Thánh Thất Trung An, ngày 24-5-ĐĐ.30 (Ất Mùi)
(13-7-1955)
THI
QUAN cảnh ngày nay thấy cũng lo,THÁNH tâm để mắt khúc quanh co;ĐẾ đàn ban pháp ai thành nguyện,QUÂN tử dù sao nhớ hẹn hò.
Chào chư Hiền đệ.
Chư
đệ, một người đới Thiên hành Pháp gặp phải bước đời đen tối, phải làm sao để
cho cõi thế quang minh, chứ không lẽ khoanh tay ngồi đợi? Khoanh tay ngồi đợi,
thì sao tránh được tiếng phàn nàn của đạo hữu trong lúc khó khăn. Lão để lời
nhủ khuyên các đệ phải luyện chí trượng phu, phải lập tâm Bồ Tát, mà xốc gánh
Đạo Pháp lên đường cứu đời trong cơn mạt kiếp. Trên cao xanh kia, Tiên Phật sẵn
chờ, ngôi vị Thiêng Liêng còn đợi để thưởng cho khách hữu công lo tròn sứ mệnh.
Các
đệ luôn luôn bình tỉnh mà xét đoán mọi sự lý ở đời. Ngày ngày đi qua, ngày ngày
sắp tới, không một vật gì không chuyển biến theo thời gian hoàn cảnh. Trong một
khoảnh khắc đã thấy vô lượng biến thiên, từ thể này sang qua trạng thái khác,
không nghĩ không ngừng, mục đích cũng là đi đến nơi toàn chơn chí thiện.
Nhưng
chúng sinh sống dưới cõi đời nầy mãi bị lăn theo vòng biến chuyển, thân khổ tâm
sầu, kiếp kiếp trầm luân, dịch hóa theo cái hữu vi ảo cảnh pháp trần; ngũ quan
cứ phục dịch cho mê vọng phàm tình, nhận cái giả làm chơn, lấy cái hư làm thực,
nào có mấy ai tự nói mình say, nào được mấy ai tìm được cái chơn trong cái giả,
cái thực trong cái hư, cái hoàn toàn trong cái ảo vọng.
Xét
ra chỉ người thiện căn họ hay nhàn lạc trong chốn điêu đứng của mọi người, họ
tịnh an không biến chuyển theo hình ảnh bên ngoài, lòng họ lúc nào cũng sáng
suốt cảm thông cùng vạn vật, nhờ đạt được cái lý mầu nhiệm bên trong, mà họ
giải thoát được ra ngoài dịch hóa giả cảnh. Nhờ sự giải thoát trần tâm mà họ có
những ngày giờ thanh tịnh, họ luôn luôn giao cảm được cùng Trời Đất Thánh Thần,
học nhiều pháp môn giải thoát cao hơn để cầu sự giải thoát hoàn toàn và trọn
vẹn, nên lúc nào lòng họ cũng gieo mầm thiện hạnh, mở lối đường lành, để chờ
đón nhơn sinh những ngày hội ngộ.
Nay
thiên hạ còn say còn đắm trong bao trò ảo hóa, thì người của các đệ cũng không
phương gì kế gì ngăn cản nhủ khuyên ai được; mà cũng không cần đón ngăn thiên
hạ mà làm gì! Vì bao nhiêu pháp trần ảo cảnh nó làm che lấp cả ngũ quan ý thức
rồi, có nói cũng nhọc lời, mấy ai lưu ý. Chi bằng ta tạo sẵn một con đường vinh
quang thiện mỹ mà chờ, rồi thiên hạ sẽ đến ngay trong lúc cơ Trời định lệ.
Chúng sinh có đi đường nào, ngã nào mà không bước vào con đường giải thoát.
Vậy
các Hiền đem chuỗi Từ bi cho Lão trấn thần và dạy đôi việc.
KỆ
Thế giới Càn Khôn tóm một bầu,
Cao Đài danh hiệu độ năm Châu;
Siêu phàm nhập Thánh chơn thường lạc,
Khử ám hồi minh pháp nhiệm mầu
Thần khí vận hành thông vạn pháp
Thân tâm thanh tịnh đạt thanh cao
Cao Đài niệm niệm Kim quang hiện
Đoạn nghiệp trừ phiền đệ nhất châu.(…)
Châu
ấy được làm phép tùy thân mà cũng dùng để cứu đời trong tất cả vô thường tai
nạn.
Số
18 cứ nhơn lên, nhơn mãi cho đến khi nào thành hằng sa vô tận số thì sẽ thấy cơ
mầu nhiệm của Trời.
Một
vòng luân chuyển không ngừng lại tìm thấy có hai con đường, con lên con xuống.
Lên xuống là Pháp Đạo phi thường. Tất cả vạn hữu trong Càn Khôn không một vật
gì đứng ngoài mà không quay theo bánh xe Tạo Hóa.
Đã
biết luật Trời mầu nhiệm, biến chuyển không ngừng, nhưng trong cái động tác kia
lại có cái vô vi làm chủ, điều khiển luật tự nhiên. Cái vô vi ấy là Chơn thần
Tạo Hóa. Chơn thần kia sở dĩ không bị lăn quay theo sự biến chuyển là nhờ giữ
được cái Trung. Trung ấy là gốc chơn thường thanh tịnh. Nhờ được chơn thường
thanh tịnh mà Chơn thần Tạo Hóa mới đem lại sự sống còn cho vạn hữu vạn vật,
đem sự điều hòa và tình thương yêu cho cả vạn loại mà giữ lẽ sinh tồn. Cái chơn
thường nó đem cái vui cho người đương đau khổ, đem cái sống cho kẻ sắp
liều thân, hay cho người toan hại chúng,
nó làm cho dịu bớt lửa lòng, hay sóng trần xô xát. Nên luyện chuỗi bồ đề có một
công hiệu thâu phóng tâm, gom thần một điểm, khiến được ngũ quan, tâm thức, trừ
được lục trần bát thức, đem lại cho người một sự sáng suốt vô ngằn, để người
lấy sáng suốt kia mà suy tính số căn của vạn loại, định lệ của Đất Trời.
Thấy
một bài toán nhơn trên bao nhiêu con số chồng nhau, càng chồng càng gát, gát
mãi chồng cao cho đến đâu cũng không qua một dãy số thành. Mà số thành của nó
dù bao nhiêu cũng không ngoài 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Lấy 9 nhơn 2, các đệ
thấy 2 của 9, hay 9 trong 2.
Ta
thử tìm nguyên nhân con số 2 do đâu mà có? tìm để làm gì? Có lợi cho bản thân,
cho dân cho nước chăng?
Hay
lắm! Nếu không tìm thì sao thấy? Mà kẻ thấy là bởi tìm.
Các
nhà bác học về các khoa thiên văn địa lý cũng nhờ tìm mà biết trên Trời dưới
Đất, của quí đồ hay. Nhưng về người tu hành, không bảo phải tìm như các nhà Kỹ
sư, bác vật tìm vật ở ngoài thân, vật ở ngoài thân là của Trời Đất. Trời Đất
kia là ảo hóa hữu hình, có rồi lại mất, thấy đó mà không, nào khác gì như mây
nổi bèo tan, chứ vật ở trong tâm là vật sở hữu của mọi người có sẵn, vật đó là
chìa khóa mở cửa Cửu Trùng Thiên, khóa đường sinh tử luân hồi. Chìa khóa mầu
nhiệm kia là con số 0. Vòng này nằm trên con số 9 nhơn 2, hay nói rõ hơn, 2 lần
số 9 mà thành bài tính giải thoát, cũng như bài cộng lại của 108, nó đã thành
hình Tiên Hậu nhị thiên: 36:72. Số đó là Âm Dương hòa hiệp điều chuyển cơ sanh
hóa chúng sanh, các đệ bình tỉnh mà tìm; càng tìm lại càng thấy lại càng làm
cho tinh thần tiến đạt.
Còn
việc làm của các đệ, như Phổ thông, Phước thiện, Hành chánh, Minh tra, cũng tùy
tài năng mà lập công tu học. Lão y cho
mà Lão muốn
sao phải được thuận hòa.
Hội
Tam Giáo đã gần đến rồi các đệ thành kỉnh mà chờ truyền Đạo Pháp. Mỗi người lo
gội rửa tâm thân sẽ thấy mầu nhiệm, THẦY từ đây sẽ tùy cơ đạt thức của các đệ,
mà Ngài đến cùng các đệ bằng tâm tưởng hay bằng cảm giác một cách trực tiếp mầu
nhiệm mà dạy Đạo.
Ở
đây, không phải THẦY thương gì các đệ; mà ở đâu cũng không phải THẦY ghét gì,
hay nói rõ hơn không phải ghét thương như thường tình đã biết. Ví như nơi nào
người ta ngồi được là nơi ấy có chỗ ngồi. Cũng như THẦY hằng ngự tại chỗ
"Hòa", và hòa khí là nơi THẦY hay lai vãng. Vì lẽ đó, mà có gần có
xa, có đi có lại. Vậy các đệ rán tạo nơi mình một cảnh "Hòa" đặng
THẦY ngự mà truyền Đạo pháp. (…)
Vậy
Lão chào. Có gì cần có Liễu Nhứt Chơn Nhơn đến.
TIẾP ĐIỂN:
THI
LIỄU đạo một tay nghĩ cũng buồn
NHỨT tâm tu học sớm tròn vuông,
CHƠN tình đối với cơ khai hóa
NHƠN ngã phải hòa luyện mẫu khuôn.
Chào
các đệ Thiên mạng.
BÀI
Gió
hè phưởng phất bên rèm,
Nhẹ nhàng khỏe khoắn ngồi xem Huỳnh Đình.
Đạo mầu trên
mọi công trình,
Trên lòng bác ái, trên tình hòa thân.
Trên người yêu
nước thương dân,
Trên đường giải thoát, trên phần tương lai.
Ngồi đương
nghĩ tính thở dài,
Trước thềm bạn Nguyễn Chơn Khai đến chào.
Trong cơn nước
lửa xôn xao,
Việc Đời việc Đạo việc nào nên lo,
Đời gần mất cả
tự do,
Đạo gần nghe khúc điệu hò vinh quang.
Anh em câu
chuyện luận bàn,
Nỗi mừng nỗi lại bàng hoàng lo lo.
Bước đời gai
gốc quanh co,
Sự đời như thể lửa lò đương nung.
Người đời nộ
khí bừng xung,
Cõi đời bom đạn đì đùng không ngơi!
Cơ đồ gánh
nặng bước đời,
Bước đời còn khó mà người thiếu vai.
Giữa hồi Đại
Đạo hoằng khai,
Phổ Thông, Phước Thiện ngày mai thế nào?
Ngày mai Phước
Thiện danh cao,
Chiếc thuyền đưa rước đồng bào muốn đi.
Đưa người giải
thoát qui y,
Đưa người tâm đức vào
thi hội nầy.
Đưa đường giáo
hóa Đông Tây,
Đưa công quả lại đắp xây thành trì.
Xây nhà Bác ái
Từ bi,
Đắp nền hạnh phúc tứ vi Đại đồng.
Cho người thấy
pháp thần thông,
Cho Đời với Đạo cảm thông lần hồi.
Ngày mai Phước
Thiện lên chồi,
Mầm non nay được trồi trồi lên cao.
Bông thơm quả
ngọt dồi dào,
Cơm no áo ấm đồng bào cùng vui.
Cửa nhà Phước
Thiện tới lui,
Con nhà Phước Thiện được nuôi được bày.
Bày cho ruộng
phước biết cày,
Giống lành biết tỉa một mai nên người .
Làm cho kẻ
khóc lại cười,
Làm cho bốn biển tốt tươi hòa bình.
Thôi chào quí đệ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét