nguyên,
Luyện Đạo là tạo khí hạo nhiên.
Thuần dương chơn quả chuyển triền thối âm.
Cơ âm dương vốn thậm thâm vô thượng,
Tại nơi người tạo biểu tượng thái hòa.
Sao mới gọi: tự vô nhi hữu là hữu tình lai hạ chủng.
Sao mới rằng: tự hữu nhi vô là luyện Tinh hóa thành Khí.
Chân quyết trao truyền vô giá bửu.
Kẻ thiện căn duyên tham cứu để thi công: Thần ngự Khí, Khí luyến Thần, tức quy căn, Thiên cơ hiệp là Chân truyền của nền Chánh Đạo.
Hỏa luyện dược, Vận Châu Thiên, độ số minh, văn võ thuần, là pháp mầu của cơ Thiền định.
Chân Khí đã sung mãn, Thánh chủng sẽ kết thai.
Dương quang tỏa hiện là linh triệu đại dược thành, cấp ly khổ hải.
Nhị quang lần mở ải, chờ đón khách minh tân.
Ngặt nỗi lối đi lắm ngại ngần,
Vững chí độ giang xuyên Cửu Khiếu.
Bồi hồi từng chặng vượt Tam Quan.
Cung trời lần đến tâm an nguyện,
Trung cảnh là nơi luyện thể chân.
Tịch chiếu tức tâm dương khí hóa,
Công trình chân ý chú trì nhân.
Và ở đây:
- Hư cảnh tịnh an, thập ngoạt hoài thai, Chân tức hóa.
- Pháp thân chiếu hiện, lục căn tiềm ẩn, Huệ quang khai.
Tâm tức như như, nhị Khí dung dung.
Thai nguyên tư dưỡng, nhất tướng giai Không.
Tâm vô vọng động, Tánh vô sanh diệt.
Tự tại vô ngại, trí huệ lãng triệt.
Đạo thai thành hình, nhập Vô Thượng Giác.
Tịch tịnh vi lạc, hồn nhiên thuần nhất.
Xuất định đáo thời, trụ quy Pháp tánh.
THI
Thai viên cảnh đáo bạch quang huy,
Thân pháp báo lai xuất định kỳ.
Nhũ dưỡng long cung hoàn chí thiện,
Thần thông xuất nhập hựu quy y.
Vô nhân, vô ngã, vô lai khứ,
Bất diệt, bất sanh, bất thị phi.
Cửu trụ tịch nhiên, thành Chánh quả,
Hư linh thoát hóa, hiệp Vô Vi.
- Vô vi Đại Đạo, bí quyết thọ truyền Tiên Phật pháp.
- Nhân sanh Tánh Mạng, song tu diệu hiệp Khí Thần tông.
Thượng Thừa Yếu Chỉ thành công.
(Cười...)
Bần Đạo hôm nay điểm hóa đề tài "Yếu chỉ Nhơn thân" trong phẩm Thượng Thừa.
Về Cửu Trùng Đài hôm nay chỉ có tam đệ: Thái Bình, Ngọc Thống và Ngọc Danh. Tam đệ đại diện cho toàn Chức Sắc thống Đạo mà cũng là người thâm niên trách nhiệm, tuổi đã cao nên cần gấp rút tịnh dưỡng để bổ cứu cho Thần Khí mình và làm gương cho toàn thể Chức Sắc.
Có tịnh dưỡng mới khai thông trí tuệ, mới có phương tiện lãnh hội được Chơn pháp Đại Đạo.
Bần Đạo sơ lược đại khái, chư Chức Sắc nam nữ suy nghiệm, hầu ứng dụng cho công phu tu luyện.
Tới đây Bần Đạo ban ân chung chư phận sự Lưỡng Đài.
Thăng...


THI
Một gốc chia ba lập bửu thân,
Ấy là nguyên thể: Khí, Tinh, Thần.
Người người có sẵn trong mình đủ,
Biết hiệp luyện thành Đạo chí Chân.
THI
Trụ nơi phương thốn nhớ đừng quên,
Tai mắt chú chăm đúc móng nền.
Thư thái xem chừng cơ động thủ,
Chập chờn trăng nước quyện cuồng lên.
THI
Tu Đơn Đại Đạo phải truy nguyên,
Tổ Khiếu là nơi luyện Hống Diên.
Thiên Địa tuần huờn nguồn chí thiện,
Thậm thâm pháp giới chủ Tiên Thiên.
THI
Chân Tinh, Dược vật thị dương Tinh,
Long Hổ giao thời tự xuất sinh.
Hội đắc chân truyền hành nghịch chuyển,
Thần lai nhập nội thủ công trình.
THI
Luyện Dươc tinh tường chuyển pháp luân,
Giáng thăng kích động hỏa phong huân.
Đãnh lư tiến thối châu lưu phục,
Hạp tịch quân bình lưỡng Khí tuân.
THI
Lưỡng Khí huân chưn tạo thể chân,
Thượng thăng Càn Đãnh hộ dương Thần.
Trục thiêm Ly Khảm Càn Khôn định,
Đại Đạo Kim Đơn hiển pháp thân.
Đàn đến đây đã mãn. Bần Đạo ban ân chung.
Thăng...

CƠ ĐỘNG TỊNH, TIẾN THỐI VÀ GIAO HIỆP CỦA ÂM DƯƠNG
Tý thời, đêm 15 tháng 7 năm Quý Sửu  - Đại Đạo 47 (13.8.1973)

THI
THÀNH tâm ứng hiệp Đạo vô vi,
HOÀNG thiện chân cơ báo lịnh kỳ.
BỔN thể như như vô thiện ác,
CẢNH đồng nội ngoại khứ lai quy.
Tôn Thần chào mừng Chư Thiên Chức đàn tiền. Tôn Thần báo cơ có Lão Tổ lâm đàn dạy Đạo.
Tôn Thần xin chào...
THI
ĐÔNG đảo lại qua đủ lớp người,
PHƯƠNG hành bận rộn khắp nơi nơi.
LÃO, sanh, bệnh, tử màn nhân thế,
TỔ trái tôn thừa chủng nghiệp rơi.
HỰU
Rơi rơi chủng tử nghiệp tham sân,
Biết thuở nào xong cái nghiệp trần?
Bể khổ nhấp nhô vùi khách tục,
Nguồn Thiên phẳng lặng đợi truyền nhân.
Đem thân phối chiếu dòng thanh thủy,
Đạt lý thành toàn đức nghĩa nhân.
Khuyên nhủ trường tu mau định giới,
Cho phần Chơn Mạng hiệp Chơn Thần.
Tôn Sư chào mừng Chư Ân Thiên đàn tiền.

Giờ nay Tôn Sư giải đề tài: "Cơ động tịnh, tiến thối và giao hiệp của âm dương".
Miễn lễ đàn tiền tịnh tâm, an tọa.
Cơ động tịnh, tiến thối và giao hiệp của âm dương có hai quy luật: Quy luật của Hậu Thiên và quy luật của Trung Thiên Đạo tức cơ Thiền Định.
+ Quy luật của Hậu Thiên về cơ động tịnh lại cũng có hai quy luật: Động tịnh theo cơ biến hóa âm dương ở bên trong con người; Cơ biến hóa âm dương động tịnh của thế giới bên ngoài do quy luật tự nhiên mà có.
- Đặc tính động tịnh của Hậu Thiên trái ngược với đặc tính của Trung Thiên Thiền Định.
- Hậu Thiên động thì sống, tịnh thì chết.
- Thiền Định động là chết, tịnh là sống.
Con người Hậu Thiên sống hoàn toàn lệ thuộc vào cơ động tịnh của Hậu Thiên.
- Hễ Trời đến thì sống động, con người cũng sống động.
- Hễ Đất đến thì chết tịnh, con người cũng lặng chết theo.
Con người Hậu Thiên còn có cái Tâm động tịnh. Tâm động do sự cảm xúc ngoài cảnh sắc, ngoại âm thanh, do thức thần tư lự điều khiển, không làm chủ được cơ tịnh. Cơ tịnh lại do thiên nhiên chi phối.
Sự sống động của con người hoàn toàn lệ thuộc, hoàn toàn giả tạm, không tự chủ được. Do đó mà cơ sanh tử của con người cũng tùy thuộc theo Thần âm dương điều phối.
- Cơ thiền định Trung Thiên Đạo là nghịch chuyển cơ biến hóa âm dương của Hậu Thiên để khử trược lưu thanh, để thuần dương hóa Tánh Mạng Hậu Thiên thành Chân Tánh Mạng Tiên Thiên, tức là hoàn toàn làm chủ cơ động tịnh của âm dương.
-Làm chủ về cơ động, tức biết tạo nên cơ Chân động.
-Làm chủ về cơ tịnh, tức biết tạo nên cơ Chân tịnh.
Cả hai cơ động tịnh hoàn toàn tự chủ, không bị lệ thuộc vào đâu cả. Như vậy là đã nắm lấy cơ diễn biến của âm dương động tịnh, tức là đã đoạt được quyền Tạo Hóa.
Chư môn sanh đã quyết tâm bước vào ngưỡng cửa Thượng Thừa cần phải suốt thông về cơ động tịnh của âm dương này.
+ Cơ tiến thối của âm dương:
- Cơ diễn biến của âm dương Hậu Thiên còn có cơ tấn thối, tồn vong, dinh hư, tiêu trưởng. Cơ diễn biến này kể cả bên trong lẫn bên ngoài của con người và vũ trụ.
- Hễ một dương tiến là một âm thối.
- Hễ một âm tiến là một dương thối.
Quy luật tồn vong, dinh hư, tiêu trưởng cũng do tấn thối này mà có.
- Dương tượng cho hiền nhân quân tử, cho thiện từ, cho chánh lý, cho giác ngộ, cho trí tuệ, cho Tâm, cho Tánh, cho Thần, cho hồn, cho khỏe mạnh.
- Âm tượng cho sự nham hiểm, cho tiểu nhân, cho tà thuyết, cho si mê, cho vật chất, cho Thức thần, cho Thân, cho Mạng, cho Khí, cho phách, cho bệnh hoạn v...v...
Con người Hậu Thiên, Chơn Thần bị màn vô minh (dục vọng bản ngã) chi phối nên phần lương tri, lương năng giảm sút mà phần tư lự niệm tưởng tiến tới. Tinh thần ra ngoài hàng khách quan, còn vật chất tiến vào bên trong, hàng chủ yếu.
- Cơ Thiền Định thì ngược lại, không chú trọng, không thuận tùng theo cơ tiến thối, tồn vong của âm dương Hậu Thiên, mà chuyển phục về Tiên Thiên, tức là đưa tâm thần quy tàng yên tĩnh bên trong. Biết thời dương sanh mà tấn dương, biết thời âm sanh mà thối âm, cho âm dương quân bình để chỉnh định Càn Khôn, đoạt cơ Tạo Hóa mà tạo nên chủng tử Tiên Phật.
+ Cơ giao hiệp của âm dương:
Cơ giao hiệp của âm dương cũng có hai quy luật:
- Quy luật giao hiệp âm dương của Hậu Thiên có hai trạng thái: trạng thái của thiên nhiên và trạng thái của con người.
* Trạng thái giao hợp của thiên nhiên là thời Thái Cực.
- Trong một ngày đêm, giờ Tuất và giờ Hợi là hai giờ Thái Cực, hai thành phần âm dương của thế giới bên ngoài mới giao hiệp. Con người và vạn vật cũng đều như vậy. Nhờ có hai giờ âm dương giao hiệp này mà có cơ tiếp nối của sự sống còn.
- Trong một tháng có năm ngày Thái cực là những ngày từ 26 đến 30.
- Trong một năm có hai tháng Thái Cực là tháng Tuất và tháng Hợi.
- Trong một đại nguơn hội có hai hội Thái Cực là hội Tuất và hội Hợi.
Thời của Thái Cực là thời của âm dương giao hiệp.
* Còn về con người: Ngoài sự giả tá của cơ âm dương giao hiệp theo thiên nhiên, con người còn có cơ âm dương giao hợp, đa phần do dâm tâm dấy động rồi sanh ra con dâm, cháu dâm, thành một lớp người dâm, nên bị mắc tội Tổ Tông về Mạng căn.
- Còn quy luật giao hiệp âm dương của cơ Thiền Định Trung Thiên Đạo là căn bản của cơ tu luyện để phục nguyên.
Trong con người đã có đủ âm dương, tức có Tánh, Mạng, có Thần, Khí, có Tâm, Tức.
Tu luyện chủ đích là đem hai thành phần này hợp lại một nơi Tổ Khiếu, gọi là cơ âm dương giao hợp.
Thái Cực được xuất hiện từ đây, gọi là Cốc Thần bất tử.
Thái Cực hiện nơi Cốc Thần lâu ngày thì Xá Lợi kết.
Thiên Cơ là cơ dương động, là trạng thái vô cùng trọng đại trong cơ thể con người.
Chư môn sanh nếu không biết được Thiên Cơ này thì công phu tu luyện không thể tựu thành.
Tu luyện Thượng Thừa là công phu vô cùng trọng đại, có được thành công là nhờ ở bước đầu có sự học hỏi, suy nghiệm suốt thông yếu lý, mới vượt qua mọi trở ngại trong công việc công phu thường nhựt.
Trong sự học vấn Dịch lý, phần Tâm học là phương tiện tất yếu cho công phu tu luyện.
Giờ đây Tôn Sư lược qua một số điểm cần phải biết để chư môn sanh làm đề tài tham khảo.
Dịch lý Khai nguyên: Vô Cực nhi Thái Cực.
Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái, 64 quẻ, tổng thể 384 hào.
Vô Cực còn gọi là tự nhiên vốn cao, vốn tột, trên tất cả, lớn hơn tất cả nên không thể dùng lời nói hay văn tự để diễn tả được. Chỉ có những bậc đã chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mới thông suốt được ngôi Vô Cực.
Thái Cực hiện nơi cung Vô Cực là Hoa Khai Kiến Phật.
Thái Cực có được hiện nơi cung Vô Cực, thì Vô Cực mới thành chí huyền chí diệu. Lão Tử đã nói: "huyền chi hựu huyền" là nói điểm này vậy.
Thái Cực có đặc tính là tịnh, nhưng đã cực tịnh thì có động sanh, là sanh khối Thái Dương.
Trong khối Thái Dương có ngôi Thiếu Âm.
Qua thời gian, ngôi Thiếu Âm trưởng vượng cực độ hóa thành ngôi Thái Âm. Trong Thái Âm lại có hàm tàng ngôi Thiếu Dương. Tức là Lưỡng Nghi, Tứ Tượng hiện đủ từ đây, đều do âm dương động tịnh biến hóa mà có.
Tiếp sanh Ngũ Hành và hiển bày Bát Quái, 64 quẻ, 384 hào, để diễn tả ba hiện tượng: Tiên Thiên, Hậu Thiên và Trung Thiên Thiền Định.
- Tiên Thiên là hiện tượng tịch tịnh như nhiên, bất sanh bất diệt.
- Hậu Thiên là hiện tượng luôn luôn biến dịch và có cơ biến hóa hai chiều: chiều sanh và chiều tử.
Đại diện hai hiện tượng này là quẻ "Hỏa Thủy vị tế", Thánh nhơn xếp vào quẻ 64, là quẻ cuối cùng của Hậu Thiên. Hỏa Thủy vị tế là hiện tượng của lớp người Hậu Thiên sanh tử, tử sanh.
Sở dĩ có hiện tượng sanh tử này là vì tâm Càn của con người Tiên Thiên bị động nên biến thành "Ly Âm Tâm Hỏa" Hậu Thiên. Thận Khôn cũng bị động nên biến thành "Khảm Dương Thận Thủy".
Lửa ở trên tâm, hằng thượng đằng, thượng lậu, hằng náo động Thiên cung, hằng tạo nên lửa sân hận, hằng đốt cháy Linh Đơn mà tạo ra cơ sanh tử.
Nước ở dưới thận, thường hạ thấm, hạ lậu, hạ sanh tạo nên bể khổ và đắm chìm biết bao
khách đa tình và tạo ra cơ lai lai, khứ khứ.
Trong 64 quẻ, chỉ có hai quẻ: Bát Thuần CànBát Thuần Khôn là hoàn toàn thuần dương và thuần âm.
- Còn Trung Thiên Thiền Định có hóa mà không có biến, có sanh mà không có diệt. Chủ đích là thuần dương hóa tất cả để phục quy Thái Cực, phục quy Vô Cực. Như quẻ "Thủy Hỏa vị tế" chủ đích là giao hiệp âm dương, tạo cơ vô lậu. Bởi thế, dụng công thiền định phải biết cách lấy lửa đun cho nước bốc hơi, cho nước lửa đều vô lậu, tức vô sanh vô tử.
Đó là pháp môn "Thần ngự Khí".

Thăng...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sau trước nếu một lòng tự quyết,
Thì đạo, đời, muôn việc do ta,
Chánh tâm thành ý đó là,
Tu thân xử thế tề gia vẹn toàn.
Lỡ một kiếp đâu còn cơ hội,
Trễ một ngày khó đổi ngàn vàng,
Đừng rằng thế sự đa đoan,
Ví như một giấc mộng tràng rồi thôi.

  • Đức Giáo Tông Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 14-3 Quý Hợi
  • 10 phút tìm hiểu ĐẠO CAO ĐÀI .
  • Tác giả: Đào Công Tâm (Bản PPS)
  • Dương Trọng Thu biên tập lại theo Google Slides