Tý thời, đêm 15 tháng 5 năm Qúy Sửu - Đại Đạo 47 (15.6.1973).
THI
NGÔ hiệp thời sanh chuyển Pháp luân,
MINH cơ nhất bản Đạo tinh thuần.
CHIÊU an Thiên mạng hành Thiên đức,
Giáng điểm Thánh huyền tạo Thánh nhân.
Sơ khởi chí thành hoàn chí thiện,
Thiền khai Thần huệ hội Thần chân.
Tịnh trung chỉ niệm tiêu ma chướng,
Thủ đắc dương triền cấp thể huân.
Giờ này Ngô huynh thừa lệnh chuyển cơ giảng đề tài "Sơ Thiền Tịnh Thủ Hư Vô" trong phẩm Thượng Thừa Bửu Kinh này.
Tất cả đàn trung hãy tịnh tâm am tọa nghe dạy:
Sơ thiền còn có danh từ là Luyện kỹ Trúc Cơ. Là luyện vô niệm, luyện tâm hoàn toàn thanh tịnh hư vô, còn gọi là luyện Tâm thuần Dương.
Tâm có Tiên Thiên Tâm và Hậu Thiên Tâm.
- Tiên Thiên Tâm: vốn thuần dương, thuần thiện, thuần chân vô ngã, vô tử vô sanh. Là tâm của Thượng Đế, của Như Lai, của Thánh Nhân, của các bậc Chân Nhân.
Tâm này có đặc tính tịch tịnh như nhiên, không một hào ly tà hỏa.
Tâm này không hề nghĩ thiện, nghĩ ác hay bất cứ một đối tượng nào của thế giới Nhị Nguyên. Cũng không hề chấp có, chấp không, chấp Tâm, chấp Tướng, chấp Tánh, chấp Mạng hay thiên chấp nhất biên.
- Hậu Thiên Tâm: Từ Thái Cực sanh Lưỡng Nghi là phân phát âm dương, sanh Tứ Tượng... là cơ trùng trùng chuyển hóa thị hiện. Thị hiện từ thế giới bên trong con người, đến thế giới hữu hình bên ngoài.
Sự thị hiện đó là do cơ biến hóa âm dương của Hậu Thiên.
Cơ biến hóa đại khái như: thạnh - suy, bĩ - thái, trị - loạn, an - nguy, tấn - thối, tồn - vong, dinh - hư, tiêu - trưởng, sanh - tử, tử - sanh... gọi là trăm ngàn đối tượng.
Nơi con người là lưỡng dạng tâm, là tâm bất nhất, là nhị Tánh, là phàm Tánh, là Ly âm Tâm hỏa...
Lưỡng dạng tâm đã tạo cho loài người tranh chấp hơn thua, mạnh hiếp yếu, đi đến chỗ tương tàn, tương sát lẫn nhau.
Lưỡng dạng tâm đã biến chốn thanh tịnh tu hành thành một hội trường tranh luận cao thấp chánh tà. Nên đã biến Chánh pháp ra tà pháp.
Lưỡng dạng tâm của con người đã gây ra nhiều tội lỗi không kể sao cho xiết.
Vì thế, lưỡng dạng tâm là hiện tượng nguy cơ của phương xử thế.
Còn Ly âm Tâm hỏa là hiện tượng nguy cơ của sự tu luyện, vì Ly hỏa là loại lửa thiêu đốt Chơn đơn trong người.
Ly âm Tâm hỏa có loại dâm tâm là nguy hiểm nhất, đã từng thúc giục những kẻ tu hành thiếu nghị lực phải bỏ cuộc và rơi sâu xuống vực thẳm.
Sơ Thiền chủ trương luyện cái tâm Hậu Thiên thành cái tâm Thiên Tiên như đã nói trên rồi mới bước vào công phu luyện Mạng.
Luyện Mạng khi đã thành Thánh Thai còn phải trở lại luyện tâm lần cuối cùng mới thành Chân Tâm hoặc Thuần Dương Tâm.
Thiền tịnh là pháp luyện Tâm an tịnh, dứt niệm lự ưu tư, thanh lọc giác linh. Luyện Tánh vô vọng động, thuần định, giải thoát vạn duyên trần nghiệp, dứt vọng ý sanh tâm, tạp niệm ngã chấp, đoạn căn phiền não.
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý sáu căn thức này hay tạo nghiệp khổ triền miên đều quy trung tức đưa vào tận bản cung quy y thọ Pháp (có chỗ gọi đóng sáu cửa là đây).
Mắt, mũi, miệng là ba ải trọng yếu, là đường thoát lậu tam bửu, phải được cẩn mật nghiêm phòng để cho các thinh âm, sắc tướng bên ngoài không có đường nhập nội tâm quấy rầy, tạo nên muôn duyên vạn niệm.
Nhất là nhãn quan là cửa ngỏ thoát Thần du ngoại giới, cầm đầu cho các căn thức kia tác hại.
Bên trong tâm được an tịnh linh minh thì mọi căn nguyên phiền nảo, tà niệm, ác ý, sân tham đều biến dạng trong hư vô không cảnh, tức tâm được thanh tịnh.
Nhờ tâm thanh tịnh mà cơ luyện Mạng mới thành công, Thần Khí mới quy tụ, mới tiếp nhận được Chân Khí linh huyền bao la của vũ trụ vào nội Khiếu bồi bổ cho huyễn thân hóa thành Pháp thân.
Khi thiền tịnh: ngồi kiết già hoặc bán già, hoặc ngồi ghế tùy nghi, nhưng lưng phải ngay thẳng, sống mũi phải thẳng hàng với rốn, đôi mắt hạ thấp mí trên, gọi là xũ rèm mắt. Dụng Chơn ý và Khí hô hấp chuyển Thần từ Nê Huờn Cung hạ xuống Hạ Đơn Điền (Khí căn), đôi nhãn quang trực chiếu vào đó cho tức tức quy căn khiếu, gọi là "ngưng Thần tụ Khí nhập ư Khí huyệt chi trung". Hễ cực tịnh được lâu ngày thì thân tâm thơ sướng nhẹ nhàng thoải mái.
Nhờ Tánh, Mạng tương giao; Thần, Khí tương hiệp trong Thái Cực Cung mà có cơ dương sanh động tiếp theo.
THI BÀI
Trường tu tịnh hư vô Chân Pháp,
Điểm môn đồ quy nạp Linh Căn.
Công phu vi diệu vô ngần,
Thừa hành còn phải chí chân nguyện thành.
Đủ nguyện lực mới hành Đại Đạo,
Có thiện căn mới bảo toàn công.
Có cầu lý Đạo tinh thông,
Mới đem Tánh, Mạng vào trong Thượng Thừa.
Phần Sơ thiền sớm trưa luyện kỹ,
Vì Đạo là trực chỉ chân tâm,
Đạo không ảo tưởng xa tầm,
Mà trong nội thể thâm thâm diệu huyền.
Nếu còn nặng nghiệp duyên khó thấy,
Nếu còn mang phải quấy biện minh,
Còn ham quyền tước, lợi danh,
Còn theo sắc tướng, còn sanh giả hình,
Còn phóng túng thất tình lục dục,
Còn sân dâm, còn lúc mê si,
Còn vương vật dục kéo trì,
Còn trong tứ khổ, còn đi lạc lầm.
Tu luyện Đạo là tầm nội thể,
Xét biết mình phục chế bên trong.
Tâm, Thần là chủ nhân ông,
Là chân chân giác, là không không trần.
Tâm tức Phật, Tâm chân là Phật,
Phật tức Tâm, Tâm thất là Ma.
Phật Tâm giác chiếu chan hòa,
Như như bình tịnh chẳng xa, chẳng gần.
Chân thiện hóa thu lần Tánh Đạo,
Tánh bổn lai hạo hạo nhiên không.
Thuần thành trí giác khai thông,
Sáu căn đóng cửa, ba lòng toàn vô.
Cơ nghịch vận pháp đồ thể tượng,
Quy vạn thù hiệp chưởng nhất nguyên.
Công phu kính cẩn kiền thiền,
Luân hành máy tạo cơ huyền diệu năng.
Công khởi nhập điểm phần sơ bộ,
Giải nghiệp trần điều độ thân tâm.
Tâm hư, Tánh định, Thần chân,
Bảo nguơn tam thể tiếp vâng thường hành.
Đoạn tứ tướng phân rành ảo tưởng,
Thâu phóng tâm quên chướng ngại hình.
Để cho nội giới linh minh,
Cho Thần Khí hiệp, cho tình Tánh quy.
Ấy mới gọi sơ kỳ kiến tạo,
Là Trúc Cơ cho bảo nguyên hanh.
Là công Tánh Mạng thuần thanh,
Diệu nhiên dung hóa tượng thành Đao Khuê.
Bảo linh căn hiệp tề nhất chũng,
Tam bửu quy chuyển dụng lò vàng.
Ngưng Thần, tụ Khí hồi quang,
Tức tâm, tâm tức nhịp nhàng ôn nhu.
Ly âm hỏa tiếp thu Khảm nội,
Long hổ giao chung hội nhứt đoàn.
Đãnh lư lập hướng Khôn Càn,
Chuyển xoay máy tạo, dinh hoàn định phân.
Thủ dược vật hạ tần hải để,
Tải huỳnh kim lên bệ Càn cung.
Trục Duyên thêm Hống đến cùng,
Hống thành Càn tượng, Duyên tùng Khôn diêu.
Tụ hỏa pháp là phiêu bí chỉ,
Lửa ấm thường Duyên Khí mới thăng.
Hấp, để, toát, bế làm căn,
Điền Ly, chiết Khảm hóa hoằng công phu.
Sơ tý thời hành chu vận số,
Tạo hóa dung là độ dương sanh.
Thiên nhân hiệp nhất tự thành,
Tu đơn phải biết, phải rành cơ Thiên.
Nội ngoại Khí huyền huyền tương tiếp,
Luyện phách hồn hóa hiệp Tiên Thiên.
Giải cơ thất chánh Khôn Kiền,
Chuyển cơ an định, chí huyền hư linh.
Thiền cực tịnh chờ sinh Chân động,
Thiên cơ triền hộ tống dương lai.
Quan môn đóng chặt bên ngoài,
Nhập thần điều hóa, nghịch khai dẫn hồi.
Nơi khiếu trung chỉnh ngôi ôn dưỡng,
Giữ ngoài trong chẳng chướng ngại tâm.
Chẳng còn niệm lự sai lầm,
Minh minh, ảo ảo, thâm thâm bảo toàn.
Châu thiên vận Khôn Càn mấy độ,
Cho hóa thuần khỏi chỗ lậu sanh.
Thiền tịnh, tịnh mãi động hành,
Động hành, tịnh vận, động sanh thời hầu.
Chừng nào hoán thể quy đầu,
Là Chân tiểu dược Minh châu sắp thành.
THI
Pháp đạo Tiên gia chuyển ngũ hành,
Huyền quan Tổ Khiếu tự quy sanh.
Định thần hội nhập song mâu chiếu,
Chân ý thông linh lưỡng Khí hành.
Diệu ứng huyền cơ Tiên Hậu hóa,
An nhiên Khiếu nội Khí Thần thanh.
Tu đơn rõ lý minh tinh hiện,
Chỉnh định Càn Khôn tại bản doanh.
Chư phận sự Hiệp Thiên Đài chú ý: Tất cả các đàn ban kinh được đọc và giảng tại Thánh Thất. Việc ban hành phải chờ lệnh sau.
Giải bốn chử: Hấp, Để, Toát, Bế trong bài:
- Hấp: Mũi hít khí Hậu Thiên để tiếp Tiên Thiên.
- Để: Lưỡi trụ thượng ngạc để rước cam lồ.
- Toát: Giữ kín Cốc Đạo cho hỏa tụ.
- Bế: Xũ rèm mắt, chiếu ngược vào trong cho Dược ngưng Đơn kết.
Giờ mãn đàn, Ngô huynh ban ân chung.
Thăng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét